Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận Triết học Sự ra đời của Triết học Mác là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.6 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài:
Giảng viên hướng dẫn: TS. Bùi Văn Mưa
Học viên thực hiện: Nguyễn Đinh Hoài Nhi
Lớp: Cao học Đêm 5
Khóa: 21
Nhóm: 13
STT: 132
TP. Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 02 năm 2012
MỤC LỤC
Điều kiện kinh tế - xã hội 2
Tiền đề lý luận 2
Tiền đề khoa học tự nhiên 3
Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và
chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (trước
năm 1844) 4
Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử ( giai đoạn 1844 – 1848) 5
Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan điểm triết học 6
KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
LỜI MỞ ĐẦU
Triết học Mác, đầy đủ hơn là triết học Mác – Lênin, là một trong ba bộ phận cấu
thành của chủ nghĩa Mác – Lênin. Triết học Mác, do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập
ra, sau đó được Lênin và các nhà mácxít khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời
vào những năm 40 thế kỉ XIX và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa
học và thực tiễn trong phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Sự ra đời của


Triết học Mác là một cuộc cách mạng thực sự, trong đó bao hàm tính kế thừa, tiếp thu
tất cả những tiến bộ mà lịch sử tư tưởng loài người đã để lại. Chính trong quá trình cải
tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen và phát triển tiếp tục chủ nghĩa duy vật cũ,
trên cơ sở khái quát hoá những thành tựu của khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo
ra triết học của mình.
Chính bởi những thành tựu to lớn C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng nên, khi mà
triết học trước Mác chưa thể thực hiện được, do vậy, sự ra đời của triết học Mác được
xem là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Để làm rõ nhận định ấy cũng như
có được cái nhìn bao quát về triết học Mác, tôi đã tìm hiểu và thực hiện đề tài: “Sự ra
đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học”. Đây là đề
tài tôi khá tâm đắc, vì rõ ràng có hiểu được kĩ lưỡng toàn bộ quá trình hình thành, phát
triển của triết học Mác và cả triết học trước C.Mác thì mới có thể rút ra những giá trị
mang tính bước ngoặt mà từ khi triết học Mác ra đời mới thực hiện được. Do đó đề tài
giúp tôi có cái nhìn tổng quan về lịch sử triết học trong một giai đoạn dài, nắm rõ năm
giá trị mang tính bước ngoặt cách mạng của triết học Mác mà sẽ được trình bày chi
tiết trong nội dung dưới đây. Đề tài có sử dụng các tài liệu tham khảo chính là các giáo
trình giảng dạy triết học của Bộ giáo dục đào tạo và của riêng trường Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh, một số website học thuật uy tín của các trường đại học khác.
Với hạn chế về sự hiểu biết cũng như yêu cầu tiểu luận đặt ra, đề tài chỉ dừng lại ở
phân tích ngắn gọn các yếu tố khác biệt làm nên bước ngoặt cách mạng trên và không
đi sâu vào điều kiện hình thành cũng như các giai đoạn phát triển của triết học Mác.
Học viên thực hiện: Nguyễn Đinh Hoài Nhi
1
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
PHẦN I: HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử vì nó chính là một sản phẩm
lý luận của sự phát triển lịch sử nhân loại xuất hiện vào giữa thế kỷ XIX với
những điều kiện, tiền đề khách quan của nó.

