Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Đánh giá hệ thống chính sách tôn giáo, tín ngưỡng của việt nam giai đoạn 1990 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN HOÀNG PHƢƠNG ANH

ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1990 - 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ VIệT NAM HọC

Hà Nội, 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN HOÀNG PHƢƠNG ANH

ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH
TÔN GIÁO, TÍN NGƢỠNG CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1990 - 2015

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam Học
Mã số: 60220113

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Trƣờng Sơn

Hà Nội - 2017




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
đã công bố theo đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi
tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực
tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chƣa từng đƣợc công bố trong bất kỳ
nghiên cứu nào khác.
Tác giả luận văn

Trần Hoàng Phương Anh


LỜI CẢM ƠN

Trƣớc hết, với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi
lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo đang công tác tại Khoa Việt Nam Học và
Tiếng Việt; các thầy, cô giáo đang công tác tại Trƣờng Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu, để tôi có thể hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn giảng viên hƣớng dẫn đã dành
nhiều thời gian tâm huyết, trực tiếp hƣớng dẫn, tận tình chỉ bảo và tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài và hoàn
chỉnh bản Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam Học.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã động viên, khích lệ, chia sẻ, giúp đỡ và đồng hành cùng tôi trong
cuộc sống cũng nhƣ trong quá trình học tập, nghiên cứu.


Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

Trần Hoàng Phương Anh


MỤC LỤC
Mở đầu .............................................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ........................................................................................ 4
3. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 6
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: SƠ LƢỢC VỀ TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM..... 7
1.1. Một số quan niệm về tín ngƣỡng, tôn giáo trên thế giới và Việt Nam ...... 7
1.1.1 Quan niệm về tín ngƣỡng, tôn giáo của các nhà khoa học trên thế giới .. 7
1.1.2. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tín ngƣỡng, tôn giáo ........... 10
1.2. Bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tín ngƣỡng, tôn giáo ...... 11
1.2.1. Bản chất của tín ngƣỡng, tôn giáo ........................................................ 11
1.2.2. Nguồn gốc của tín ngƣỡng, tôn giáo ..................................................... 12
1.2.3. Tính chất của tín ngƣỡng, tôn giáo ....................................................... 13
1.2.4. Chức năng của tín ngƣỡng, tôn giáo ..................................................... 15
1.3. Đặc điểm tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam ............................................. 16
1.3.1. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo .......................................................... 16
1.3.2. Tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính chất đan xen, hòa đồng, khoan
dung ................................................................................................................. 17
1.3.3. Ở Việt Nam, không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn, chi phối ý thức
hệ mang tính lâu dài ........................................................................................ 18
1.3.4. Trong tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam khó phân biệt đƣợc cái thiêng

và cái tục.......................................................................................................... 19
1.3.5. Tín ngƣỡng, tôn giáo Việt Nam góp phần thần thánh hóa những ngƣời
có công với gia đình, làng nƣớc ...................................................................... 20


1.3.6. Trong tín ngƣỡng, tôn giáo Việt Nam, vai trò của ngƣời phụ nữ đƣợc
thể hiện rõ rệt................................................................................................... 21
Tiểu kết ............................................................................................................ 23
CHƢƠNG 2: CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO
CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1990 2015 ................................................................................................................. 25
2.1. Những chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà
nƣớc Việt Nam ................................................................................................ 25
2.1.1. Phƣơng hƣớng, quan điểm, chủ trƣơng đối với tín ngƣỡng, tôn giáo và
công tác tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam ................... 25
2.1.2. Những chủ trƣơng, chính sách cụ thể đối với tín ngƣỡng, tôn giáo ..... 27
2.2. Tình hình thực hiện chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của
Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015 ........................... 30
2.2.1. Hoạt động quản lý của nhà nƣớc đối với hoạt động tín ngƣỡng........... 31
2.2.2. Hoạt động quản lý của Nhà nƣớc đối với hoạt động tôn giáo .............. 32
2.3. Phản hồi của các tôn giáo đối với chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015 ............. 36
Tiểu kết ............................................................................................................ 42
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ CHỦ TRƢƠNG, CHÍNH SÁCH
TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN 1990 – 2015 ................................................................ 44
3.1. Các thành tựu của chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng
và Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015 ..................................... 44
3.1.1. Thể chế hóa ngày càng cao quan điểm, chủ trƣơng, chính sách về quyền
tự do tín ngƣỡng, tôn giáo ............................................................................... 44
3.1.2. Góp phần làm cho đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo phát triển ổn định ... 46



3.1.3. Đóng góp tích cực trong công tác đấu tranh ngoại giao của Nhà nƣớc
Việt Nam trên lĩnh vực tôn giáo, nhân quyền ................................................. 47
3.2. Hạn chế trong chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Nhà nƣớc Việt Nam
trong giai đoạn 1990 – 2015............................................................................ 51
3.2.1. Một số quy định trong chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo chƣa đảm bảo
tính cụ thể, khả thi ........................................................................................... 51
3.2.3. Một số nội dung chƣa hoặc mới quy định một phần trong chính sách tín
ngƣỡng, tôn giáo.............................................................................................. 54
3.3. Hoàn thiện chính sách đối với hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo để thích
nghi với tình hình mới ..................................................................................... 62
3.3.1. Đối với hoạt động tín ngƣỡng ............................................................... 62
3.3.2. Đối với hoạt động tôn giáo.................................................................... 64
3.4. Một số dự báo về tình hình quản lý tín ngƣỡng, tôn giáo đến năm 2020 67
Tiểu kết ............................................................................................................ 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 74


Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Cơ sở khoa học
Tín ngƣỡng, tôn giáo tồn tại với tƣ cách là một thực tại xã hội. Trong
thực tiễn đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo của các quốc gia trong thế giới hiện
nay, nhà nƣớc nào cũng đều phải xây dựng và hoàn thiện luật pháp về tín
ngƣỡng, tôn giáo.
Nhà nƣớc – tôn giáo – luật pháp có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Trong điều kiện đất nƣớc ta đang xây dựng một nhà nƣớc pháp quyềnxã hội
chủ nghĩa, thực tại nhà nƣớc luôn đóng vai trò chủ thể trong mối quan hệ nhà

nƣớc – tôn giáo, nhằm giải quyết mối quan hệ có tính cốt lõi của chính sách
tôn giáo. Trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, mối quan hệ này hiện đã có
những biểu hiện mới. Vƣợt qua giai đoạn tôn giáo đứng trên nhà nƣớc, nhất là
trong các xã hội Âu – Mỹ, phần lớn các nhà nƣớc hiện nay luôn coi tôn giáo,
đúng hơn là các tổ chức tôn giáo là thành tố của xã hội dân chủ.
Đối với Nhà nƣớc Việt Nam, đặc biệt kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ
XI (2011) nhu cầu hoàn thiện chính sách pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo
đƣợc coi nhƣ một phần quan trọng trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, nhà nƣớc pháp quyền chỉ có thể quản lý đất nƣớc bằng hệ
thống luật pháp; đồng thời trong bối cảnh mở cửa, hội nhập và toàn cầu hóa
hiện nay, còn phải hòa nhập với hệ thống công ƣớc quốc tế.
Việt Nam là một đất nƣớc đa dân tộc, đa tôn giáo, tín ngƣỡng vô cùng
phong phú, lâu đời. Vì thế, đúng nhƣ Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XI
(2011)đã chỉ rõ, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách luật pháp về tín ngƣỡng,

1


tôn giáo; công tác này hiện đã trở thành một nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu
dài.
Thực tiễn đời sống tôn giáo và quá trình thực thi đƣờng lối đổi mới
chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo từ cuối thập kỷ 1990 trở lại đây, bên cạnh
thành tựu còn nhiều vấn đề đặt ra, thậm chí có tính thách thức.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa dạng về loại hình tín ngƣỡng,
tôn giáo. Nếu tính cả tín ngƣỡng và tôn giáo, Việt Nam có đến trên 90% dân
số có tín ngƣỡng, tôn giáo, trong đó có 24 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm gần
27% dân số [3, tr.77]. Sự đa dạng về dân tộc và tôn giáo đã góp phần tạo nên
sự phong phú và đặc sắc của văn hóa Việt Nam.

Là một nƣớc phƣơng Đông, xét về lịch sử quan hệ giữa nhà nƣớc và
tôn giáo ở Việt Nam thì nhà nƣớc thƣờng dựa trên nền tảng tôn giáo, sử dụng
tôn giáo nhƣ một công cụ chính trị tƣ tƣởng, văn hóa, đạo đức để xây dựng
đất nƣớc.
Trong quá trình vận động cách mạng và điều hành đất nƣớc cũng nhƣ
quản lý xã hội, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm đến vấn đề dân tộc và tôn
giáo; đồng thời luôn có những chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách đúng đắn,
phù hợp với tôn giáo trong từng thời kỳ của cách mạng, trêncăn bản tôn trọng
và đảm bảo quyền tự do tín ngƣỡng, tôn giáo của nhân dân. Thực tiễn cho
thấy, trong chính sách dân tộc và tôn giáo, thì việc đoàn kết dân tộc và tôn
giáo có mối quan hệ biện chứng với nhau, cũng là vấn đề đƣợc ƣu tiên hàng
đầu.
Chủ trƣơng, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc đối với tôn
giáo đã góp phần quan trọng vào những thắng lợi to lớn của dân tộc. Đó là
Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, kháng chiến chống Pháp, kháng

2


chiến chống Mỹ thắng lợi và tái thiết đất nƣớc sau ngày giải phóng miền Nam.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề nhận thức còn hạn chế,
nhất là tƣ tƣởng chủ quan duy ý chí, nên công tác đối với tín ngƣỡng, tôn giáo
còn những tồn tại cần đƣợc khắc phục.
Bƣớc vào thời kỳ đổi mới, với phƣơng châm nhìn lại và đổi mới đối với
tín ngƣỡng, tôn giáo và công tác tín ngƣỡng, tôn giáo; đồng thời đặt trong
điều kiện mở cửa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nƣớc đã ban hành chủ
trƣơng, chính sách mới đối với tôn giáo (từ cuối năm 1990), xây dựng thể chế
chính trị theo hƣớng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, khiến cho mối
quan hệ “nhà nƣớc – tôn giáo – luật pháp” cũng có thay đổi quan trọng. Đổi
mới tƣ duy, chính sách về luật pháp tín ngƣỡng, tôn giáo để phù hợp với xã

hội hiện đại cần kế thừa những nhân tố hợp lý đã đƣợc đề cập và bổ sung,
phát triển những điểm mới, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới.
Thực hiện chủ trƣơng, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nƣớc, công
tác đối với tín ngƣỡng, tôn giáo đã mang lại những kết quả rất quan trọng, làm
thay đổi đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam đi theo hƣớng tích cực và
tiến bộ, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển của đất nƣớc. Tuy
nhiên, trƣớc biến đổi nhanh chóng của đời sống tín ngƣỡng, tôn giáo, trong
hơn 25 năm qua, dƣới tác động của toàn cầu hóa, bên cạnh những thành tựu
đạt đƣợc, chính sách và pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của Việt Nam đã và
đang bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần đƣợc khắc phục.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu của mình là “Đánh giá hệ
thống chính sách tôn giáo, tín ngƣỡng của Việt Nam giai đoạn 1990 2015” nhằm đáp ứng yêu cầu về mặt khoa học và thực tiễn.

