Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức: Quan điểm cơ bản của Hêghen về lôgíc học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.17 KB, 16 trang )

Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
I. MỞ ĐẦU
Khi nói đến triết học của Hêghen chúng ta không thể không nói đến trị to lớn
của phép biện chứng mà hạt nhân của nó là tư tưởng về sự phát triển.Hêghen đã
phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng
nó trở thành một khoa học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Tuy
nhiên cần thấy rằng phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, tức
là phép biện chứng về sự phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với bản
chất của sự vật. Ông viết: Phép biện chứng: “ nói chung là nguyên tắc của mọi sự
vận động, mọi sự sống và mọi hoạt động trong phạm vi hiện thực. Ông coi biện
chứng cũng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân chính”.
Dù dưới hình thức duy tâm, nhưng triết học Hêghen đã đưa cho chúng ta một
phương pháp tư duy biện chứng, một phương pháp tư duy mà sau này, khi đó được
C. Mác và Ph. Ănghen cải tạo thì nó trở thành “ linh hồn của chủ nghĩa mác”
Những luận điểm về phép biện chứng của triết học Hêghen có cả trong ba
phần, nhưng trong logic thể hiện rõ nhất và quan trọng nhất. Luận điểm xuyên suổt
toàn bộ phép biện chứng của Hêghen là: “ tất cả cái gì là hiện thực, đều là hợp lý và
tất cả cái gì hợp lý, đều là hiện thực”.
Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài: “Quan điểm cơ bản của Hêghen về lôgíc
học” làm tiểu luận cho chuyên đề Lịch sử Triết học cổ điển Đức. Mục đích nhằm hệ
thống một cách cơ bản sự vận động của tư duy biện chứng trong lôgíc học của
Hêghen. Mặc dù đã cố gắng nhưng không thể tránh khỏi thiếu sót, kính mong Thầy
và các bạn và góp ý cho bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.

Trang 1


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
II. NỘI DUNG
1. Sơ lược về Hêghen và triết học Hêghen.
Hêghen (1770 - 1881) là đại biểu vĩ đại nhất của triết học cổ điển Đức, đỉnh


cao của triết học tư sản và của chủ nghĩa duy tâm thế kỷ XIX.
Có nhiều người cho rằng triết học Hêghen là duy tâm, trừu tượng, thần bí, khó
hiểu, và do đó không có giá trị gì, chỉ là "đồ bỏ đi”. Họ coi khinh Hêghen, phê phán
triết học Hêghen vì tính chất duy tâm của nó. Rất bực mình và phản đối điều đó,
Mác đã cộng khai tuyên bố mình là đồ đệ của Hêghen, thậm chí còn "thích dùng lối
diễn đạt đặc trưng của Hêghen" (Lời tựa bộ "Tư bản").
Lênin, trong "Bút ký triết học", nói rằng có nhiều loại chủ nghĩa duy vật cũng
như nhiều loại chủ nghĩa duy tâm, và khẳng định: “Chủ nghĩa duy tâm thông minh
gần với chủ nghĩa duy vật thông minh hơn chủ nghĩa duy vật ngu xuẩn".
Vả lại, trước Mác, nhưng nhà triết học nổi tiếng là duy vật của thế kỷ XVII XVIII ở Anh và ở Pháp cũng vẫn chỉ là duy vật nửa vời "duy vật một nữa", nghĩa là
chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên, còn trong lĩnh vực xã hội thì họ cũng duy tâm.
Hơn nữa, họ lại siêu hình, không lý giải được nguồn gốc, sự vận động và sự phát
triển của thế giới khách quan. Chính đó là một lý do quan trọng làm cho chủ nghĩa
duy vật thế kỷ XVII - XVIII bị chủ nghĩa duy tâm của triết học Đức phủ định.
Triết học Hêghen là một thứ "chủ nghĩa duy tâm thông minh", có những "hạt
nhân hợp lý" và rất có giá trị, trở thành một trong những tiền đề trực tiếp của chủ
nghĩa Mác, được các học giả và các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đánh
giá rất cao.
Plêkhanốp, một người có học vấn uyên bác, từng được Lênin tôn làm thầy, đã
đánh giá Hêghen:"Chắc chắn sẽ mãi mãi được dành một trong những địa vị cao quí
nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong các khoa học mà người Pháp gọi là
"khoa tinh thần và chính trị", không có một khoa học nào là không chịu ảnh hưởng
mãnh liệt và rất phong phú của thiên tài Hêghen: "Phép biện chứng, logic học, luật
Trang 2