Điều kiện kinh tế - xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX. Sự phát triển rất
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp,
làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được củng cố vững chắc là đặc
điểm nổi bật trong đời sống kinh tế - xã hội ở những nước chủ yếu của châu Âu.
Mặt khác, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho những mâu thuẫn xã hội
càng thêm gay gắt và bộc lộ ngày càng rõ rệt. Của cải xã hội tăng lên nhưng bất
công xã hội lại tăng thêm, đối kháng xã hội thêm sâu sắc, những xung đột giữa
vô sản và tư sản đã trở thành những cuộc đấu tranh giai cấp.
Sự ra đời giai cấp vô sản cách mạng và sự phát triển mạnh mẽ của phong trào
công nhân đã tạo cơ sở xã hội cho sự hình thành lý luận tiến bộ và cách mạng của
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong đó, triết học Mác là hạt nhân lý luận chung của nó.
Chính sự ra đời của lý luận này đã lý giải một cách khoa học về sự xung đột
không thể điều hòa giữa tư bản và lao động, về sứ mệnh lịch sử vĩ đại của giai
cấp vô sản cách mạng đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Tiền đề lý luận
Sự ra đời của triết học Mác không chỉ là sản phẩm tất yếu của những điều
kiện kinh tế - xã hội mà còn là sản phẩm tất yếu của sự phát triển hợp quy luật
của lịch sử tư tưởng nhân loại. Triết học Mác ra đời là sự kế thừa biện chứng
những học thuyết, lý luận trước kia mà trực tiếp và rõ nét nhất là triết học cổ
2
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp hồi
thế kỷ XIX.
Triết học cổ điển Đức, đặc biệt với hai nhà triết học tiêu biểu là Hêghen và
Phoiơbắc, là nguồn gốc lý luận trực tiếp của triết học Mác. Trong triết học
Hêghen, C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn đánh giá cao tư tưởng biện chứng của nó.
Mác đã kế thừa bằng cách lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên lý luận mới của
phép biện chứng duy vật; dựa vào truyền thống của chủ nghĩa duy vật triết học

mà trực tiếp là chủ nghĩa duy vật triết học của Phoiơbắc; đồng thời cải tạo chủ
nghĩa duy vật cũ, khắc phục tính chất siêu hình và những hạn chế lịch sử khác
của nó. Từ đó C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên triết học mới, trong đó,
chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất hữu cơ với nhau.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng
Pháp, việc kế thừa và cải tạo những giá trị đó cũng là nhân tố không thể thiếu
trong sự hình thành và phát triển triết học Mác. Việc nghiên cứu những vấn đề
triết học về xã hội trên đã giúp C.Mác đi tới hoàn thành quan niệm duy vật lịch
sử, đồng thời xây dựng nên học thuyết về kinh tế của mình.
Tiền đề khoa học tự nhiên
Cùng với những nguồn gốc lý luận trên, những thành tựu khoa học tự nhiên là
những tiền đề cho sự ra đời triết học Mác bởi mối liên hệ khăng khít giữa triết
học và khoa học nói chung.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với
nhiều phát minh quan trọng. Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên làm bộc
lộ rõ tính hạn chế và sự bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận
thức thế giới. Mặt khác, với những phát minh của mình, khoa học đã cung cấp cơ
sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng vượt khỏi tính tự phát của
phép biện chứng cổ đại, đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của phép biện chứng duy
tâm.
3
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
Ph.Ăngghen nêu bật ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết
học duy vật biện chứng: định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng của
R.Maye và P.P.Giulơ, học thuyết tế bào của Svan và Slâyđen, học thuyết tiến hóa
của Đácuyn. Với những phát minh đó, khoa học đã vạch ra mối liên hệ thống
nhất giữa những dạng tồn tại khác nhau, các hình thức vận động khác nhau trong
tính thống nhất vật chất của thế giới, vạch ra tính biện chứng của sự vận động và
phát triển của nó.