3


2. Lịch sử nghiên cứu
Trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình, bài báo, tạp chí nghiên
cứu về vấn đề chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà
nƣớc Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về tình hình tín
ngƣỡng, tôn giáo cũng nhƣ chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo và việc áp dụng
chính sách trong thực hiện công tác tín ngƣỡng, tôn giáo, phải kể đến nhƣ:
“Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Đặng
Nghiêm Vạn, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội (2001); “Vấn đề tôn giáo trong
cách mạng Việt Nam – Lý luận và thực tiễn”củatác giả Đỗ Quang Hƣng, Nxb
Chính trị quốc gia Hà Nội (2005); “Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn
giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Lữ chủ biên năm 2008; “Tôn giáo
và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Xuân, Nxb
Thế giới (2015); “Tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện chính sách tín ngưỡng,
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Minh Khải, Nxb Chính trị

quốc gia Hà Nội ( 2013)...
Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài báo nghiên cứu về chính sách tín
ngƣỡng, tôn giáo đƣợc đăng trên các tạp chí có uy tín nhƣ: “Thực hiện tốt
chính sách tôn giáo trong thời kỳ mới” của tác giả Nguyễn Văn Sáu, đăng
trên Tạp chí Lý luận chính trị (số 4/2001); “Những bước tiến trong việc thể
chế hóa chủ trương, chính sách về tôn giáo của nước ta thời gian gần đây”
của tác giả Bùi Đức Luận, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo (2003); “Để
có cái nhìn mới về tôn giáo và công tác tôn giáo” của tác giả Đặng Nghiêm
Vạn, đăng trên Tạp chí Cộng sản (số 19/7/2003); “Quá trình hoàn thiện chủ
trương chính sách về tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta trong 60 năm (1945
– 2005)” của tác giả Nguyễn Đức Lữ, đăng trên Tạp chí Công tác tôn giáo (số
3/9/2005)...

4


Qua các công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí nghiên cứu về chủ
trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam nói
trên, có thể nhận định rằng việc xây dựng, hoàn thiện và bổ sung các chính
sách liên quan đến vấn đề tín ngƣỡng, tôn giáo luôn nhận đƣợc sự quan tâm
đặc biệt. Đây không những là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nƣớc
mà còn là trách nhiệm của toàn thể nhân dân Việt Nam, nhằm ổn định tình
hình xã hội, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nƣớc.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trong những năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, dƣới sự lãnh đạo của
Đảng cùng với những đổi mới về cơ chế, chính sách, pháp luật trên tất cả các
lĩnh vực nói chung; chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của Việt
Nam nói riêng ngày càng ổn định, thƣờng xuyên đƣợc sửa đổi, bổ sung với
tinh thần thực sự cầu thị để phù hợp với tình hình thực tế, đáp ứng nguyện

vọng và nhu cầu chính đáng của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
tựu đạt đƣợc, chính sách và pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của nƣớc ta vẫn
còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập.
Đề tài nhằm góp phần đánh giá, làm rõ thành tựu và hạn chế của chính
sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của Việt Nam từ năm 1990 đến năm
2015. Đề tài cũng góp phần khẳng định những nội dung của chính sách, pháp
luật còn giá trị, những nội dung cần sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp
với tình hình thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập
quốc tế của đất nƣớc.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

5


Hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn giáo của Việt Nam
trong giai đoạn 1990 – 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đánh giá về hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngƣỡng, tôn
giáo của Nhà nƣớc Việt Nam thông qua các Sắc lệnh, Nghị quyết, Nghị định,
Pháp lệnh, Chỉ thị... của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 –
2015.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Một trong các phƣơng pháp chủ đạo đƣợc vận dụng trong quá trình
nghiên cứu là phân tích tƣ liệu liên quan đến chủ trƣơng, chính sách của Đảng
và Nhà nƣớc Việt Nam đối với tín ngƣỡng, tôn giáo để làm cơ sở lý thuyết.
Từ đó sử dụng các phƣơng pháp phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh, thống
kê, dự báo để đƣa ra những nhận xét, đánh giá về hệ thống chính sách tín
ngƣỡng, tôn giáo của Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015 một
cách toàn diện và có cơ sở khoa học.