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
học, mỹ học, lịch sử triết học và tôn giáo - tất cả những khoa học đó đều có một
hình thức mới nhờ sự tác động của Hêghen.
Hêghen đã để lại cho nhân loại một di sản triết học khổng lồ với những tư

tưởng cực kỳ phong phú và sâu sắc. Ông từng nói:"Cái triết học mới nhất của một
thời đại là kết quả của hết thẩy các triết học đã có từ trước và phải bao gồm những
nguyên lý của tất cả những triết học đó". Chính ông đã thực hiện xuất sắc yêu cầu
đó với việc phân tích, phê phán các trào lưu triết học, các triết gia trước ông và
cùng thời với ông. Hệ thống triết học của Hêghen đã bao quát nhiều lĩnh vực và
phát triển nhiều tư tưởng phong phú và đặc sắc, có ý nghĩa vạch thời đại. Vì vậy,
Ph.Ăngghen đã khẳng định:"Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc biệt là nếu
không có triết học Hêghen, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức - chủ nghĩa xã hội
khoa học duy nhất chưa hề có từ trước đến nay, sẽ không bao giờ được xây dựng
nên".
Hêghen là nhà triết học duy tâm theo trường phái chủ nghĩa duy tâm khách
quan, hay chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Như Lênin nhận xét, Hêghen tin tưởng và
nghĩ một cách nghiêm túc rằng chỉ có chủ nghĩa duy tâm mới là triết học, bởi vì
triết học là khoa học về tư duy, cái chung, mà cái chung tức là tư tưởng. ông cho
rằng, cơ sở của hết thảy mọi sự vật tồn tại, cái bản chất sâu sắc nhất của thế giới
không phải là ý thức cá nhân, là "cái tôi" chủ quan, mà là một ý thức nói chung nào
đó rất "khách quan", tồn tại độc lập với con người, có trước tự nhiên và có trước
loài người, luôn luôn vận động và biến đổi được ông gọi là "ý niệm tuyệt đối".
Có thể nói, toàn bộ triết học của Hêghen xoay quanh phạm trù ý niệm tuyệt
đối và sự vận động của ý niệm tuyệt đối trong hệ thống triết học đồ sộ của ông
được trình bày theo kiểu "suy lý ba bước" (tam đoạn luận).
Hêghen cho rằng, ý niệm tuyệt đối là cái có trước tất cả mọi cái. Do có mâu
thuẫn bên trong nên ý niệm tuyệt đối có sự tự vận động từ thấp lên cao, trải qua sự
phát triển, thông qua các khái niệm, rồi lại trở về với nó với một sự phong phú hơn
Trang 3


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
(logic học). Do có sự vận động và chuyển hoá, nên ý niệm tuyệt đối trở thành cái
khác nó (tha hoá), đối lập với nó, tức là giới tự nhiên (triết học về tự nhiên). Ý niệm