Như vậy, triết học Mác cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác ra đời như một tất
yếu lịch sử không những vì đời sống và thực tiễn, nhất là thực tiễn cách mạng
của giai cấp công nhân, đòi hỏi phải có lý luận mới soi đường mà còn vì những
tiền đề cho sự ra đời lý luận mới đã được nhân loại hình thành.
2. NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT
TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC
Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ
nghĩa cộng sản (trước năm 1844)
Trong bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen đứng
trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm dân chủ cách mạng.
Sự chuyển biến bước đầu của C.Mác chỉ thực sự diễn ra trong thời kỳ ông
làm việc ở báo Sông Ranh (1842 – 1843). Thông qua phê phán triết học Hêghen
về nhà nước, pháp quyền, tôn giáo và vai trò của triết học, quan điểm của C.Mác
chuyển dần từ khuynh hướng duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản. Trong tác phẩm Góp phần phên
phán triết học pháp quyền của Hêghen (1943), C.Mác phủ nhận mệnh đề “tồn tại
là hợp lý” của Hêghen, kiên quyết bác bỏ các hình thức đang tồn tại của nền
chính trị nước Đức lúc bấy giờ. C.Mác coi triết học là vũ khí tinh thần của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cải tạo thế giới: “Giống như triết học thấy giai
4
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ
khí tinh thần của mình”
1
. Về vấn đề tôn giáo, C.Mác vạch ra nguồn gốc và bản
chất của tôn giáo trong mối quan hệ với đời sống hiện thực và nhu cầu tinh thần
của con người: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
2

.
Còn Ph.Ăngghen, lúc bấy giờ, thông qua Niên giám Pháp – Đức, Ph.Ăngghen
đã phên phán chế độ tư hữu và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phê phán
các tư tưởng kinh tế chính trị học của A.Xmít và Đ.Ricácđô trên tinh thần biện
chứng, đồng thời khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Sự nhất trí về tư tưởng đã tạo nên tình bạn vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen
kể từ khi gặp mặt vào tháng 8 năm 1844. “Như vậy, cho đến thời điểm này,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã có bước chuyển hoàn toàn từ thế giới quan duy tâm
sang thế giới quan duy vật biện chứng, từ lập trường chính trị dân chủ cách mạng
sang chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là một quá trình phức tạp, vừa cải biến phép
biện chứng duy tâm của Hêghen thành phép biện chứng duy vật, vừa vận dụng
phép biện chứng duy vật vào việc nhận thức xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt
nền móng vững chắc cho một cuộc cách mạng trong triết học, để từng bước hoàn
chỉnh hệ thống triết học của mình cả về thế giới quan và phương pháp luận”
3
.
Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử ( giai đoạn 1844 – 1848)
Thời gian 1844 - 1848 là quá trình C.Mác và Ph.Ăngghen từng bước xây
dựng những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học (1844), C.Mác đã trình bày
những quan điểm kinh tế và triết học của mình thông qua việc phê phán kinh tế
chính trị học cổ điển của Anh và tiếp tục phê phán triết học duy tâm Hêghen;
đồng thời ông vạch ra “mặt tích cực"” của nó là phép biện chứng. Những quan
1
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.1, tr.580.
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, T.1, tr.570.
3
Bùi Văn Mưa (Chủ biên): Đại cương về lịch sử triết học, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011, Phần I, tr.245.
5
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
điểm mới của C.Mác được thể hiện trong việc phân tích sự tha hóa của lao động
với phạm trù “lao động bị tha hóa”; từ đó, C.Mác cắt nghĩa tự tha hóa bản thân
con người và vạch ra con đường khắc phục sự tha hóa đó.
Tác phẩm Gia đình thần thánh do C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung được
xuất bản tháng 2/ 1845. Cùng với việc phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử
của “phái Hêghen trẻ”, hai ông đã đề xuất một số nguyên lý cơ bản của triết học
mácxít và của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Tác phẩm đã chứa đựng quan điểm
hầu như đã hình thành của C.Mác về vai trò cách mạng của giai cấp vô sản và
cho thấy C.Mác đã tiến gần như thế nào đến tư tưởng cơ bản về những quan hệ
xã hội của sản xuất trong toàn bộ hệ thống của mình.
Tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, được C.Mác và Ph.Ăngghen viết chung vào cuối
năm 1845 đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan trọng. Đây là tác phẩm có quy
mô lớn nhất, là tác phẩm chín muồi đầu tiên trong thời kỳ hình thành triết học
Mác. Thông qua việc phê phán các trào lưu triết học và chủ nghĩa xã hội đương
thời ở Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen đã trình bày quan niệm duy vật lịch sử một
cách hệ thống và nhiều nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa cộng sản khoa học như
những hệ quả của quan niệm duy vật lịch sử.
Tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (tháng 2-1848) là văn kiện có tính
chất cương lĩnh đầu tiên của chủ nghĩa Mác; trong đó cơ sở triết học của chủ
nghĩa Mác được trình bày một cách thiên tài, thống nhất hữu cơ với các quan
điểm kinh tế và các quan điểm chính trị - xã hội. Với tác phẩm này, triết học Mác
và chủ nghĩa Mác nói chung đã hình thành. C.Mác và Ph.Ăngghen sẽ tiếp tục bổ
sung, phát triển trong suốt cuộc đời của cả hai trên cơ sở tổng kết những kinh
nghiệm thực tiễn của phong trào công nhân và khái quát các thành tựu khoa học.
Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung và phát triển những quan điểm triết
học

