Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ HOẠT ĐỘNG THEO MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP XÃ HỘI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN VÀ DOANH NGHIỆP SIÊU NHỎ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.66 KB, 12 trang )

PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC TÀI CHÍNH VI MÔ HOẠT ĐỘNG THEO MÔ HÌNH DOANH
NGHIỆP XÃ HỘI CUNG ỨNG DỊCH VỤ CHO HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN VÀ DOANH
NGHIỆP SIÊU NHỎ Ở VIỆT NAM

Vốn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu đối với các chủ thể trong nền
kinh tế. Để có được nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất từ quy mô hộ gia đình, cá
nhân đến quy mô doanh nghiệp, các chủ thể này, bằng những cách thức và biện pháp khác
nhau có thể tiếp cận được các nguồn vốn phục vụ cho nhu cầu của mình. Tiếp cận vốn thông
qua hoạt động tài chính vi mô giúp giải quyết nhu cầu vốn cho những đối tượng luôn gặp khó
khăn trong tiếp cận nguồn vốn là các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp
siêu nhỏ do bị giới hạn bởi khả năng hoàn trả hoặc không có tài sản bảo đảm cho nguồn vốn
vay. Hoạt động tài chính vi mô được thực hiện thông qua tổ chức tài chính vi mô – một loại
hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu
của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ. Tuy nhiên, số lượng
và hiệu quả hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của những đối
tượng này. Chính vì vậy, phát triển doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi
mô đáp ứng nhu cầu về vốn cho sinh hoạt và đầu tư của những đối tượng này là rất cần thiết,
góp phần lấp đầy khoảng trống về khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam hiện nay.
1. Giới thiệu vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới, một số mô hình tài chính vi mô thành công điển hình như: Mô hình
Grameen Bank ở Bangladesh; Mô hình Bank Rakyat Indonesia (Phạm Thái Hà, 2017). Các
mô hình tài chính vi mô đã góp phần quan trọng trong việc cung ứng nguồn vốn tín dụng đa
dạng cho nhiều đối tượng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng được cung
ứng bởi các ngân hàng thương mại, nhất là trong giai đoạn đầu (khởi nghiệp) sản xuất kinh
doanh, tạo dựng tài sản, ổn định chỉ tiêu. Đối với hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp, nhu
cầu vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc xóa đói giảm nghèo luôn là vấn đề
được quan tâm hàng đầu, bởi lẽ, xuất phát từ đặc thù “thu nhập thấp” hoặc trong ngưỡng
nghèo đói và sự hạn chế về tài sản bảo đảm thì việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng thương mại
là điều vô cùng khó khăn.
Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay có khoảng 1000 hoạt động trên các lĩnh vực


giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe, thủ công mỹ nghệ, truyền thông cộng đồng, nông
nghiệp, bảo vệ môi trường… trong đó 68% số doanh nghiệp xã hội hướng tới xóa đói giảm
nghèo, ổn định cuộc sống và nâng cao thu nhập cho nhóm đối tượng yếu thế thông qua giáo
dục, đào tạo nghề, tăng cường kiến thức, thiết bị và kỹ năng. Một trong những hạn chế của


doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam là thiếu vốn và yếu kém trong khả năng tiếp cận các nguồn
tài chính, bởi phần lớn doanh nghiệp xã hội có quy mô nhỏ và khá non trẻ (British Council,
CIEM, NEU, 2016).
Sau hơn 30 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam đất nước đã có nhiều thay đổi, từ quốc gia nghèo, chậm phát triển đã chuyển mình
trở thành nước có thu nhập trung bình; nhiều dự án, công trình trọng điểm quốc gia được hình
thành trở thành những “đòn bẩy” cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn được duy
trì ở mức độ ổn định. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành và vận
hành cơ bản thông suốt, gắn kết với thị trường khu vực và quốc tế... (Vương Đình Huệ, 2016).
Tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Đảng ta nhận
định: Kinh tế chủ yếu phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu;
thiếu bền vững; chưa có chiến lược tổng thể phát triển các ngành công nghiệp; có biểu hiện ỷ
lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Việc quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên còn lỏng lẻo và gây lãng phí nghiêm trọng; những khiếm khuyết trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đã bộc lộ sự phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội
và môi trường (Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành trung ương – Ban chỉ đạo tổng
kết, 2015). Một trong những khiếm khuyết trong quá trình phát triển, chuyển đổi nền kinh tế
Việt Nam là vấn đề phân hóa xã hội, phân hóa giàu nghèo làm cho khoảng cách giữa các chủ
thể cho hoạt động kinh tế ngày càng xa. Hậu quả của sự phân hóa xã hội là có một lực lượng
xã hội ngày càng giàu lên nhanh chóng, ngược lại, số lượng hộ gia đình, cá nhân có thu nhập
thấp, các hộ nghèo, hộ cận nghèo không thể tiếp cận được các nguồn lực xã hội, trong đó có
nguồn vốn tín dụng phục vụ cho nhu cầu cải thiện cuộc sống. Đối với khu vực kinh doanh,
doanh nghiệp siêu nhỏ do giới hạn về quy mô vốn cũng không thể hoặc không có cơ hội tiếp
cận nguồn vốn tín dụng phục vụ cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.