tuyệt đối tiếp tục vận động về với bản thân mình trong đời sống có ý thức của cá
nhân con người và xã hội loài người và sự hoàn thành sự vận động của nó, đạt tới
đỉnh cao nhất trong hệ thống triết học Hêghen (triết học về tinh thần).
Hêghen rất ưa thích và đề cao lối suy lý ba bước. Ông cho rằng mọi cái có lý
tính đều là một suy lý ba bước: một cái chung liên hệ với cái đơn nhất thông qua
cái riêng. Tuy nhiên, ông cũng phân biệt sự suy lý (tư duy) về sự vật với bản thân
sự vật, cho rằng sự vật không phải là một chỉnh thể gồm ba mệnh đề. Và ông rất
phản đối suy lý ba bước theo kiểu "hình thức vô ích" làm cho người ta buồn chán
như ví dụ ông nêu ra: "Tất cả mọi người đều chết, Cai-i là một người, vậy Cai-i
cũng chết”.
Trong hệ thống triết học lập luận theo lối "suy lý ba bước", Hêghen đã trình
bày về sự vận động và biến hoá của ý niệm tuyệt đối một cách rất tư biện, nghĩa là
không làm cho ý niệm phù hợp với sự vật mà trái lại, làm cho sự vật phù hợp với ý
niệm… Ông cho rằng "tồn tại" là tính quy định thứ nhất của ý niệm tuyệt đối. "Tồn
tại" ở đây không phải là thế giới vật chất, cũng không phải là sự phản ánh của thực
tai vào ý thức con người, mà là khái niệm trừu tượng của tồn tại, tức là "tồn tại
thuần tuý". Tồn tại thuần tuý là tồn tại không có tính quy định nào, không cần một
tiền đề nào, không có bất cứ một nội dung nào, không phải là sản phẩm của bất kỳ
một sự trung gian nào nghĩa là đồng nhất với hư vô thuần tuý. "Tồn tại thuần tuý và
hư vô thuần tuý là cùng một cái" là không có gì. Không có gì nhưng vẫn là một cái
gì (cũng như số 0 vẫn là một cái gì khi phân biệt với những số khác). Theo Hêghen,
tồn tại thuần tuý chính là cái đang bắt đầu. "Cái đang bắt đầu là chưa tồn tại, nó chỉ
hướng tới sự tồn tại...một sự không tồn tại mà cũng đồng thời là sự tồn tại"(?). Như
vậy là khái niệm "tồn tại thuần tuý"đã chứa đựng mâu thuẫn trong bản thân nó, vì
nó bao hàm hai mặt đối lập là tồn tại và hư vô và là sự thống nhất của tồn tại và hư
Trang 4


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
vô. Do có mâu thuẫn mà nó vận động, và vận động đến mức nào đó thì dẫn đến

sinh thành, tức là chuyển hoá thành một thứ tồn tại khác. "Tồn tại khác" này có tính
quy định, không còn là "tồn tại thuần tuý" hay "hư vô" nữa, mà đã là một cái gì đó
có "chất", có "lượng", được thống nhất ở trong "độ" (chú ý: chất, lượng, độ ờ đây
không phải là chất, lượng, độ của sự vật mà là các khái niệm chất, lượng).
Ý niệm tuyệt đối khi đạt tới "độ" thì nhận được một sự quy định mới, sâu sắc
hơn và cụ thể hơn, đó là khái niệm "bản chất". Trong học thuyết về bản chất,
Hêghen đã đưa ra và phân tích nhiều khái niệm quan trọng như: bản chất, hiện
tượng, bề ngoài, hiện thực quy luật… và nói về mối liên hệ giữa các phạm trù: quy
luật và bản chất, quy luật và hiện tượng, bản chất và hiện tượng, bản chất và bề
ngoài, bề ngoài và hiện tượng, khẳng định vả phủ định, tất nhiên và ngẫu nhiên,
khả năng và hiện thực, tự do và tất yếu' nguyên nhân và kết quả… Hêghen đã trình
bày nhiều vấn đề quan trọng của phép biện chứng, đặc biệt là về mâu thuẫn. Ông
coi mâu thuẫn là phổ biến, là nguồn gốc và cơ sở của vận động, là nguyên lý của sự
phát triển. Ông khẳng định: "Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản
thân nó... Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận động và của tất cả mọi sức
sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn, thì
nó mới vận động, phải có xung lực và hoạt động".
2. Sự vận động của tư duy lôgíc trong khoa học lôgíc của Hêghen từ tồn
tại đến bản chất và khái niệm.
Thông thường để xây dựng một hệ thống triết học của mình, thì mỗi triết gia
đều phải xuất phát từ điểm xuất phát triết học riêng biệt. Theo Ăngghen, điểm xuất
phát đó là vấn đề cơ bản của triết học mà nó được giải quyết trên lập trường của
từng triết gia. Hêghen cho rằng, điểm xuất phát đó có một vị trí vô cùng quan trọng
trong quá trình hình thành nên học thuyết triết học mới. Nó có thể khắc phục được
những hạn chế của các học thuyết đã có từ trước. Chính vì vậy Hêghen đã xác định
điểm xuất phát triết học của ông là sự đồng nhất duy tâm giữa tư duy và tồn tại hay
Trang 5


