Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

SKKN phương pháp sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.21 KB, 27 trang )



MỤC LỤC
.....................................................................................................................................................................2
MỤC LỤC.....................................................................................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................................................1
2. Điểm mới của đề tài...........................................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................................................2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.........................................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu...................................................................................................................3
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề..................................................................................................................3
7. Cấu trúc của đề tài:.............................................................................................................................3
B. NỘI DUNG..............................................................................................................................................5
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI.......................................................................5
1.1. Cơ sở lý luận................................................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm dạy học tích cực..................................................................................................5
1.1.2. Định hướng dạy học tích cực...............................................................................................5
1.1.3. Thế nào là tích cực và hứng thú trong học tập?.................................................................6
1.2. Cơ sở thực tiễn............................................................................................................................6
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÂU HỎI ĐỂ PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ
KHẮC SÂU KIẾN THỨC CHO HỌC SINH TRONG MÔN LỊCH SỬ..............................................................9
2.1. Yêu cầu.........................................................................................................................................9
2.2. Biện pháp.....................................................................................................................................9
2.2.1. Xây dựng tình huống có vấn đề bằng câu hỏi trước khi vào bài mới.................................9
2.2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhận thức cho cả bài học.................................12
2.2.3. Xây dựng câu hỏi củng cố toàn bài, chương.....................................................................14
2.2.4. Lựa chọn câu hỏi để rèn luyện kĩ năng thảo luận nhóm..................................................14
C. KẾT LUẬN..............................................................................................................................................22
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................................24



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã được xác định trong Nghị quyết
Trung ương 4 khóa VII (01/1993), Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII (12/1996),
được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2009, được cụ thể hóa trong các
văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2010, điều
28.2, đã nêu rõ: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn
học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực
tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú, học tập cho học sinh”. Có thể
nói, cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn
lịch sử nói riêng là hướng hoạt động học tập tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh,
giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập, chống lại lối dạy đọc chép,
thói quen học tập thụ động.
Bộ môn Lịch sử có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ.
Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với
thành tựu giành và giữ nước của tổ tiên, xác định nhiệm vụ trong hiện tại có thái độ
đúng với sự phát triển hợp quy luật của tương lai. G.Tsecnưsepxki - nhà tư tưởng dân
chủ Nga thế kỷ XIX đã nói rằng: “Có thể không biết không say mê học tập môn
Toán...có thể không biết hàng nghìn môn khoa học khác nhưng dù sao đã là người có
giáo dục mà không yêu thích lịch sử thì chỉ có thể là một con người không phát triển
đầy đủ về trí tuệ”. Tuy nhiên, những quan niệm sai lệch về vị trí của môn lịch sử đã
dẫn tới phương pháp học tập không đúng làm giảm sút chất lượng của bộ môn trên
nhiều mặt. Tình trạng học sinh không biết những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm
lẫn kiến thức hoặc tỏ ra kém hứng thú với bộ môn là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều
trường học. Trong việc đổi mới, cải tiến phương pháp dạy học, việc phát huy tính tích
cực của học sinh có ý nghĩa rất quan trọng . Vì vậy việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý
chí, năng lực, bồi dưỡng, rèn luyện, phương pháp tự học là con đường phát triển tối ưu
của giáo dục.
Qua kinh nghiệm giảng dạy môn Lịch sử lớp 10 ở Trường tôi nhận thấy có bộ

phận không nhỏ học sinh chưa có hứng thú cao với môn học này. Cho nên, bản thân
tôi luôn trăn trở câu hỏi: Làm thế nào để học sinh hứng thú say mê trong giờ học lịch
sử? Học sinh có hứng thú say mê học tập với bộ môn thì mới tích cực, chủ động tiếp
thu, tìm tòi, sáng tạo để nâng cao chất lượng dạy học. Nhưng dạy như thế nào để gây
được hứng thú cho học sinh? Không phải cứ biết thông thạo sử là dạy được sử, cũng
như không phải chỉ nghe nhạc là đã có thể trở thành nhạc sĩ.
1


Một trong những phương pháp quan trọng để phát huy tính tích cực và gây
hứng thú cho học sinh trong giờ học nói chung, giờ học lịch sử nói riêng, đó là
phương pháp sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh.
Quá trình hoạt động chung thống nhất giữa thầy và trò nhịp nhàng, sẽ làm học sinh
nắm vững hơn những tri thức, hình thành kĩ năng và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và
nhân cách đạo đức cho các em.
Vậy, để góp phần nào vào việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, dạy
học Lịch sử nói riêng. Bản thân tôi mặc dù là giáo viên trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm
trong giảng dạy cũng xin mạnh dạn trình bày một số vấn đề về “Phương pháp sử dụng
câu hỏi để phát huy tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh trong dạy học Lịch sử
lớp 10”.
2. Điểm mới của đề tài
Thư nhất. Đề tài không nghiên cứu tổng quát về việc sử dụng hệ thống câu hỏi để phát
huy tính tích cực, và hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử nói chung mà đã cụ
thể hóa được việc sử dụng câu hỏi qua từng mục, từng bài trong phạm vi lịch sử lớp
10 như:
+ Câu hỏi tạo tình huống trước khi vào bài mới
+ Hệ thống câu hỏi theo các mức độ nhận thức (nhận biết , thong hiểu, vận dung và
vận dụng cao)
+ Hệ thống câu hỏi củng cố toàn bài và toàn chương….
Thứ hai. Đề tài đưa ra các yêu cầu cụ thể đối với giáo viên khi sử dụng hệ thống câu