Các lập luận trên cho thấy, việc phát triển tổ chức tài chính vi mô hoạt động theo mô
hình doanh nghiệp xã hội sẽ khắc phục được nhược điểm về khả năng tiếp cận vốn của khu
vực doanh nghiệp xã hội, đồng thời, với chức năng của một tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính
có thể huy động nguồn vốn thông qua nghiệp vụ nhận tiền gửi tiết kiệm bắt buộc theo quy
định của tổ chức tài chính vi mô và tiền gửi của tổ chức và cá nhân bao gồm cả tiền gửi tự
nguyện của khách hàng tài chính vi mô, trừ tiền gửi nhằm mục đích thanh toán. Tổ chức tài
chính vi mô cũng được vay vốn của tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính, và các cá nhân, các tổ
chức khác trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật (Quốc hội, 2010, 2017).
2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc cung ứng dịch vụ tài chính vi mô thông qua
doanh nghiệp xã hội


Tài chính vi mô là việc cung cấp các dịch vụ tài chính cho các đối tượng có thu nhập
thấp trong xã hội để phục vụ nhu cầu chi tiêu và đầu tư góp phần hiện thực hóa các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tài chính nông thôn. Khuôn khổ chính sách, pháp luật
cho hoạt động tài chính vi mô ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Văn bản pháp luật đầu tiên
điều chỉnh hoạt động tài chính vi mô là Nghị định số 28/2005/NĐ-CP ngày 09/3/2005 của
Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Tổ chức tài chính quy mô nhỏ tại Việt Nam. Nghị định
này được Nghị định số 165/2007/NĐ-CP ngày 15/11/2007 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ một số điều cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Luật các Tổ chức tín dụng 2010 chính
thức quy định về Tổ chức tài chính vi mô – Tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt
động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và
doanh nghiệp siêu nhỏ. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định, Tổ chức tài chính vi mô được
thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Để phát triển mô hình tài chính vi mô,
việc chuyển đổi chương trình, dự án tài chính vi mô theo quy định tại Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ quy định về hoạt động của chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ (sau đây gọi là tổ chức chuyển đổi
chương trình, dự án tài chính vi mô) đang được thúc đẩy thực hiện. Về bản chất, hoạt động tài
chính vi mô không phải là hoạt động từ thiện bắt buộc cần có sự tham gia của khu vực nhà
nước mà cần được nhìn nhận và áp dụng các nguyên tắc kinh doanh theo hướng bù đắp chi

phí và có lãi, bởi đối tượng phục vụ cho người thu nhập thấp và các doanh nghiệp siêu nhỏ
nên cần có cái nhìn đúng đắn về vị trí của tài chính vi mô trong hệ thống tài chính quốc dân.
Do đó, hoạt động của tổ chức tài chính vi mô mang nhiều dấu hiệu, đặc điểm của doanh
nghiệp xã hội - một hình thức doanh nghiệp mới được quy định trong Luật doanh nghiệp
2014. Theo đó, doanh nghiệp xã hội được thành lập theo Luật doanh nghiệp có mục tiêu hoạt
động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và phải sử dụng ít nhất
51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội,
môi trường như đã đăng ký. Việc gắn kết giữa hoạt động tài chính vi mô với doanh nghiệp xã
hội để hình thành các doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô là giải
pháp tối ưu nhằm giải quyết nhu cầu về vốn cho hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp và
doanh nghiệp siêu nhỏ. Điều này được lý giải trên các khía cạnh:
Thứ nhất, làm rõ hơn bản chất của tổ chức tài chính vi mô trong nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam, từ đó góp phần thúc đẩy việc cung ứng dịch vụ ngân hàng thông qua hoạt động
của tổ chức tài chính vi mô.
Luật các Tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi 2017 không xác định bản chất của Tổ chức tài
chính vi mô. Từ nội dung hoạt động, khách hàng của Tổ chức tài chính vi mô có thể suy luận,
hoạt động của Tổ chức tài chính vi mô mang bản chất tương trợ nhiều hơn bản chất kinh


doanh. Điều này được thể hiện ở chỗ chủ sở hữu của Tổ chức tài chính vi mô được thành lập
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải là tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam hoặc tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện có chương trình, dự án tài chính vi mô
được chuyển đổi theo quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của
chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
phi chính phủ. Đối với tổ chức tài chính vi mô là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
bắt buộc phải có ít nhất một thành viên sáng lập là tổ chức chính trị hoặc tổ chức chính trị - xã
hội; Có ít nhất một thành viên sáng lập là tổ chức đã hoặc đang trực tiếp tham gia quản lý
hoặc điều hành chương trình, dự án tài chính vi mô hoạt động an toàn, bền vững trong ít nhất
03 năm liên tiếp trước thời điểm nộp đơn đề nghị cấp Giấy phép (Ngân hàng Nhà nước,