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức

là ý niệm tuyệt đối. Nói một cách khác Hêghen là nhà triết học duy tâm khách
quan, nghĩa là đối với ông tư tưởng của chúng ta không phải là sự phản ánh thế giới
hiện thực khách quan, trái lại những sự vật và hiện tượng trong thế giới là sự thể
hiện của ý niệm tuyệt đối, mà ý niệm này tồn tại trước khi thế giới xuất hiện.
Căn cứ vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối mà Hêghen đã cấu trúc hệ
thống triết học của ông thành logic học, Triết học tự nhiên và Triết học tinh thần.
Bài viết này muốn đề cập đến những tư tưởng của Hêghen về logic học với tính
cách là logic biện chứng trong hệ thống triết học Hêghen.
Theo Hêghen, đồng nhất giữa tư duy và tồn tại cũng có nghĩa là những quy
luật của tư duy được logic học nghiên cứu, thực chất cũng là những quy luật của
tồn tại (của tự nhiên, của lịch sử). Vì vậy logic học là bộ phận sinh động nhất của
hệ thống triết học Hêghen, bởi vì trong đó phép biện chứng của ông đã được thể
hiện một cách đầy đủ nhất.
Để xây dựng logic học mới với tính cách làlogic biện chứng, Hegel đã
nghiên cứu toàn bộ quá trình phát triển của logic hình thức cổ điển trước đây. Tuy
không phủ nhận ý nghĩa và vai trò của logic hình thức trong lịch sử nhận thức,
nhưng Hegel đã chỉ ra những hạn chế của nó. Theo Hêghen, logic học trước ông là
khoa học về những hình thức tư duy chủ quan, vì vậy nó chưa đầy đủ. chưa đáp
ứng được với sự phát triển của triết học và khoa học. Trên cơ sở đó Hêghen đã sáng
tạo ra một hệ thống logic học mới - logic biện chứng nhằm đem lại cho triết học
một phương pháp luận mới đó là phép biện chứng. Phép biện chứng của Hêghen là
một trong những thành tựu quí giá nhất của triết học cổ điển Đức nói riêng và lịch
sử triết học trước Mác nói chung. Tuy nhiên Hêghen đã sáng tạo logic biện chứng
trên lập trường duy tâm. ông đã xuất phát từ cơ sở đồng nhất giữa tư duy và tồn tại
khi coi những qui luật của tự nhiên, của lịch sử cũng là những quy luật của tư duy.
Để lý giải điều này, Hêghen cho rằng, con người có khả năng nhận thức được thế
giới một cách tuyệt đối và đầy đủ, nghĩa là tư duy con người nhận thức được thế
Trang 6



Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
giới tự nhiên và xã hội. Từ đó ông coi tư duy là bản chất của chúng. Đồng thời
quan niệm của Hêghen về sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể không giống
như quan niệm của chủ nghĩa duy vật, mà ông coi nó như là sự đồng nhất hoàn toàn
của chúng. Điều này có nghĩa là đối với Hêghen khách thể của tư duy không khác
biệt với bản thân tư duy. Những khách thể của tư duy thực chất chỉ là những quy
định của chính tư duy mà thôi. Theo Hêghen, tư duy ở đây hoàn toàn không được
xem xét như là sản phẩm đặc biệt của bộ óc con người, như là nét đặc thù của con
người. Hêghen đồng nhất tư duy với hoạt động của ý niệm tuyệt đối với tư cách là
cơ sở của mọi sự vật, hiện tượng của thế giới. Hơn nữa tư duy đồng thời vừa là
khách thể, vừa là chủ thể, nó vừa là những gì đang tư duy, vừa là những gì được tư
duy. Tuy nhiên, Hêghen cũng thừa nhận cảm giác, trực giác, biểu tượng, mong
muốn là những hình thức của ý thức con người. Nhưng tất cả chúng đối với ông chỉ
là những thể hiện không đầy đủ, là những nét hoa văn bên ngoài của tư duy, tư
tưởng. Vì vậy vật chất theo ông, cũng thuộc về tư duy, tư tưởng mà thôi. Hegel cho
rằng, đối tượng đúng đắn của tư tưởng chính là bản thân tư tưởng, vì tư tưởng là
chân lý của mọi sự vật. Cho nên sự phát triển cũng cần phải được tiến hành theo
những quy luật của tư tưởng, theo những quy luật của logic học. Chủ nghĩa duy tâm
tuyệt đối của Hêghen vì vậy còn được xác định như là chủ nghĩa duy tâm logic. Ý
niệm tuyệt đối là tư duy về tư duy, đồng thời cũng có nghĩa là tự nhận thức, là sự
mở rộng những xác định logic vốn có đối với nó. Những phạm trù là những xác
địnhlogic này, hơn nữa chúng còn thề hiện sự phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo
Hêghen, những phạm trù không phải là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan,
mà là những khái niệm thuần túy.
Trong "Khoa họclogic" Hêghen đã thể hiện tư tưởng về Thượng đế có trước
khi thế giới và con người xuất hiện. Đây là tính qui luật của ý niệm tuyệt đối tồn tại
trước bản thân thế giới và như là thuộc tính siêu nhiên nào đó của thần thánh. Theo
Ăngghen, trong Cơ đốc giáo thế giới được sáng tạo một cách đơn giản bởi Thượng
Trang 7



Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
đế, còn trong triết học Hêghen thì sự sáng tạo này có hình thức phức tạp và khó
hiểu hơn. Theo Hêghen, logic học "thể hiện Chúa trong bản chất vĩnh hằng của Đức
chúa trước khi sáng tạo ra giới tự nhiên và các tinh thần hữu hạn" tức là những con
người cụ thể.
Như đã nêu trên, những phạm trù trong triết học Hêghen không phải là sự
phản ánh thế giới khách quan, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng hoàn toàn
không chứa đựng một nội dung gì cả. Trái lại, những phạm trù của Hegel còn có ý
nghĩa bản thể luận. Một trong những sự khác biệt giữa triết học Hêghen và Cantơ
cũng chính là ở điểm này. Theo Cantơ, những phạm trù không có mối liên hệ nào
với thế giới hiện thực khách quan, chúng là sản phẩm của ý thức con người. Vì vậy,
những phạm trù tự chúng không chứa đựng nội dung khách quan. Còn ở Hêghen thì
những phạm trù logic không phải là cái gì khác hơn là những trừu tượng được tách
ra từ bản thân hiện thực, cho nên chúng có nội dung sinh động, phong phú, từ đó
tạo nên nội dung sâu sắc của Khoa học logic. Tuy nhiên dưới góc độ duy tâm Hegel
đã đánh giá những phạm trù cao hơn thế giới khách quan, khi ông coi chúng là
những tấm vải mộc, còn mọi hiện tượng, quá trình của thế giới chỉ là những hoa
văn được trang trí trên những tấm vải này.
Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối là bản chất của tự nhiên cũng như của tinh
thần. Tất cả mọi sự vật chỉ là chân lý chừng nào trong chúng đều thể hiện ý niệm
này. Các sự vật tự nó là nhất thời, tận cùng không phải là chân lý. Chỉ có ý niệm
tuyệt đối tồn tại như là hệ thống của những phạm trù là vĩnh viễn, là cơ sở của mọi
vật, mọi hiện tượng của thế giới. Hêghen cho rằng, thế giới khách quan là logic học
ứng dụng, còn logic học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối, là "hệ thống các phạm
trù của tư duy, trong đó sự đối lập giữa tính khách quan và chủ quan bị triệt tiêu”.
Hêghen nhấn mạnh rằng, những phạm trù thực chất là những khái niệm mà tư duy
thông thường cũng thưởng sử dụng chúng. Trong tư duy thông thường những phạm
trù hoà nhập với nội dung của trực quan hay là của biểu tượng, vì vậy theo Hêghen,
Trang 8



Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
về thực chất chúng là không rõ ràng. Để làm rõ những phạm trù đó nhiệm vụ của
khoa học logic là phải giải phóng chúng khỏi mọi nội dung của cảm giác, kinh
nghiệm. Hêghen đồng nhất khoa học logic với logic học duy tâm. Logic học này sử
dụng những kết quả phát triển của những khoa học tự nhiên. Theo Hêghen, những
khoa học này có nhiệm vụ chuẩn bị tài liệu cho logic học nhằm phát hiện những
quy luật, những khái niệm chung logic học duy tâm của Hêghen đã coi những khoa
học này dưới những hình thức khác nhau và đặt đấu ấn vào chúng. Nó chỉ ra rằng
những quy luật và những khái niệm của các khoa học tự nhiên là sự thể hiện không
đầy đủ của những phạm trù lý tính thuần tuý.
Tác phẩm chủ yếu của Hêghen là Khoa học logic được gọi là Đại logic và
logic học phần đầu của Bách khoa toàn thư các khoa học triết học hay còn gọi là
Tiểu logic đều nghiên cứu những phạm trù logic như là hệ thống phát triển, gắn liền
và thống nhất với nhau. Chính trong Khoa học logic cũng như logic học Hêghen đã
trình bày một cách đầy đủ và sâu sắc phép biện chứng trên cơ sở duy tâm. Theo
Mác, phép biện chứng của Hêghen (hay như chính Hêghen gọi là phương pháp
tuyệt đối) là sự trừu tượng của vận động, trừu tượng của phát triển của thế giới hiện
thực khách quan. Phép biện chứng này được Hêghen hình dung như là sự vận động
dưới hình thức cực kỳ trừu tượng, sự vận động của lý tính thuần tuý.
Trong logic học Hêghen đã trình bày qui luật phủ định của phủ định như là
một trong những quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng. Hêghen đã đồng
nhất quy luật này với tam đoạn thức: chính đề - phản đề - hợp đề. Từ đó ông đã xây
dựng nên hệ thống triết học cũng như từng phần trong hệ thống đó. Mỗi một phạm
trù của phép biện chứng được Hêghen sắp xếp được hình thức chính đề. Chính đề
này trong quá trình vận động, phát triển trở thành phản đề và sau đó chúng hoà
nhập vào khái niệm cao nhất là hợp đề. Hợp đề không phải là quay trở lại một cách
đơn giản về chính đề, mà là giai đoạn phát triển cao hơn bởi yếu tố phủ định. Quy
luật phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển từ thấp cho đến

Trang 9


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
cao. Theo Hêghen mặt phủ định thể hiện trong mỗi một phạm trù, khái niệm là cơ
sở, điều kiện của quá trình phát triền. Ở đây Hêghen đã vạch ra mâu thuẫn là
nguyên nhân làm cho phạm trù, khái niệm chuyển từ giai đoạn này đến giai đoạn
khác. Trong Khoa học logic Hêghen đã nhấn mạnh mâu thuẫn là nguồn gốc của
mọi vận động và sức sống. Chỉ vì một cái gì đó có mâu thuẫn ở trong bản thân
mình mà nó được vận động, có mạch đập và hoạt động.
Khi đặt ra những cơ sở của phép biện chứng Hêghen cho rằng, phương pháp
này xuất phát từ sự vận động, phát triển của những mâu thuẫn được diễn ra trong
những khái niệm. Sự vận động của mặt khẳng định đến mặt phủ định và việc xem
xét sự thống nhất của chúng là bản chất của nhận thức trừu tượng, nhận thức biện
chứng. Nhận thức này được Hêghen đối lập lại với nhận thức lý trí,logic hình thức.
Như vậy cấu trúclogic của Hêghen mang tính chất trừu tượng thuần tuý.
Hêghen đã xem xét hệ thống những phạm trùlogic phát triển như là sơ đồ tiên
nghiệm của sự phát triển thế giới. Mặc dù với lối tư duy có tính chất tư biện, trừu
tượng của Hêghen, nhưng những phạm trù logic học của ông suy cho cùng cũng
được rút ra từ thế giới hiện thực khách quan. Cho nên trong Bút ký triết học Lênin
đã chỉ ra rằng, Hêghen đã phỏng đoán một cách thiên tài về phép biện chứng của
những sự vật, hiện tượng, thế giới tự nhiên trong phép biện chứng của những khái
niệm. Sự khẳng định này đã được thể hiện trong sự phát triển của những khái niệm
trong logic học Hêghen. Chính Mác cũng cho rằng, Hêghen trong sự trình bày một
cách tư biện, trừu tượng thường lại đưa ra được một sự trình bày hiện thực bao gồm
chính các sự vật. Chính những quan điểm này tạo nên giá trị to lớn của phép biện
chứng của Hêghen, mà về sau chủ nghĩa duy vật biện chứng đã kế thừa và phát
triển. Tuy nhiên, hạn chế của chủ nghĩa duy tâm đã không cho phép Hêghen thực
hiện nhiệm vụ được đặt ra trong triết học của ông là cống hiến cho toàn bộ cuộc đời
của sự vật. Đúng như Mác đã từng chỉ ra rằng nói chung Hêghen chủ yếu quan tâm