6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc chia thành 3 chƣơng cơ
bản nhƣ sau:
- Chƣơng 1: Sơ lƣợc về tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam
- Chƣơng 2: Chủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn giáo của Đảng và
Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 – 2015
- Chƣơng 3: Một số nhận xét vềchủ trƣơng, chính sách tín ngƣỡng, tôn
giáo của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam trong giai đoạn 1990 - 2015

6


CHƢƠNG 1: SƠ LƢỢC VỀ TÍN NGƢỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
1.1. Một số quan niệm về tín ngƣỡng, tôn giáo trên thế giới và Việt Nam
1.1.1 Quan niệm về tín ngƣỡng, tôn giáo của các nhà khoa học trên thế
giới
Tín ngƣỡng ra đời từ rất sớm, ngay trong xã hội nguyên thủy và sau đó
từng bƣớc hình thành tôn giáo. Tín ngƣỡng, tôn giáo là phạm trù rộng, khá
phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn, nên hiện nay vẫn còn có nhiều ý kiến
tranh luận, chƣa thật sự thống nhất. Tùy mục đích, góc độ tiếp cận nghiên cứu
mà các nhà khoa học đƣa ra các quan niệm khác nhau và mỗi quan niệm đều
có sự hợp lý riêng.
Tín ngƣỡng đƣợc quan niệm là niềm tin, sự ngƣỡng mộ, sùng bái, tôn
thờ của con ngƣời vào những lực lƣợng siêu nhiên với quan niệm rằng những
lực lƣợng siêu nhiên ấy có khả năng chi phối, thậm chí quyết định số phận
con ngƣời. Tín ngƣỡng cũng đƣợc quan niệm là những hình thức tôn giáo
nguyên thủy, để phân biệt với tôn giáo hiện đại.
Tôn giáo có nghĩa rộng và nghĩa hẹp khác nhau. Tôn giáo theo nghĩa
rộng là một hiện tƣợng xã hội, một “hình thái ý thức xã hội gồm những quan
niệm dựa trên cơ sở tin và sùng bái những lực lượng siêu tự nhiên quyết định

số phận con người, con người phải phục tùng, tôn thờ”[38, tr.80]. “Tôn giáo
là sự tin tưởng và sùng bái sức mạnh siêu phàm của thần linh, bắt đầu xuất
hiện từ cuối công xã nguyên thủy, lúc đầu có hình thức sơ khai, gọi là tôn
giáo nguyên thủy, sùng bái tự nhiên như bái vật giáo: thờ thần lửa, sinh thực
khí, thờ Tô tem, sau đó phát triển thành đa thần giáo, nhất thần giáo và thành
tôn giáo quốc tế”[54. tr.81]. Theo nghĩa hẹp, tôn giáo là hiện tƣợng xã hội
mang tính lịch sử, bao gồm ý thức về lực lƣợng siêu nhiên, tổ chức, hoạt
7


độngtôn thờ lực lƣợng siêu nhiên mà sự tồn tại và phát triển của nó là do sự
phản ánh hƣ ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc của con ngƣời.
Tôn giáo bao gồm toàn bộ quan niệm, ý thức, tình cảm, hành vi, hoạt
động, tổ chức tôn giáo. Nó đồng nghĩa với đạo, để chỉ các tổ chức tôn giáo
nhƣ đạo Phật, đạo Kitô, đạo Cao Đài… Theo đó, tôn giáo không chỉ là một
hình thái ý thức xã hội mà còn là một thiết chế xã hội – một lực lƣợng xã hội
có tổ chức.
Nhƣ vậy, tín ngƣỡng và tôn giáo quan hệ với nhau, trong đó tín ngƣỡng
là phạm trù rộng, còn tôn giáo là phạm trù cụ thể. Tôn giáo nằm trong tín
ngƣỡng, tôn giáo là cái biểu hiện bên ngoài của tín ngƣỡng. Không thể có
những hoạt động tôn giáo nếu nhƣ không có niềm tin tôn giáo – tín ngƣỡng.
Bên cạnh đó, các nhà khoa học đã và đang sử dụng nhiều phƣơng pháp
tiếp cận khác nhau để giải thích cụ thể hơn về tín ngƣỡng, tôn giáo nhƣ: tiến
hóa luận, chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, miêu tả,
di truyền, lịch sử, so sánh, cấu trúc chức năng, hiện tƣợng học chú giải, biểu
tƣợng và huyền thoại…. Do đó, hiện có khoảng 250 quan điểm khác nhau về
tín ngƣỡng, tôn giáo [30, tr. 79]. Đáng chú ý hơn cả là quan điểm về tín
ngƣỡng, tôn giáo của các ngành Thần học, Tôn giáo học, Triết học, Xã hội
học, Dân tộc học/ Nhân học, Tâm lý học, Đạo đức học, Văn hóa học, Ngôn
ngữ học…

Đa số các nhà Dân tộc học/ Nhân học và Văn hóa học luôn coi tôn giáo
là một khái niệm tƣơng đối chung chung, là hiện tƣợng văn hóa mang tính
phổ quát. Một quan điểm chung về tôn giáo chỉ cho phép so sánh giữa các hệ
thống văn hóa khác về hình thức bề ngoài. Do đó, nhà Dân tộc học/ Nhân học
ngƣời Anh là Edward Bernett Tylor đã đề xuất một quan điểm tối thiểu: “Tôn