2018). Do đó, việc kết hợp giữa doanh nghiệp xã hội (thông qua mục đích của doanh nghiệp
được tuyên bố) và hoạt động tài chính vi mô được cung ứng bởi các Tổ chức tài chính vi mô
sẽ giúp làm rõ hơn bản chất của Tổ chức tài chính vi mô so với các loại hình tổ chức tín dụng
khác là chỉ cung ứng một số dịch vụ ngân hàng cho nhóm khác hàng xác định của Tổ chức tài
chính vi mô là hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp và các doanh nghiệp siêu nhỏ.
Thứ hai, phát huy ưu điểm trong việc cung ứng dịch vụ tài chính cho khách hàng của
Tổ chức tài chính vi mô
Phân tích về tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Kim Anh và
các cộng sự (2011) cho rằng, tài chính vi mô được coi là một trong những biện pháp giảm
nghèo quan trọng, bởi với khoảng 72% dân số đang sống trong khu vực nông thôn, nơi có tới
94% người nghèo đang sinh sống, và nông nghiệp là ngành kinh tế chủ chốt với sự tham gia
của 54% lực lượng lao động của cả nước các đối tượng này thiếu hoặc khó tiếp cận được với
các dịch vụ tài chính, đặc biệt là các dịch vụ về tín dụng và tiết kiệm cho phát triển kinh tế và
công cuộc giảm nghèo mặc dù các tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính vi mô tại Việt Nam
tương đối đa dạng, tập trung vào các nhóm chính, đó là: Ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam, Quỹ Tín dụng nhân dân, các Tổ chức tài chính vi mô, và một số ngân hàng thương mại
(Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, Ngân
hàng Đông Á). Trong thực tiễn hoạt động, mỗi nhóm tổ chức có phân đoạn thị trường riêng,
nhưng đều tham gia vào thị trường tài chính vi mô. Ba tổ chức chính tham gia vào việc cung
cấp dịch vụ tài chính vi mô cho người thu nhập thấp/người nghèo là Ngân hàng Chính sách xã
hội, Quỹ tín dụng nhân dân và các Tổ chức tài chính vi mô. Mỗi tổ chức có những đánh giá
riêng của mình về việc trợ giúp khách hàng thu nhập thấp/nghèo và sự hài lòng của họ.
Trong khu vực các tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng thì chỉ có Quỹ tín dụng nhân
dân là có mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống cho


các thành viên, từ đó có thể suy luận rằng các tổ chức tín dụng còn lại, trong đó có có tổ chức
tài chính vi mô đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Trong hoạt động cung ứng dịch vụ ngân
hàng. Tổ chức tài chính vi mô không bị giới hạn phạm vi không gian hoạt động nên có thể
phát triển mạng lưới thông qua hệ thống các chi nhánh và sự hỗ trợ hay kết hợp với các tổ