6
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
Từ sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, bằng hoạt động lý luận của mình,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa phong trào công nhân từ tự phát thành phong trào
tự giác và phát triển ngày càng mạnh mẽ; và chính trong quá trình đó, học thuyết
của các ông cũng không ngừng được phát triển.
Nhiều vấn đề triết học, đặc biệt những vấn đề phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử được C.Mác phát triển trong các tác phẩm nghiên cứu
kinh tế - chính trị, tiêu biểu là bộ Tư bản (viết từ những năm 40 và xuất bản tập I
năm 1867). Tư bản không chỉ là công trình đồ sộ của Mác về kinh tế học mà còn
là sự bổ sung, phát triển của triết học Mác nói riêng, của học thuyết Mác nói
chung. Lênin đã nhận xét: về phương diện triết học, nếu như C.Mác không để lại
cho chúng ta một “lôgíc học với chữ L viết hoa” thì Mác đã để lại cho chúng ta
cái lôgíc của Tư bản.
Năm 1875, C.Mác viết Phê phán Cương lĩnh Gôta, đây là tác phẩm lý luận
quan trọng nhất sau Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và Tư bản. Trong tác phẩm
đó, C.Mác làm sâu sắc và phong phú thêm học thuyết về hình thái kinh tế - xã
hội, phát triển hơn nữa học thuyết mácxít về nhà nước và cách mạng, và lần đầu
trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Trong khi đó, Ph.Ăngghen đã phát triển triết học Mác thông qua việc khái
quát các thành tựu khoa học và phê phán các lý luận triết học duy tâm, siêu hình
và cả những quan niệm duy vật tầm thường ở những người tự nhận là người
mácxít nhưng lại không hiểu đúng thực chất của học thuyết Mác. Với những tác
phẩm chủ yếu của mình như Cách mạng và phản cách mạng ở Đức, Chống
Đuyrinh, Biện chứng của tự nhiên, Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu
và của nhà nước, Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức,
…Ph.Ăngghen đã trình bày học thuyết Mác nói chung, triết học Mác nói riêng
dưới dạng một hệ thống lý luận. Ngoài ra cũng cần chú ý rằng, những ý kiến bổ