8


giáo là niềm tin vào thực thể tâm linh, hay sự tồn tại của thần thánh”[30, tr.
79]. Tƣơng tự, nhà lý thuyết xã hội học ngƣời Anh là Herbert Spencer cho
rằng: “Tôn giáo chủ yếu nhằm vào niềm tin ở sự tồn tại khắp nơi của một vật
gì đó vượt ra ngoài sự hiểu biết”[30, tr.79]. Còn nhà Ngôn ngữ học ngƣời
Anh, gốc Đức là Friedrich Max Muller đã nhìn thấy trong mọi tôn giáo “một
cố gắng để hiểu cái không thể tưởng tượng được, để diễn đạt điều không thể
giải thích được, một khát vọng hướng về vô tận”[30, tr.79].
Nhà Nhân học ngƣời Mỹ là Clifford Geetz đã đề xuất một quan điểm
về tín ngƣỡng, tôn giáo khá tổng quát rất đang chú ý: “là một hệ thống văn
hóa qua đó những vấn đề cơ bản của sự tồn tại được thể hiện và vận
hành”[30, tr.79]. Sau đó ông đã cụ thể hóa và nhấn mạnh hơn yếu tố biểu
tƣợng văn hóa và sự tác động của tín ngƣỡng, tôn giáo vào chủ thể văn hóa
nói chung: “Tôn giáo là một hệ thống biểu tượng, hoạt động nhằm thiết lập
những tâm trạng và động cơ mạnh mẽ, rộng khắp và bền lâu trong con người
bằng cách đề ra những khái niệm về một trật tự chung của sự tồn tại và khoác
cho những khái niệm này một hào quangcủa sự thật khiến cho những tâm
trạng và động cơ đó dường như là hiện thực duy nhất”[30, tr.79]
Nhìn từ góc độ xã hội học, quan điểm của nhà Xã hội học ngƣời Pháp
là Émile Durkheim cũng rất đáng quan tâm khi bàn về tín ngƣỡng, tôn giáo,
đó là: “Tôn giáo là một hệ thống có tính chất gắn bó của những niềm tin và
thực hành liên quan đến các điều thiêng liêng, nghĩa là được tách biệt, cấm

đoán, các niềm tin và thực hành gắn bó tất cả những ai gia nhập vào một
cộng đồng tinh thần, được gọi là giáo hội”[30, tr.79].

9


1.1.2. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tín ngƣỡng, tôn giáo
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần khẳng định “Tín ngưỡng, tôn
giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân”[30, tr.79]. Quan điểm
này đã thể hiện sự tôn trọng đối với tình cảm tôn giáo của nhân dân – điều mà
các nhà sáng lập của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khẳng định. Quan điểm này
cũng đã bác bỏ những nhận thức sai lầm cho rằng tín ngƣỡng, tôn giáo chỉ là
sự bịa đặt, dối trá hay sự lừa bịp quần chúng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đƣa ra quan điểm rằng: “Tín ngưỡng, tôn
giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta”[22, tr.78]. Quan điểm này đã góp phần thể hiện sự nhận thức
lại đúng đắn hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo, đặc biệt
là quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự tiêu vong của tôn giáo. Tại
buổi trả lời cử tri Hà Nội vào ngày 10/5/1958, trƣớc câu hỏi “Tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không?”; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả
lời: “Không. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, tín ngưỡng hoàn toàn tự do. Ở
Việt Nam cũng vậy…”[35, tr.80]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự tồn
tại tất yếu khách quan của tôn giáo cùng dân tộc trong suốt quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Tƣ tƣởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: “Phát huy giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp trong tôn giáo”[22, tr.78]. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
ghi nhận và trân trọng, đề cao những giá trị văn hóa, đạo đức của tôn giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh những giá trị nhân văn đặc sắc riêng của
từng tôn giáo, coi các tôn giáo và chủ nghĩa Mác có ƣu điểm chung là cùng
mƣu cầu hạnh phúc cho loài ngƣời. Nhƣng do bị chi phối bởi tƣ duy cứng

nhắc và định kiến về tôn giáo, có thời kỳ chúng ta chỉ nhấn mạnh đến mặt tiêu
cực của tôn giáo mà chƣa chú ý mặt tích cực của nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh
10


một lần nữa khẳng định tôn giáo chứa đựng nhiều nhân tố tích cực, giá trị văn
hóa, đạo đức tốt đẹp, phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội trong thời kỳ
đổi mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nhận thức rõ sự khác biệt giữa tín
ngƣỡng truyền thống của ngƣời dân Việt Nam với các tôn giáo theo cách nghĩ
của phƣơng Tây. Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Người An Nam không có linh
mục, không có tôn giáo theo cách nghĩ của châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên
hoàn toàn là một hiện tượng xã hội”[22, tr.78]. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
nhiều lần nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải tôn trọng tín ngƣỡng truyền thống
của nhân dân, đồng thời khuyến khích nhân dân giữ gìn, phát huy những nét
đẹp của tín ngƣỡng truyền thống.
1.2. Bản chất, nguồn gốc, tính chất, chức năng của tín ngƣỡng, tôn giáo
1.2.1. Bản chất của tín ngƣỡng, tôn giáo
Tín ngƣỡng, tôn giáo là một hiện tƣợng xã hội, một hình thái ý thức xã
hội phản ảnh hƣ ảo hiện thực khách quan, biến lực lƣợng tự nhiên, xã hội
thành lực lƣợng siêu nhiên; là “thế giới quan lộn ngược”[10, tr.77]trong việc
giải quyết mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên, xã hội. Tín ngƣỡng, tôn
giáo về bản chất, không phảilà sản phẩm của thần thánh, không phải là cái
siêu nhiên, thần bí mà là sản phẩm của xã hội. Tín ngƣỡng, tôn giáo do con
ngƣời sáng tạo ra, là biểu hiện của sự khốn cùng hiện thực, đồng thời là sự
phản kháng chống lại sự khốn cùng hiện thực ấy. Đó là sự phản kháng tiêu
cực, yếu đuối, tự phát của tầng lớp nhân dân bị áp bức. Xét đến cùng, tín
ngƣỡng, tôn giáo áp bức con ngƣời về tinh thần, làm tha hóa con ngƣời. Theo
C. Mác, tín ngƣỡng, tôn giáo đã làm cho con ngƣời trở nên thụ động, cam
chịu bị áp bức và trở thành nô lệ cho lực lƣợng siêu nhiên thần bí. Trong xã