chức chính trị xã hội ở địa phương trong việc cung ứng dịch vụ tài chính vi mô cho những đối
tượng có nhu cầu.
Thứ ba, bảo đảm sự phát triển cân đối các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường
Cũng như tất cả các nền kinh tế, nhà đầu tư khi tham gia thị trường đều hướng tới mục
tiêu tối đa lợi nhuận. Đây là cơ sở cho việc lý giải vì sao các quyết định đầu tư của nhà đầu tư
đều hướng tới các ngành, lĩnh vực kinh doanh và phân khúc khách hàng có nhiều tiềm năng
phát triển. Các ngành, lĩnh vực kinh doanh có tỷ suất sinh lời thấp thường không được nhà
đầu tư lựa chọn. Thực tế này đã làm mất cân đối cơ cấu chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ
trên thị trường. Trách nhiệm bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cân đối thuộc về nhà nước.
Nói cách khác, bảo đảm phát triển cân đối nền kinh tế không chỉ ở việc phát triển ngành, lĩnh
vực kinh doanh mà còn phải bảo đảm sự phát triển cân đối, đầy đủ các chủ thể cung ứng hàng
hóa, dịch vụ cho nền kinh tế thị trường cho những đối tượng gặp khó khăn trong việc tiếp cận
hàng hóa, dịch vụ một cách chính thức, trong đó có dịch vụ tài chính. Để thực hiện trách
nhiệm phát triển hệ thống chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ trên thị trường, Nhà nước sử
dụng công cụ chính sách, pháp luật để thu hút sự quan tâm của nhà đầu tư bằng nhiều chính
sách khác nhau như chính sách ưu đãi thuế, cơ chế hợp tác công tư giữa nhà nước với nhà đầu
tư, tạo điều kiện cho nhà đầu tư và doanh nghiệp của họ tiếp cận với các nguồn lực công hoặc
hỗ trợ khi gặp khó khăn… Với các chính sách ưu đãi hiện có, nhà đầu tư cân nhắc việc lựa
chọn ngành, lĩnh vực đầu tư khi tham gia thị trường. Sự tác động về chính sách có thể tạo lập
được mạng lưới các chủ thể tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường hoặc các
lĩnh vực hoạt động giải quyết hệ quả của các quá trình phát triển. Thông qua việc phát triển hệ
thống doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho các đối tượng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng chính thức từ phía các
ngân hàng thương mại có được nguồn vốn tín dụng phục vụ cho các nhu cầu của mình. Điều
này đặc biệt quan trọng đối với Việt Nam đang trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế
thì việc bảo đảm phát triển cân đối các chủ thể cung ứng dịch vụ tài chính phục vụ cho mọi
đối tượng hay bảo đảm cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để có cơ hội thoát nghèo hoặc phát
triển các mô hình kinh doanh, góp phần tự giải quyết việc làm hoặc tạo việc làm cho một
nhóm đối tượng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi và

nhóm đối tượng dễ bị tổn thương như người nghèo, phụ nữ nông thôn… Mặc dù Tổ chức tài


chính vi mô được nhìn nhận là một tổ chức hoạt động kinh doanh, nó cần được sống để duy
trì hoạt động nên cần hạn chế hay giới hạn sự can thiệp của công quyền, nâng cao tính độc
lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động (Viên Thế Giang, 2011). Song đối tượng
khách hàng của tổ chức tài chính vi mô đã được xác định nên trong hoạt động, tổ chức tài
chính vi mô khó có thể thực hiện các hoạt động sai đối tượng sử dụng dịch vụ ngân hàng.
(Phạm Ngọc Trường, 2016) lập luận với các lợi thế vượt trội như mức độ mở rộng tiếp cận
theo số lượng khách hàng và quy mô giá trị tăng trưởng ổn định; độ sâu tiếp cận đến từng hộ
gia đình và nhắm tới đối tượng rõ ràng là phụ nữ với tỷ lệ phụ nữ vay vốn so với số khách
hàng vay rất cao, với mức độ lợi nhuận và sự bền vững cao; mức độ rủi ro thấp, tổ chức tài
chính vi mô đang đóng vai trò tiên phong trong việc thực hiện thực hóa các mục tiêu của
Chiến lược phát triển tài chính vi mô Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020, đặt mục tiêu là chuyển
đổi tài chính vi mô thành một Ngành vững mạnh theo định hướng thị trường; cung cấp nhiều
dịch vụ tài chính có chất lượng cho các hộ gia đình nghèo và thu nhập thấp; tăng cường cơ hội
phát triển kinh tế cho người dân (Thủ tướng Chính phủ, 2011). Đây là cơ sở để pháp luật hiện
hành quy định Tổ chức tài chính vi mô chỉ được thực hiện cho vay bằng đồng Việt Nam đối
với các khách hàng tài chính vi mô và khách hàng khác để sử dụng vào các hoạt động tạo thu
nhập và cải thiện điều kiện sống (Ngân hàng Nhà nước, 2018).
Thứ tư, giảm thiểu gánh nặng tài chính cho việc thực hiện các chính sách xã hội của
nhà nước. Các nghiên cứu về tiếp cận dịch vụ tài chính vi mô thời gian qua đều nhìn nhận có
sự đa dạng trong việc cung ứng dịch vụ tài chính cho hộ gia đình, cá nhân có thu nhập thấp và
doanh nghiệp siêu nhỏ (Nguyễn Kim Anh và các cộng sự, 2011), (Viên Thế Giang, 201.a,
2011.b) thông qua việc cung ứng dịch vụ ngân hàng của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam và nhiều chương trình ưu đãi tín
dụng cho các đối tượng đặc thù như phụ nữ, lao động nông thôn, khu vực miền núi… Thực
trạng này đã làm cho hoạt động tài chính vi mô bị phân tán, hoạt động của một số chủ thể
cung ứng dịch vụ ngân hàng như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam
vẫn bị chi phối bởi tín dụng chính sách. Nói cách khác, việc cho phép hay còn tồn tại tình

trạng nhiều chủ thể cung ứng dịch vụ tài chính cho các đối tượng gặp khó khăn trong tiếp cận
dịch vụ tài chính vừa làm cho hoạt động tài chính vi mô bị phân tán, vừa phân tách tín dụng
thương mại và tín dụng chính sách không triệt để, làm gia tăng gánh nặng tài chính cho nhà
nước khi thực hiện các chính sách xã hội.
3. Phát triển hoạt động tài chính vi mô thông qua việc phát triển doanh nghiệp xã
hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô ở Việt Nam hiện nay
3.1. Các điều kiện pháp lý bảo đảm cho việc phát triển hoạt động tài chính vi mô
thông qua việc phát triển doanh nghiệp xã hội