sung, giải thích của Ph.Ăngghen sau khi C.Mác qua đời (1883) đối với một số
luận điểm của các ông trước đây cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát
triển học thuyết Mác.
7
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
PHẦN II: PHÂN TÍCH LÀM RÕ BƯỚC NGOẶT CÁCH MẠNG CỦA
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC KHI TRIẾT HỌC MÁC RA ĐỜI
Lịch sử đã chứng minh một cách thuyết phục rằng sự ra đời của triết học Mác
đã tạo nên sự biến đổi lớn có ý nghĩa cách mạng trong tiến trình phát triển triết
học. Điều này được ví như bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học của
nhân loại là hoàn toàn chính xác, bởi lẽ triết học Mác ra đời đã xây dựng được
những giá trị mà triết học trước C.Mác chưa ai thực hiện được. Thông qua triết
học Mác, học thuyết Mác đã thể hiện được giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn to
lớn của nó.
1. SỰ THỐNG NHẤT GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ PHÉP BIỆN
CHỨNG
Trong các học thuyết triết học duy vật trước C.Mác, tuy đã xuất hiện những
luận điểm thể hiện tư tưởng biện chứng, nhưng bởi hạn chế của điều kiện xã hội
và trình độ phát triển của khoa học nên chủ nghĩa duy vật triết học trước C.Mác
vẫn bị ảnh hưởng từ phương pháp tư duy siêu hình. Do vậy, quan điểm duy vật
của những học thuyết đó thường thiếu triệt để. Trong khi đó, phép biện chứng lại
phát triển trong cái vỏ duy tâm thần bí của triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là
trong triết học Hêghen. Cho nên, nội dung của phép biện chứng chưa phản ánh
đúng thế giới hiện thực. Do đó, “lịch sử triết học trước C.Mác thể hiện thế giới
quan duy vật trong mối quan hệ với phương pháp luận nhận thức siêu hình, hoặc
là thế giới quan duy tâm trong mối quan hệ với phương pháp luận nhận thức biện
chứng”
4
.

Triết học Mác ra đời, trước nhất đã thống nhất thế giới quan duy vật với
phương pháp luận biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ở đây không phải là
sự chắp nối phép biện chứng của Hêghen và chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, mà
là sự kế thừa và cải tạo cả chủ nghĩa duy vật lẫn phép biện chứng duy tâm của
4
Bùi Văn Mưa (Chủ biên): Đại cương về lịch sử triết học, Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí
Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, 2011, Phần I, tr.279.
8
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
Hêghen để cho ra đời chủ nghĩa duy vật biện chứng trong triết học Mác. Mác đã
khẳng định: “Phương pháp biện chứng của tôi không những khác phương pháp
của Hêghen về cơ bản, mà còn đối lập hẳn với phương pháp ấy nữa”
5
. Đưa chủ
nghĩa duy vật thoát khỏi tính hạn chế siêu hình, C.Mác đã xây dựng nên chủ
nghĩa duy vật biện chứng, hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng duy vật trong lịch sử triết học, với tính cách là khoa học về sự
phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài người và tư duy. Chủ nghĩa
duy vật và phép biện chứng trong triết học Mác là cơ sở để hình thành nên hệ
thống triết học vĩ đại nhất trong lịch sử: triết học Mác – Lênin. Đó chính là một
trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã thực hiện trong lịch sử triết học.
2. SÁNG TẠO RA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Với lịch sử triết học trước C.Mác, chủ nghĩa duy vật chỉ thể hiện đúng lập
trường duy vật trong quan niệm về tự nhiên; còn khi đề cập đến lịch sử xã hội,
các nhà duy vật lại rơi vào các quan điểm duy tâm, kể cả L.Phoiơbắc – nhà triết
học duy vật nổi tiếng trước C.Mác. Do vậy không thể nào tìm ra được quy luật
phát triển chung của xã hội loài người. Khi triết học Mác ra đời, bước ngoặt cách
mạng trong lịch sử triết học chính là thể hiện sự khác biệt về điểm này. Triết học