11


hội có giai cấp đối kháng, giai cấp thống trị sử dụng tôn giáo nhƣ một phƣơng
tiện để áp bức, nô dịch và thủ tiêu ý chí đấu tranh của quần chúng lao động.
Tuy nhiên, trong tín ngƣỡng, tôn giáo cũng chứa đựng những giá trị
văn hóa đạo đức nhất định, phù hợp với xã hội mới mà con ngƣời đang xây
dựng, đòi hỏi con ngƣời phải biết kế thừa, phát huy. Tín ngƣỡng, tôn giáo
luôn mang dấu ấn lịch sử của thời đại, của dân tộc mà nó ra đời, tồn tại và nó
cũng biến đổi, thích ứng với sự biến đổi của xã hội. Thông thƣờng, khi mới ra
đời, các tín ngƣỡng, tôn giáo đều phản ánh nguyện vọng của quần chúng,
nhƣng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển thƣờng bị các thế lực,
giai cấp thống trị lợi dụng biến thành công cụ phục vụ cho lợi ích của chúng,
chống lại lợi ích của quần chúng. Tín ngƣỡng, tôn giáo còn tồn tại lâu dài, còn
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân.
1.2.2. Nguồn gốc của tín ngƣỡng, tôn giáo
Nguồn gốc kinh tế - xã hội của tín ngƣỡng, tôn giáo
Do trình độ sản xuất thấp kém, con ngƣời bất lực trƣớc sức mạnh tự
nhiên, sức mạnh xã hội, làm cho họ tìm đến với các lực lƣợng siêu nhiên, thần
thánh và hi vọng đƣợc che chở, cứu vớt. V.I.Lênin khẳng định: “Sự bất lực
của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra
lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự
bất lực của con người trong cuộc đấu tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin
vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”[31, tr.79].
Nguồn gốc nhận thức của tín ngƣỡng, tôn giáo
Do trình độ nhận thức thấp kém, con ngƣời không lý giải đƣợc các hiện
tƣợng bí ẩn của thế giới khách quan, họ đã tƣởng tƣợng và gán cho nó sức
mạnh siêu tự nhiên, tạo ra các biểu tƣợng tôn giáo. Trong tác phẩm
12



Lútvíchphoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen chỉ
rõ: “Tôn giáo sinh ra… từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thủy của
con người về bản chất của chính họ và thế giới tự nhiên bên ngoài, xung
quanh họ”[10, tr.77]. V.I.Lênin phân tích thêm: “Khả năng xuất hiện tôn
giáo nằm ngay trong phép biện chứng của quá trình nhận thức; nhận thức
phát triển theo con đường xoắn ốc, ngoằn ngoèo trong quá trình đó dễ dẫn
tới sự đơn giản, xơ cứng, phiến diện, ảo tưởng, trừu tượng hóa – cách xa sự
vật ban đầu… sẽ dẫn đến chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo”[31, tr.79].
Nguồn gốc tâm lý của tín ngƣỡng, tôn giáo
Những trạng thái tâm lý tiêu cực nhƣ sự sợ hãi, cô đơn, bất hạnh, đau
khổ, nhất là sợ hãi trƣớc cái chết, thậm chí ngay cả trạng thái tâm lý tình cảm
tích cực nhƣ: lòng biết ơn, sự kính trọng, sự hài lòng và sự ngƣỡng mộ trƣớc
vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, xã hội cũng làm nảy sinh nhu cầu tôn giáo.
V.I.Lênin cho rằng: “sự áp bức đối với quần chúng lao động… trước những
thế lực mù quáng của chủ nghĩa tư bản đang hàng ngày, hàng giờ gây ra cho
những người lao động… những nỗi thống khổ cực kỳ ghê gớm… cũng đe dọa
đem lại cho họ và đang đem lại cho họ sự phá sản “đột ngột”, “bất ngờ”,
“ngẫu nhiên”, làm cho họ phải diệt vong, biến họ thành một người ăn xin,
một kẻ bần cùng…, và dồn họ vào cảnh chết đói, đó chính là nguồn gốc sâu
xa của tôn giáo hiện đại”[31, tr.79]. Ngoài ra, truyền thống, phong tục, tập
quán, thói quen cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự hình thành và phát
triển của tôn giáo.
1.2.3. Tính chất của tín ngƣỡng, tôn giáo
Tính lịch sử