Một là, pháp luật Việt Nam hiện hành (bao gồm Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật các
Tổ chức tín dụng 2010, sửa đổi 2017) đều công nhận và bảo đảm quyền thành lập doanh
nghiệp doanh nghiệp xã hội để cung ứng dịch vụ ngân hàng.
Luật các Tổ chức tín dụng quy định tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của của pháp
luật, được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thì được thực hiện một hoặc một số hoạt động
ngân hàng tại Việt Nam. Đối với Tổ chức tài chính vi mô, Luật các Tổ chức tín dụng quy định
hình thức doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn, bao gồm công ty trách nhiệm hữu
hạn một thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên. Luật Doanh
nghiệp 2014 không quy định hoặc bắt buộc doanh nghiệp xã hội phải thành lập dưới hình thức
doanh nghiệp nào miễn là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của
Luật Doanh nghiệp là có thể cam kết mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi
trường vì lợi ích cộng đồng và tuân thủ quy định sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng
năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng
ký. Với các quy định của pháp luật về thành lập, tổ chức các loại hình doanh nghiệp trong nền
kinh tế và quy định riêng về doanh nghiệp hoạt động trong việc cung ứng dịch vụ ngân hàng
cho thấy, quy định về hình thức doanh nghiệp của tổ chức tài chính vi mô là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc thành lập doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô
do không bị giới hạn về loại hình doanh nghiệp xã hội. Đồng thời, pháp luật doanh nghiệp
hiện hành không quy định bắt buộc doanh nghiệp xã hội phải hoạt động kinh doanh trong một
ngành hoặc lĩnh vực cụ thể.

Từ bản chất của doanh nghiệp xã hội, những ưu điểm của dịch vụ tài chính vi mô so với
dịch vụ ngân hàng được cung ứng bởi các ngân hàng thương mại cho thấy, phát triển doanh
nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô là điều kiện quan trọng cho việc đáp
ứng nhu cầu vốn trong nền kinh tế cho một số đối tượng. Sự kết hợp doanh nghiệp xã hội với
dịch vụ tài chính vi mô là cơ sở để nhà nước giải quyết một vấn đề xã hội là nhu cần vốn cho
một bộ phận không nhỏ người dân đang có nhu cầu vốn phù hợp với dịch vụ tài chính vi mô.
Hai là, việc phát triển doanh nghiệp xã hội để cung ứng dịch vụ tài chính vi mô sẽ tận
dụng được nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước về phát triển doanh nghiệp xã hội và thực
hiện thành công Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm
2020.
Các chính sách ưu đãi đã được nhà nước ghi nhận trong chính sách phát triển doanh
nghiệp xã hội như sau theo hướng Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức,
cá nhân thành lập doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn đề xã
hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng. Doanh nghiệp xã hội được hưởng các ưu đãi và hỗ trợ
đầu tư theo quy định của pháp luật; được tiếp nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài để thực


hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường theo quy định của pháp luật về tiếp
nhận viện trợ phi chính phủ nước ngoài. Ngoài các khoản viện trợ trên, doanh nghiệp xã hội
được tiếp nhận tài trợ bằng tài sản, tài chính hoặc hỗ trợ kỹ thuật từ các cá nhân, cơ quan, tổ
chức trong nước và tổ chức nước ngoài đã đăng ký hoạt động tại Việt Nam để thực hiện mục
tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường (Chính phủ, 2015) tại Việt Nam.
Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020 xác
định mục tiêu xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức tài chính vi mô an toàn, bền vững,
hướng tới phục vụ người nghèo, người có thu nhập thấp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh
nghiệp nhỏ, góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đảm bảo an sinh xã hội
và giảm nghèo bền vững. Để thực hiện thành công mục tiêu này, Nhà nước có chính sách
thuế, phí phù hợp để hỗ trợ phát triển hoạt động tài chính vi mô; hoàn thiện cơ chế về tín dụng
ưu đãi đảm bảo phục vụ đúng đối tượng người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Bộ
Tài chính có trách nhiệm tham mưu cho Chính phủ về việc tập trung nguồn vốn dành cho các