đến không phải làlogic của sự vật, mà là công việc củalogic. Điều này có nghĩa là
Trang 10


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
Hêghen có quan tâm đến nhận thức về thế giới hiện thực và sự phản ánh của nhận
thức này vào trong những phạm trù nhưng không lớn tới mức như ông đã tạo nên
hiện thực từ những khái niệm và phạm trù. Trong thực tế Hêghen đã xây dựng hệ
thống nói chung cũng nhưlogic học nói riêng theo sơ đồ tam đoạn thức. Bằng con
đường này Hêghen thường bịa ra những phạm trù mà chúng không thể có ở trong
hiện thực được. Vì vậy một số phạm trù trong logic học của ông có tính chất giả
tạo. Điều này xuất phát từ tư tưởng của Hêghen về tất cả sự phong phú của thế giới
đều được nẩy sinh từ sự vận động của những khái niệm. Theo Mác, đối với Hêghen
thì tất cả những gì đã diễn ra và đang diễn ra trong thế giới đều đồng nhất với
những gì đang diễn ra trong tư duy vốn có của ông. Như vậy sự vận động và sự
phát triển của những phạm trù theo Hêghen là thể hiện sự phát triển của tự nhiên,
xã hội, của tất cả những biểu hiện văn hóa của con người. Bới vì như chúng ta đã
biết, Hêghen xuất phát không phải từ sự thống nhất, mà từ sự đồng nhất của tư duy
và tồn tại. ông cho rằng, chúng ta không cần phải nghiên cứu một cách cụ thể mọi
chi tiết của sự phát triển của tự nhiên, xã hội vì sự phát triển của chúng chỉ là sự
phản ánh sự phát triển của những khái niệm. Cho nên theo Hêghen, phân tích
những khái niệm là phương tiện nhận thức hiện thực dễ hơn là nghiên cứu một cách
cụ thể chính bản thân hiện thực này. Xuất phát từ quan niệm này mà Hêghen coi sự
phát triển của thế giới như là sự phát triển của những khái niệm. Từ đó ông buộc
phải đưa ra một số phạm trù mà chúng chưa từng có trong hiện thực, đặc biệt là sự
chuyển biến một cách giả tạo từ một khái niệm này nẩy sinh ra một khái niệm khác.
Theo Hêghen, nhiệm vụ củalogic học là thể hiện hệ thống những phạm trù
không phải như là hệ thống có sẵn trước, bất động mà như là hệ thống phát triển
không ngừng. Phù hợp với điều này Hêghen đã vạch ra sự phát triển của những
phạm trù là đi từ trực tiếp, đơn giản, trừu tượng đến cụ thể, phức tạp và gián tiếp

nhất.

Trang 11


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
"Khoa học logic" cũng nhưlogic học của hệ thống Hêghen gồm ba phần là
học thuyết về tồn tại, học thuyết về bản chất và học thuyết về khái niệm. Ý nghĩa
về phát triển của những phạm trù chính là ở chỗ, trong logic học Hêghen đã xuất
phát từ tồn tại. Từ sự vận động của những phạm trù tồn tại mà xuất hiện phạm trù
bản chất. ở đây bản chất như là phản đề hay là sự phủ định của tồn tại. Sau đó, từ
vận động của những phạm trù bản chất mà phát hiện ra khái niệm như là cơ sở sâu
sắc hơn của toàn bộ quá trình phát triển của những phạm trù. Như vậy, khái niệm
được biểu hiện ra là hợp đề của tồn tại và bản chất hay là sự phủ định của phủ định.
Có thể nhận thấy rằng sự phát triển của những phạm trù ở trong học thuyết về tồn
tại, bản chất, khái niệm và ở trong mỗi một phần nhỏ hơn của logic học đều được
thực hiện theo sơ đồ tam đoạn thức của Hêghen đề ra. Theo Hêghen, học thuyết về
tồn tại và học thuyết về bản chất trong logic học là Logic khách quan còn học
thuyết về khái niệm làlogic chủ quan. Trong logic khách quan Hêghen chủ yếu
nghiên cứu những phạm trù của tư tưởng, mà chúng đồng thời cũng là những phạm
trù của thế giới tự nhiên vô cơ. Còn trong logic chủ quan Hêghen nghiên cứu sự
vận động biện chứng của những phạm trù như những hình thức tư tưởng thuần tuý
và sự trưởng thành của đời sống tinh thần, của ý thức của khái niệm trong thế giới
hữu cơ và con người. Tuy nhiên sự phân chia logic học ra thành logic khách quan
vàlogic chủ quan là có tính chất tương đối. Bởi vì trên thực tế trong logic khách
quan Hêghen bên cạnh phân tích những phạm trù của thế giới vô cơ, thì ông cũng
có đề cập đến những phạm trù có quan hệ với ý thức của con người. Trái lại trong
logic chủ quan đồng thời với việc trình bày những phạm trù của đời sống hữu cơ thì
Hêghen cũng đưa ra cả những phạm trù có mối liên quan với thế giới tự nhiên vô
cơ.