Mác xuất hiện đã mở rộng chủ nghĩa duy vật không chỉ hạn hẹp ở thế giới tự
nhiên mà sang cả lĩnh vực lịch sử xã hội loài người. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
vận dụng những lý luận của duy vật biện chứng để nghiên cứu lĩnh vực xã hội,
tìm ra các quy luật phát triển chung của xã hội loài người và tiến trình phát triển
tất yếu tự nhiên của nó. Từ đó xây dựng, sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
với tính cách là bộ phận của triết học Mác. C.Mác đã làm cho chủ nghĩa duy vật
trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức về sự phát triển của
thế giới tự nhiên đến chỗ nhận thức về lịch sử xã hội loài người. Chủ nghĩa duy
vật lịch sử ra đời đã loại bỏ được cơ sở tồn tại cuối cùng của chủ nghĩa duy tâm.
“Chủ nghĩa duy vật lịch sử của C.Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa
5
C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, T.23, tr.35.
9
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn
và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và
chính trị”
6
.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác đã chỉ ra quy luật vận động của
lịch sử xã hội loài người, sự thay thế của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên. Trong các quy luật của lịch sử xã hội, quy luật biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có vai trò quyết định. Các
quan hệ về kinh tế, cơ sở hạ tầng quyết định các quan hệ về chính trị, kiến trúc
thượng tầng. Triết học duy vật lịch sử cũng phát hiện ra vai trò sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân là người “đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản”, thực hiện
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, hướng đến mục tiêu cuối cùng là giải phóng
con người ra khỏi mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội công bằng, bình
đẳng, văn minh – chủ nghĩa cộng sản. Với bản chất duy vật triệt để, triết học Mác

trở thành công cụ vĩ đại để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo ra bước phát triển
mới về chất, một sự nhảy vọt so với các hệ thống triết học khác trong lịch sử.
3. THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
Trong lịch sử, các hệ thống triết học trước C.Mác, kể cả các hệ thống triết học
tiến bộ, đều chưa thấy hết vai trò thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận
thức và tiêu chuẩn của chân lý, chưa thừa nhận hết ý nghĩa thực tiễn cao nhất của
triết học là hướng đến phát triển xã hội và giải phóng con người. Tách rời giữa lý
luận và thực tiễn là đặc điểm vốn có trong triết học trước C.Mác. Vì vậy, C.Mác
viết: “Khuyết điểm chủ yếu của toàn bộ chủ nghĩa duy vật từ trước đến nay – kể
cả chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc – là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ
được nhận thức dưới hình thức khách thể hay hình thức trực quan, chứ không
được nhận thức là hoạt động cảm giác của con người, là thực tiễn, không được
nhận thức về mặt chủ quan”. “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà
6
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, T.23, tr.53-54.
10
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy
của mình. Sự tranh cãi về tính hiện thực hay tính không hiện thực của tư duy tách
rời thực tiễn là một vấn đề kinh nghiệm thuần túy”
7
.
Triết học Mác không chỉ là lý luận khoa học phản ánh bản chất, quy luật của
sự vận động và phát triển của thế giới, mà quan trọng hơn, đó là học thuyết nhằm
mục đích cải tạo thế giới. Tuy nhiên, C.Mác không hề phủ nhận các học thuyết
triết học trước đây, trái lại C.Mác vẫn đánh giá cao vai trò to lớn của các nhà triết
học và các học thuyết triết học tiến bộ trong sự phát triển xã hội. Chẳng hạn,

C.Mác khâm phục và đánh giá rất cao chủ nghĩa vô thần triết học của các nhà
duy vật Pháp thế kỷ XVII. Nhờ vậy mà sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn trở thành một nguyên tắc cơ bản của triết học Mác. Và chỉ khi triết học
Mác ra đời, vai trò thực tiễn và sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn mới thật
sự được xem là một nguyên tắc căn bản, chi phối mọi hoạt động con người. Vì
vậy, C.Mác viết: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách
khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”
8
. Luận điểm này không chỉ nói lên sự
khác nhau về chất giữa triết học của ông với các học thuyết triết học trước kia, kể
cả những học thuyết triết học tiến bộ, mà đó còn là biểu hiện của tính hiện thực,
tính thực tiễn vô cùng sâu sắc trong triết học Mác – Lênin. Đây chính là tính
bước ngoặt cách mạng trong triết học Mác.
4. THỐNG NHẤT GIỮA TÍNH KHOA HỌC VỚI TÍNH CÁCH MẠNG
Sự ra đời của triết học Mác được coi là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử
triệt học bởi nó đã thống nhất tính khoa học với tính cách mạng của triết học.
Bản chất khoa học của triết học Mác đã bao hàm trong mình bản tính cách mạng
của nó; và bản chất cách mạng của triết học Mác cũng đã thể hiện trong bản tính
khoa học của nó. Bởi vì:
7
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, T.23, tr.9-10.
8
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, T.23, tr.12.
11
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
 Tính khoa học càng sâu sắc, tức phản ánh càng đúng các quy luật
khách quan chi phối sự phát triển thế giới, thì khi quá trình vận dụng nó vào
hiện thực để cải tạo thế giới càng diễn ra hiệu quả, tức tính cách mạng được
thể hiện càng cao, càng triệt để.