tổ chức tài chính vi mô, đồng thời đề xuất chính sách, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị xã hội tham gia sử dụng các nguồn vốn tín dụng ưu đãi để thực hiện hoạt động tài chính vi mô
(Thủ tướng Chính phủ, 2011).
Từ khuôn khổ chính sách, pháp luật hiện hành cho thấy, Nhà nước đang dành nhiều ưu
tiên cho việc phát triển doanh nghiệp xã hội có mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết các vấn
đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng, trong đó có việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho cá
nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, cá nhân đại diện cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, doanh
nghiệp siêu nhỏ - đây là những đối tượng gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn
tín dụng thương mại như đã phân tích ở trên. Thực tiễn phát triển doanh nghiệp xã hội cho
thấy, sẽ rất khó cho việc phát triển hệ thống doanh nghiệp xã hội nếu như không có sự hỗ trợ
từ phía nhà nước (Viên Thế Giang, 2018).
Thực trạng phát triển và hoạt động của Tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam có những
điểm tối, điểm sáng, trong đó bảo đảm an toàn cho hoạt động cung ứng dịch vụ ngân hàng do
các Tổ chức tài chính vi mô cung ứng vẫn đang là vấn đề cần được tập trung giải quyết. Chính
sách ưu đãi cho phát triển hoạt động tài chính vi mô kết hợp với ưu đãi dành riêng cho các
doanh nghiệp xã hội chắc chắn sẽ trở thành lực đẩy quan trọng cho việc phát triển doanh
nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô, nhất là ở khu vực nông thôn cũng như
các đối tượng gặp khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam đang phát triển mạnh và có sự phân hóa ngày càng sâu sắc.
Ba là, phát triển doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh vực tài chính vi mô là một
giải pháp cho việc cụ thể hóa yêu cầu nghiên cứu, ban hành chính sách nhằm đa dạng hóa loại
hình tổ chức tài chính vi mô, đồng thời, với việc phát triển doanh nghiệp xã hội hoạt động


trong lĩnh vực tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi
chính phủ. Phát triển hoạt động tài chính vi mô không chỉ ở khía cạnh đa dạng hóa loại hình
tổ chức hoạt động và mở rộng sản phẩm dịch vụ tài chính vi mô mà còn đặt vấn đề liên kết
hoạt động của các loại hình tổ chức tín dụng khác. Đây là nhiệm vụ quan trọng của việc triển
khai Đề án xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020 mà
Ngân hàng Nhà nước cần triển khai thực hiện.
3.2. Một số giải pháp góp phần thúc đẩy phát triển hoạt động tài chính vi mô thông

qua việc phát triển doanh nghiệp xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, bảo đảm cân bằng giữa mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu xã hội của tổ chức tài
chính vi mô. Cần thiết lập và phát triển mạng lưới doanh nghiệp xã hội hoạt động trong lĩnh
vực tài chính vi mô.
Hầu hết quan điểm các nhà nghiên cứu đều thống nhất, tổ chức tài chính vi mô tạo ra
các dịch vụ tài chính cho người nghèo, gắn với ý nghĩa gánh vác sứ mệnh an sinh xã hội,
giảm nghèo bền vững, là một dịch vụ tài chính không thể thiếu trong hệ thống tài chính quốc
gia. Hoạt động tài chính vi mô tạo ra cơ hội cho người dân ở nông thôn – nhất là người nghèo
tiếp cận được với dịch vụ tài chính, tăng cường sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng đồng
nói chung, tăng cường năng lực xã hội, giảm thiểu những tác động tiêu cực đối với phụ nữ và
trẻ em – những đối tượng chịu tác động mạnh mẽ nhất của tình trạng đói nghèo. Trẻ em trong
các hộ nghèo thường phải nghỉ học sớm để tham gia lao động phụ giúp gia đình, có thể sẽ
phải rời vùng quê lên các thành thị để kiếm sống, từ đó trẻ em dễ bị lôi kéo vào tệ nạn xã hội
nên có thể lặp lại vòng xoáy nghèo đói mới có thể sẽ được hình thành. Đối với hộ có phụ nữ
là chủ hộ sẽ sử dụng một cách hiệu quả hơn là những hộ chủ hộ là nam giới. Nói cách khác,
tài chính vi mô là cách thức trao quyền cho phụ nữ được biểu hiện dưới hình thức tăng khả
năng thu và kiểm soát tài sản của hộ gia đình, dẫn đến quyền tự chủ và ra quyết định lớn trong
gia đình (Nguyễn Quỳnh Phương, 2017:26-27). Tuy nhiên, thực tiễn phát triển hoạt động tài
chính vi mô và hình thành hệ thống các tổ chức tài chính vi mô đặt ra đòi hỏi phải thống nhất
nhận thức hoạt động tài chính vi mô cần phải được đối bình đẳng như các chủ thể cung ứng
dịch vụ ngân hàng, nghĩa là tổ chức tài chính vi mô là một tổ chức kinh doanh để cung ứng
dịch vụ ngân hàng cho cá nhân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, cá nhân đại diện cho hộ
nghèo, hộ cận nghèo, doanh nghiệp siêu nhỏ.
Thực tế cho thấy, nếu quá coi trọng mục đích lợi nhuận như quan điểm trên thì rất khó
có thể phát triển hoạt động tài chính vi mô, bởi lẽ, khách hàng của Tổ chức tài chính vi mô là
những đối tượng gặp nhiều khó khăn trong việc bảo đảm nguồn chi trả cho các khoản vay kể
cả cá nhân thuộc hộ gia đình, cá nhân đại diện cho hộ gia đình từng là khách hàng tài chính vi
mô của tổ chức tài chính vi mô đó nhưng đã thoát nghèo, cận nghèo. Như vậy, phát triển hoạt