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã tạo ra được một lý luận biện
chứng phát triển với tư cách logic học và là phương pháp. Ông đã kết hợp phép
biện chứng và logic học thành một quan niệm thống nhất về logic biện chứng. Phép
Trang 12


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
biện chứng là linh hồn của logic học nhờ đó khoa học logic trở thành một cơ thể
sống, chứ không phải là những phạm trù khô cứng như logic học trước đây. Công
lao của Hêghen so với những bậc tiền bối chính là ở chỗ, ông đã đưa ra được một
sự phân tích biện chứng, khái quát tất cả những phạm trù quan trọng nhất của triết
học và đã hình thành nên ba qui luật cơ bản của tư duy trên cơ sở duy tâm. Không
nghi ngờ gì nữa có thể khẳng định rằng "Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã
mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người
đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức hình thái vận dụng chung của
phép biện chứng đó”.

Trang 13


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
III. KẾT LUẬN
Tóm lại, trong “Khoa học lôgíc” của Hêghen, ông đã trình bày một cách sâu
sắc, có hệ thống các tư tưởng cơ bản của phép biện chứng nhưng trên cơ sở lập
trường duy tâm.
Lôgíc học của Hêghen là lôgíc học biện chứng, trong đó nhà triết học Đức
dưới hình thức duy tâm trình bày các quy luật (sự biến đổi về lượng dẫn tới sự biến
đổi về chất và ngược lại; mâu thuẫn và đấu tranh giữa các mặt đối lập; phủ định của
phủ định), cũng như các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng (cái chung và
cái riêng, tất yếu và ngẫu nhiên, khả năng và hiện thực....) một cách đầy đủ, minh

bạch và rõ ràng nhất so với các tác phẩm của ông. Một trong những thành tựu cơ
bản nhất của Triết học Hêghen là phương pháp tư duy biện chứng được Mác, Lênin
nhấn mạnh, không thể hiểu được “Tư bản” của Mác nếu như không đọc Lôgíc học
của Hêghen.

Trang 14


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Quan điểm lịch sử triết học của Hêghen: Sách tham khảo cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh triết học/ Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp.- H.: Chính
trị Quốc gia, 2001
2. Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen: Sách tham khảo cho học viên cao
học và nghiên cứu sinh triết học/ Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên; Đỗ Minh Hợp.H.: Chính trị quốc gia, 1999
3. Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hê Ghen/ C, Mác.- H.: Sự
thật, 1977.4. Ilencôv, Lôgíc học biện chứng (TS. Nguyễn Anh Tuấn dịch), Nxb Văn hoá
– Thông tin, 2002.
5. Lịch sử Phép biện chứng Mác xít, Tập 3, Phép biện chứng cổ điển Đức,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1998.

MỤC LỤC

Trang 15


Tiểu luận Chuyên đề Lịch sử triết học cổ điển Đức
I. MỞ ĐẦU................................................................................................................1
II. NỘI DUNG..........................................................................................................2
1. Sơ lược về Hêghen và triết học Hêghen.............................................................2

2. Sự vận động của tư duy lôgíc trong khoa học lôgíc của Hêghen từ tồn tại đến
bản chất và khái niệm..............................................................................................5
III. KẾT LUẬN......................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................15

Trang 16



×