13



Tín ngƣỡng, tôn giáo là một hiện tƣợng lịch sử, là sản phẩm của hoàn
cảnh lịch sử. Nó ra đời khi con ngƣời đã có khả năng trừu tƣợng, khái quát
hóa về những hiện tƣợng tự nhiên và xã hội. Tín ngƣỡng, tôn giáo vận động
và biến đổi cùng với sự vận động, biến đổi của lịch sử. Những biến đổi lớn
lao trong những phong trào tín ngƣỡng, tôn giáo thƣờng gắn liền với lịch sử
xã hội.Thực chất sự biến đổi trong các tín ngƣỡng, tôn giáo chỉ là sự phản ánh
các biến đổi của lịch sử.
Tính chính trị
Tính chính trị của tín ngƣỡng, tôn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội loài
ngƣời phân thành giai cấp.Khi mới ra đời, các phong trào tín ngƣỡng, tôn giáo
bao giờ cũng là sự phản kháng chống lại sự bất công, bất bình đẳng đòiquyền
đƣợc tự do hạnh phúc của giai cấp bị áp bức bóc lột. Về sau, trong quá trình
tồn tại, tín ngƣỡng, tôn giáo thƣờng bị giai cấp thống trị lợi dụng, biến thành
công cụ nô dịch tinh thần đối với giai cấp bị trị.
Trong xã hội hiện đại, cuộc đấu tranh tƣ tƣởng giữa duy vật và duy
tâm, khoa học và tôn giáo, tiến bộ và lạc hậu vẫn luôn là một bộ phận của
cuộc đấu tranh giai cấp. Các thế lực phản động vẫn âm mƣu lợi dụng tín
ngƣỡng, tôn giáo để chống phá nhà nƣớc, gây chiến tranh giữa các quốc gia,
dân tộc. Điều đó làm cho tính chính trịcủa tín ngƣỡng, tôn giáo càng trở nên
sâu sắc.
Tính quần chúng
Các phong trào tín ngƣỡng, tôn giáo trong lịch sử thƣờng là các phong
trào quần chúng, thể hiện ƣớc mơ, nguyện vọng và ý chí của quần chúng.
Tính quần chúng của tín ngƣỡng, tôn giáo còn thể hiện ở một số lƣợng tín đồ
các tôn giáo rất đông đảo. Tín ngƣỡng, tôn giáo từ trƣớc đến nay vẫn là một
14


nhu cầu tinh thần của một số đông quần chúng nhân dân. Tín đồ các tôn giáo
phần lớn vẫn là những ngƣời lao động nghèo khổ trong xã hội.

1.2.4. Chức năng của tín ngƣỡng, tôn giáo
Chức năng xã hội của tín ngƣỡng, tôn giáo
Chức năng đáp ứng nhu cầu tâm linh là chức năng xã hội chủ yếu, đồng
thời cũng là đặc trƣng cơ bản của tín ngƣỡng, tôn giáo. Trong đời sống xã hội,
do con ngƣời còn nhiều sự khổ đau, bất lực, yếu đuối, nên tín ngƣỡng, tôn
giáo vẫn là chỗ dựa để an ủi, khuyên răn; góp phần tạo nên sự hài lòng, tin
tƣởng vào các lực lƣợng siêu nhiên và cuộc sống hạnh phúc ở thiên đƣờng.
Do đó tín ngƣỡng, tôn giáo góp phần giải tỏa sự sợ hãi, nỗi bất hạnh trong
cuộc đời, giảm nhẹ một cách hƣ ảo sự bất hạnh trong cuộc sống con ngƣời.
Tôn giáo là hạnh phúc ảo tƣởng của con ngƣời.
Chức năng thế giới quan
Tín ngƣỡng, tôn giáo tạo cho con ngƣời một quan niệm về thế giới, về
con ngƣời, nhƣng đó là “thế giới quan lộn ngược”[10, tr.77]. Sự phản ánh
của tín ngƣỡng, tôn giáo là sự phản ánh hƣ ảo về thế giới nên đã định hƣớng
mọi suy nghĩ, nhận thức, hành động của con ngƣời, góp phần hình thành trong
họ hệ thống quan niệm duy tâm về thế giới và những chuẩn mực, hành động
tôn giáo. Trong quan niệm của ngƣời có tín ngƣỡng, tôn giáo vai trò chủ thể
sáng tạo của con ngƣời bị suy giảm, biến mất, họ rất dễ phó mặc cho thần
thánh.
Chức năng điều chỉnh
Tín ngƣỡng, tôn giáo nào cũng có hệ thống giá trị, chuẩn mực đạo đức
tôn giáo nhằm điều chỉnh suy nghĩ, hành vi ứng xử của con ngƣời với bản

15


thân, với ngƣời khác, với xã hội và với giới tự nhiên phù hợp với đức tin.
Trong đó vừa có yếu tố tiêu cực, vừa có những chuẩn mực, giá trị đạo đức
chân chính, có ý nghĩa tích cực. Tín ngƣỡng, tôn giáo điều chỉnh con ngƣời,
vừa có tính tự giác, vừa có tính bắt buộc nhằm tuân theo nội dung của giáo lý,

giáo luật, nghi lễ hành đạo.
1.3. Đặc điểm tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam
1.3.1. Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngƣỡng, tôn giáo khác
nhau đang cùng tồn tại. Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi cho việc giao lƣu
của nhiều luồng tƣ tƣởng, văn hóa trong khu vực và trên thế giới; chịu ảnh
hƣởng sâu sắc của hai nền văn minh lớn là Trung Hoa và Ấn Độ; đồng thời là
một nƣớc có nhiều dân tộc cƣ trú ở nhiều khu vực với điều kiện tự nhiên, khí
hậu, lối sống, phong tục, tín ngƣỡng, tôn giáo khác nhau. Hơn nữa, ngƣời Việt
vốn có bản tính cởi mở, khoan dung, chứ không kỳ thị, khép kín. Vì thế, cùng
một lúc ngƣời Việt có thể tiếp nhận nhiều hình thức tín ngƣỡng, tôn giáo khác
nhau. Bên cạnh các tín ngƣỡng dân gian, bản địa,với các nghi lễ đặc sắc,
phong phú, đƣợc đông đảo ngƣời dân sùng kính, nhƣ: tín ngƣỡng thờ cúng tổ
tiên, tín ngƣỡng thờ anh hùng dân tộc, tín ngƣỡng thờ Thành hoàng, tín
ngƣỡng thờ Mẫu… Có những tôn giáo du nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ
đầu công nguyên, lại có những tôn giáo xuất hiện ở nƣớc ta vào những thập
niên đầu thế kỷ, nhƣ: Lão giáo, Nho giáo (từ Trung Quốc), Phật giáo (gốc từ
Ấn Độ), Công giáo, Tin Lành (từ phƣơng Tây), đạo Hồi (từ Trung Đông).
Ngoài ra còn có những tôn giáo nội sinh nhƣ: Đạo Cao Đài, Đạo Hòa Hảo,
Bửu Sơn Kỳ Hƣơng, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cƣ sĩ Phật hội Việt Nam.