 Thông qua hoạt động cải tạo thế giới, qua vai trò và sứ mệnh lịch
sử của giai cấp vô sản, triết học Mác đã chứng minh sự thay thế chủ nghĩa tư
bản bằng chế độ xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. “Chỉ có chủ nghĩa
duy vật triết học của C.Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường phải
theo để thoát khỏi chế độ nô lệ về tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp
bức đã sống lay lắt từ trước tới nay”
9
. Có thể nói, triết học Mác là vũ khí tinh
thần của giai cấp vô sản, còn giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của triết học
Mác trong cuộc đấu tranh vì xã hội tương lai. Sự kết hợp lý luận của chủ
nghĩa Mác với phong trào công nhân đã tạo nên bước chuyển biến về chất
của phong trào, từ trình độ tự phát lên tự giác. Đồng thời thông qua hoạt
động cải tạo thế giới, triết học Mác không ngừng được điều chỉnh, bổ sung
để phản ánh đúng thế giới khách quan.
Bản tính khoa học và cách mạng trong triết học Mác biểu hiện ở bản chất
khoa học và cách mạng của phép biện chứng. C.Mác cho rằng: “Dưới dạng hợp
lý của nó, phép biện chứng chỉ đem lại sự giận dữ và kinh hoàng cho giai cấp tư
sản và bọn tư tưởng gia giáo điều của chúng mà thôi, vì trong quan niệm tích cực
về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao hàm cả quan niệm
về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó; vì mỗi
hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là
xét cả mặt nhất thời của hình thái đó; vì phép biện chứng không khuất phục trước
một cái gì cả, và về thực chất thì nó có tính chất phê phán và cách mạng”
10
.
5. XÁC ĐỊNH ĐÚNG MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VÀ CÁC
KHOA HỌC CỤ THỂ
9
V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, T.23, tr.57-58.
10

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, T.23, tr.35-36
12
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
Quan niệm truyền thống trong lịch sử triết học trước C.Mác coi “triết học là
khoa học của mọi khoa học”. Hệ thống triết học là khoa học của mọi khoa học đồ
sộ nhất, chặt chẽ nhất, hợp lý nhất và cuối cùng trong lịch sử là hệ thống triết học
Hêghen đã bị phê phán mạnh mẽ, vì vậy đã củng cố quan điểm thực chứng đối
lập với nó.
Sự ra đời triết học Mác vạch ra bước ngoặt cách mạng bởi nó đã chấm dứt
hoàn toàn tham vọng ở nhiều nhà triết học duy tâm coi “triết học là khoa học của
mọi khoa học", đứng trên mọi khoa học, nhưng đồng thời cũng không cho phép
chủ nghĩa thực chứng cô lập, tách triết học ra khỏi khoa học cụ thể. Khi xác định
đúng đối tượng của triết học là nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự
nhiên, xã hội và tư duy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng lý luận triết học của
mình trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội. Triết học Mác không những không tách rời, mà trái lại nó đòi hỏi phải thực
hiện mối liên hệ mật thiết, đúng đắn giữa triết học với các khoa học chuyên
ngành. Bởi vì, theo Ph.Ăngghen, mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay
cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi phải
thay đổi hình thức của nó, nghĩa là sự phát triển của các lĩnh vực khoa học khác
nhau trong việc nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội đặt cơ sở cho những khái
quát mang tính phổ biến của triết học. Ngược lại, những kết luận của triết học trở
thành cơ sở thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát
triển của các lĩnh vực khoa học. Nhận xét về sự phát triển của khoa học tự nhiên
thời đó, Ph.Ăngghen cũng cho rằng, thoát khỏi chủ nghĩa thần bí, phép biện
chứng trở thành một tất yếu tuyệt đối với khoa học tự nhiên, khoa học này đã rời
bỏ địa hạt mà trước kia trong đó chỉ có những phạm trù cố định cũng đủ. Thực
tiễn khoa học đã chứng minh rằng, những thành tựu nghiên cứu của các khoa học
về tự nhiên và xã hội là tiền đề, cơ sở khoa học cho hệ thống phạm trù, quy luật