động tài chính vi mô thông qua doanh nghiệp xã hội là sự kết hợp hài hòa xã mục tiêu kinh
doanh (bảo đảm yêu cầu sống để tồn tại và đáp ứng các yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt
động của các tổ chức tín dụng) và thực hiện mục tiêu giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường
và vì lợi ích cộng đồng, là sự cân bằng giữa việc thực hiện trách nhiệm xã hội và khả năng
sinh lời từ hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính. Các tổ chức tài chính vi mô nhận ra rằng
không thể duy trì được trách nhiệm xã hội một cách bền vững nếu không có một khả năng tài
chính bền vững. Và ngược lại, nếu các tổ chức này duy trì khả năng sinh lợi quá cao thì họ sẽ
không đảm bảo được trách nhiệm xã hội của mình và lúc đó sứ mệnh hoạt động của họ sẽ
không có ý nghĩa. Ví dụ thực tế, nhiều tổ chức tài chính vi mô tại khu vực Mỹ Latinh, để đảm
bảo việc bền vững tài chính, khả năng sinh lợi và trách nhiệm xã hội đã liên kết với các định
chế tài chính khác để phối hợp bán chéo các sản phẩm khác như chuyển tiền, nhận tiền trợ cấp
và bảo hiểm (Nguyễn Quỳnh Phương, 2017:23).
Thứ hai, thúc đẩy nhanh việc chuyển đổi chương trình, dự án tài chính vi mô theo quy
định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về hoạt động của chương trình, dự án
tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ theo
hướng khuyến khích thành viên lựa chọn doanh nghiệp xã hội để tiếp tục việc thực hiện các
chương trình, dự án tài chính vi mô. Pháp luật hiện hành cho phép tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam hoặc tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội, hội, quỹ xã hội, quỹ từ thiện có chương trình, dự án tài chính vi mô
được chuyển đổi theo quy định tại Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hoạt động của
chương trình, dự án tài chính vi mô của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức
phi chính phủ khi có khả năng về tài chính để góp vốn thành lập Tổ chức tài chính vi mô và
cam kết không dùng vốn ủy thác, vốn huy động, vốn vay của các tổ chức, cá nhân khác để
góp vốn; cam kết hỗ trợ Tổ chức tài chính vi mô về tài chính để giải quyết khó khăn trong
trường hợp gặp khó khăn về vốn hoặc khả năng thanh khoản và không phải là cổ đông sáng
lập, chủ sở hữu, thành viên sáng lập, cổ đông chiến lược của tổ chức tín dụng khác tại Việt
Nam được được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Đây là
điều kiện quan trọng cho việc hình thành hệ thống Tổ chức tài chính vi mô có thể đáp ứng nhu
cầu ngày càng đa dạng của các thành viên của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
Thứ ba, đa dạng hóa sản phẩm tài chính vi mô cần được nhìn nhận là giải pháp sống

còn cho việc thúc đẩy hoạt động tài chính vi mô phát triển ở Việt Nam. Sản phẩm dịch vụ tài
chính vi mô gồm các nhóm sản phẩm dịch vụ tài chính được điều chỉnh và thiết kế để đáp ứng
nhu cầu của khách hàng thu nhập thấp. Đánh giá về các sản phẩm dịch vụ của tổ chức tài
chính vi mô bao gồm (Nguyễn Kim Anh và các cộng sự, 2017) nhận định:


- Đối với dịch vụ cấp tín dụng, hầu hết tổ chức tài chính vi mô cung cấp cho vay dưới
hai hình thức: Cho vay theo nhóm và cho vay cá nhân, song không thuần nhất và cũng bộc lập
một số hạn chế, bất cập như: Khi thiết kế sản phẩm tín dụng không dựa trên nhu cầu và quan
điểm kinh doanh, định hướng thị trường mà chủ yếu kế thừa từ các dự án tài trợ trước đây;
chưa xây dựng được qui trình cho vay chặt chẽ với đầy đủ các bước mà tổ chức đưa ra yêu
cầu nhân viên tín dụng phải thực hiện trong quá trình cho vay; chưa xây dựng được chiến
lược quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của mình; chưa có trung tâm quản lý thông tin tín
dụng để cung cấp cho nhau các thông tin về lịch sử vay vốn, hoàn trả và việc vay vốn hiện tại
của các khách hàng giữa các tổ chức tài chính vi mô.
- Đối với hoạt động huy động vốn cũng gặp không ít khó khăn như quy mô tiền gửi tiết
kiệm còn khiêm tốn, các hình thức huy động khác càng ngày càng khó khăn; các sản phẩm
huy động vốn kém đa dạng, chất lượng thấp; quy mô vốn huy động hiện tại còn khá nhỏ bé,
chưa đáp ứng được các nhu cầu của tài chính vi mô trong tương lai.
- Đối với dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, chưa tổ chức tài chính vi mô nào ở Việt
nam tham gia cung cấp các sản phẩm dịch vụ về thanh toán và chuyển tiền. Đối với khách
hàng hầu như chưa từng sử dụng các sản phẩm dịch vụ tài chính vi mô, do vậy nhu cầu của họ
không rõ. Theo nhóm nghiên cứu, việc phát triển dịch vụ thanh toán là sản phẩm dịch vụ nòng
cốt giúp cho tài chính vi mô phát triển thành tài chính toàn diện bởi phần đông người dân
nông thôn chưa được tiếp cận với các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nguyễn Kim Anh, Ngô Văn Thứ, Lê Thanh Tâm, Nguyễn Thị Tuyết Mai. (2011). Tài
chính vi mô với giảm nghèo ở Việt Nam – Kiểm định và so sánh. Hà Nội: Nxb.
Thống kê, tr.26 – 27.
Nguyễn Kim Anh. (Chủ biên, 2017). Sản phẩm dịch vụ tài chính vi mô: Thực trạng và giải

pháp phát triển. Nhóm công tác tài chính vi mô Việt Nam. Hà Nội, 2017.
British Council, CIEM, NEU. (2016). Điển hình doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Hà Nội,
tr.17, 18.
Chính phủ. (2015). Nghị định số 96/2015/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều
của Luật Doanh nghiệp, ban hành ngày 19 tháng 10 năm 2015.
Đảng Cộng sản Việt Nam – Ban Chấp hành trung ương – Ban chỉ đạo tổng kết. (2015).
Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (19862016). Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, tr.73, 83, 84, 89.
Viên Thế Giang. (2011.a). Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của tổ chức tài chính
vi mô ở Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng số 17, tháng 9, tr.45.


Viên Thế Giang. (2011.b). Phát triển tổ chức tài chính vi mô ở Việt Nam hiện nay. Tạp chí
Công nghệ Ngân hàng, số 65, tháng 8, tr.33-38.
Viên Thế Giang. (2018). Phát triển doanh nghiệp xã hội từ thực tiễn pháp luật Việt Nam. Kỷ
yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Doanh nghiệp nữ trong cách mạng công nghiệp
4.0” do Học viện Phụ nữ Việt Nam tổ chức ngày 18/10/2018 tại Hà Nội, Nxb.
Hồng Đức, Hà Nội, 2018, tr.39 – 51.
Phạm Thái Hà. (2017). Hoạt động tài chính vi mô: Kinh nghiệm thế giới và bài học cho Việt
Nam. Lấy từ: />
(ngày

4/09/2017).
Vương Đình Huệ. (2016). Những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế. Lấy từ:
/>8442602-nhung-thanh-tuu-noi-bat-trong-phat-trien-kinh-te.html (ngày 4/01/2016).
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (2018). Thông tư số 03/2018/TT-NHNN quy định về việc
cấp Giấy phép, tổ chức, hoạt động của tổ chức tài chính vi mô, ban hành ngày 23
tháng 02 năm 2018.
Nguyễn Quỳnh Phương. (2017). Phát triển hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô ở Việt
Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường Đại học Thương mại. Hà Nội, tr.26-27.
Quốc hội. (2010, 2017). Luật các Tổ chức tín dụng 2010 và Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật các Tổ chức tín dụng 2017.
Thủ tướng Chính phủ. (2011). Quyết định số 2195/QĐ-TTg về việc Phê duyệt Đề án xây
dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô tại Việt Nam đến năm 2020, ban hành
ngày 06 tháng 12 năm 2011.
Phạm Ngọc Trường. (2016). Tài chính vi mô đối với công tác xóa đói giảm nghèo. Tạp chí
Tài chính, tháng 12/2016, tr.76.



×