16


Lịch sử đã chứng minh, một số tôn giáo có ảnh hƣởng lớn đến đời
sống, cách nghĩ và văn hóa của cả cộng đồng ngƣời Việt, góp phần nâng cao
ý thức dân tộc. Nhƣng cũng có tôn giáo, trong quá trình du nhập, hình thành
và tồn tại đã bị các thế lực chính trị lợi dụng vì mục đích ngoài tôn giáo. Lịch
sử hình thành và du nhập, số lƣợng tín đồ, vai trò xã hội cũng nhƣ tác động
chính trị… của các tôn giáo ở nƣớc ta cũng rất khác nhau. Theo ƣớc tính hiện

nay (tính đến năm 2013) ở Việt Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín
ngƣỡng, tôn giáo,trong đó có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo và 1 pháp
môn tu hành đƣợc Nhà nƣớc công nhận và cấp đăng ký hoạt động với khoảng
gần 24 triệu tín đồ [5, tr.77].
Với sự đa dạng về các loại hình tín ngƣỡng, tôn giáo, Việt Nam giống
nhƣ một bảo tàng của tôn giáo thế giới. Tuy đa dạng về các loại hình tín
ngƣỡng, tôn giáo nhƣng ở Việt Nam chƣa xảy ra xung đột tín ngƣỡng, tôn
giáo. Các tôn giáo ở Việt Nam luôn đoàn kết, gắn bó với dân tộc.
1.3.2. Tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam có tính chất đan xen, hòa đồng,
khoan dung
Bản tính của ngƣời Việt Nam là cởi mở, khoan dung, chứ không hẹp
hòi, kỳ thị, khép kín; nên dù là tín ngƣỡng gì, tôn giáo nào, từ đâu đến, cộng
đồng ngƣời Việt cũng sẵn sàng tiếp nhận một cách tự nhiên, miễn là nó không
trái với lợi ích của quốc gia – dân tộc và truyền thống văn hóa, tín ngƣỡng cổ
truyền của dân tộc. Ngƣời Việt Nam cũng không chấp nhận tƣ tƣởng tôn giáo
ngoại sinh một cách dễ dàng, thiếu thận trọng; những gì không phải là sản
phẩm của văn hóa bản địa, nếu không trực tiếp góp phần vào sự nghiệp giữ
nƣớc của dân tộc, đều bị ngƣời Việt xem xét và tiếp nhận một cách thận
trọng.

17


Tính đan xen, hòa đồng của tín ngƣỡng, tôn giáo ở Việt Nam đƣợc thể
hiện ở những minh chứng sau: Trên điện thờ của một số tôn giáo có sự hiện
diện của một số vị thần, thánh, tiên, Phật… của nhiều tôn giáo khác nhau.
Hiện tƣợng này thấy rõ ở Phật giáo Đại Thừa và điển hình là đạo Cao Đài.
Đối với ngƣời Việt Nam, rất khó xác định đƣợc tiêu chuẩn tôn giáo cụ thể của
họ. Không ít ngƣời sẵn sàng chấp nhận thờ cúng cả thần, thánh, tiên, Phật, lẫn
thổ công… Ngƣời Việt có thể đều đặn đến chùa mà vẫn say sƣa hầu bóng,

ham bói toán, tử vi. Họ có thể vừa thể vừa tham gia các nghi lễ tôn giáo lớn
mà vẫn chăm chỉ thờ cúng tổ tiên, tổ chức hội làng. Chức sắc, nhà tu hành,
những ngƣời hoạt động tôn giáo và tín đồ các tôn giáo ở Việt Nam có nhiều
ngƣời thông thạo giáo lý Phật giáo, đồng thời cũng am hiểu thuyết Khổng
Mạnh và nghiên cứu cả Đạo giáo. Ngƣợc lại, các thầy pháp Đạo giáo (chiêm
tinh, bói toán) cũng không hề bài xích Phật giáo, Khổng giáo.
1.3.3. Ở Việt Nam, không có tôn giáo nào giữ vị trí độc tôn, chi phối ý
thức hệ mang tính lâu dài
Khác với một số nƣớc phƣơng Tây, ở Việt Nam không có tôn giáo nào
giữ vai trò thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trò của từng
tôn giáo gắn liền với sự hƣng thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến. Lịch
sử Việt Nam đã ghi nhận rằng, ngay từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, sự
du nhập của Phật giáo vào vùng kinh đô Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh
ngày nay), đã nhanh chóng hòa nhập với tín ngƣỡng và văn hóa bản địa, trở
thành một bộ phận trong đời sống tâm linh của ngƣời Việt cổ. Ở miền Nam,
Phật giáo Nam Tông đã bắt đầu hình thành và phát triển ở thời kỳ Vƣơng
quốc Phù Nam (thế kỷ I – VII), tiếp sau đó ảnh hƣởng sâu đậm trong cộng
đồng dân tộc Khmer Nam Bộ vào thế kỷ XIII và XIV. Vào đầu thế kỷ X, Nho
giáo bắt đầu du nhập vào Việt Nam qua sự ảnh hƣởng của văn hóa Trung

18


×