triết học; đồng thời, ngược lại, hệ thống phạm trù, quy luật triết học định hướng
cho sự phát triển hợp quy luật của các lĩnh vực khoa học khác nhau.
13
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
Không có triết học duy vật biện chứng, khoa học hiện đại không thể có những
bước tiến dài và vững chắc. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học hiện đại ngày
nay càng chứng minh cho mối liên hệ thống nhất giữa khoa học với triết học Mác
trên con đường nhận thức và cải tạo thế giới.
14
Sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học
______________________________________________________________________________
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, có thể thấy rõ, nhờ sự ra đời của triết học Mác mà
vai trò xã hội cũng như vị trí của triết học trong hệ thống tri thức khoa học và
đối tượng triết học có những thay đổi căn bản.
Sự xuất hiện của triết học Mác là một tất yếu lịch sử, một hiện tượng hợp
quy luật biện chứng khách quan, quy luật phát triển tư duy với sự sáng tạo thiên
tài của các nhà sáng lập – C.Mác và Ph.Ăngghen. Triết học Mác thực sự đã kết
tinh tất cả những giá trị cao quý của tư duy triết học, văn học và các khoa học
khác của lịch sử nhân loại vào thời điểm nó ra đời. Đặc biệt triết học Mác - khác
với các triết học trước nó – đó là sự kế thừa có chọn lọc, có phê phán những tư
tưởng triết học của nhân loại nói chung và của nền triết học Đức nói riêng, đồng
thời tiếp thu kế thừa cả các di sản của các khoa học khác một cách hết sức sáng
tạo.
Hơn thế nữa sự ra đời của triết học Mác còn là một bước ngoặt cách mạng, là
đỉnh cao trong sự phát triển lý luận triết học. Chính triết học Mác đã mở ra một
thế giới quan và phương pháp luận hoàn toàn mới mẻ, tiến bộ và khoa học cho
toàn nhân loại nói chung và cho giai cấp vô sản nói riêng. Và tiếp theo đến lượt
chính triết học Mác lại tạo ra những tiền đề mới cho sự phát triển toàn diện của

các lĩnh vực khoa học và đời sống xã hội, đưa nhân loại bước vào một kỷ nguyên
mới - kỷ nguyên phát triển sau triết học Mác.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995,
Tập 1
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993,
Tập 23
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004,
Tập 23
4. V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mátxcơva, 1980, Tập 23
5. Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên): Giáo trình triết học Mác – Lênin (Dùng
trong các trường đại học, cao đẳng), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007
6. Bùi Văn Mưa (Chủ biên): Đại cương về lịch sử triết học, Trường Đại học
Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh, 2011, Phần I
7. Lê Thanh Sinh và nhóm tác giả: Triết học Mác – Lênin (Hệ thống câu hỏi
– Đáp án gợi mở và Hướng dẫn viết tiểu luận), Trường Đại học Kinh tế
TP. Hồ Chí Minh
8. Các website:
www.caohockinhte.vn
www.caohoc.vn
www.luanvan.vn
www.open.ptit.edu.vn
www.saudaihoc.net
www.sgs.vnu.edu.vn
www.svkt.vn
www.thuvientailieu.vn
www.vientriethoc.com.vn

×