hỏi trên để phát huy tính tích cực, tạo hứng thú cho học sinh ngay từ các khâu: soạn
giáo án, các khâu lên lớp cách thức biễu đạt câu hỏi đối với người học…
Thứ 3. Đề tài đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu. Trong đó
nổi bật và việc tích cực chủ động thực nghiệm bằng các phương pháp mới thông qua
hoạt động dạy học để rút ra được kết quả.
3. Mục đích nghiên cứu
Với việc nghiên cứu đề tài này tôi mong rằng sẽ giúp được phần nào cho giáo
viên tiến hành dạy môn Lịch sử 10 đạt hiệu quả cao, học sinh tích cực chủ động trong
việc tiếp thu, lĩnh hội kiến thức một cách sinh động.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp sử dụng câu hỏi để phát huy
tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 10.
2


5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt đề tài này tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Thu thập, tổng hợp, nghiên cứu tài liệu liên quan đến đề tài.
- Thao giảng, dự giờ, dạy thục nghiệm, trao đổi ý kiến với các đồng nghiệp trong quá
trình dạy.
- Áp dụng phương pháp mới trên lớp.
- Điều tra, khảo sát kết quả học tập cả học sinh.
- Lấy ý kiến đồng nghiệp và học sinh.
6. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có phương pháp sử dụng câu hỏi
để phát huy tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh là đề tài đã được nhiều nước
trên thế giới nghiên cứu và áp dụng. Ở Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề trên cũng
được chú ý nghiên cứu trong những năm gần đây, trong đó nổi lên một số công trình
như:
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông - Những vấn đề

chung, NXB Giáo dục.
- TS. Huỳnh Văn Sơn (2011), Những cơ sở tâm lí của việc tổ chức hoạt động dạy và
học tích cực, NXB Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh.
Tập thể tác giả ĐHSP Hà Nội (2015), Dạy học tích hợp phát triển năng lực học sinh
(khoa học xã hội), NXB Đại học Sư phạm Hà Nội
- Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 Ban hành kèm theo
quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ.
- Robert J. Marzano, Debra J. Pickering, Jane E. Pollock, dịch giả: Nguyễn Hồng Vân
(2011), Các phương pháp dạy học hiệu quả, NXB Giáo dục.
-.Các công trình trên đã đề cập đến phương pháp sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích
cực và gây hứng thú cho học sinh. Tuy nhiên, các công trình trên chỉ đề cập một cách
khái quát vấn đề. Cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống
và cụ thể hóa về phương pháp sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và gây hứng
thú cho học sinh riêng ở bộ môn Lịch sử, đặc biệt là ở một khối lớp nhất định.
7. Cấu trúc của đề tài:
Đề tài nghiên cứu ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung gồm 2 chương:
3


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Một số yêu cầu và biện pháp sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và
khắc sâu kiến thức cho học sinh trong môn lịch sử .

4


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận


1.1.1. Khái niệm dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều
nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt
động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát
huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người dạy. Để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều
so với dạy theo phương pháp thụ động.
Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh có nghĩa là phải thay đổi
cách dạy và cách học. Chuyển cách dạy thụ động, truyền thụ một chiều “đọc- chép”,
giáo viên làm trung tâm sang cách dạy lấy học sinh làm trung tâm hay còn được gọi là
dạy và học tích cực. Trong cách dạy này học sinh là chủ thể hoạt động, giáo viên là
người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn, tạo nên sự tương tác tích cực giữa người dạy và
người học.

1.1.2. Định hướng dạy học tích cực
Vấn đề phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được đặt ra trong
ngành giáo dục Việt Nam từ những năm 1960. Ở thời điểm này, các trường Sư
phạm đã có khẩu hiệu: “Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”. Trong
cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai vào năm 1980 đã chỉ rõ phát huy tính tích cực
đã là một trong các phương hướng cải cách, nhằm đào tạo những người lao động
sáng tạo làm chủ đất nước. Từ đó, trong nhà trường xuất hiện ngày càng nhiều
tiết dạy tốt của các giáo viên giỏi, theo hướng tổ chức cho học sinh hoạt động, tự
lực chiếm lĩnh tri thức mới.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự thách thức của quá
trình hội nhập kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có nguồn nhân lực, người lao động
có đủ phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội trong giai đoạn mới.
Người lao động phải có khả năng thích ứng, khả năng thu nhận và vận dụng linh
hoạt, sáng tạo tri thức của nhân loại vào điều kiện hoàn cảnh thực tế, tạo ra
những sản phẩm đáp ứng yêu cầu của xã hội. Để có nguồn nhân lực trên, yêu cầu

đặt ra là phải đổi mới giáo dục, trong đó có đổi mới mục tiêu giáo dục, nội dung
5


giáo dục và phương pháp dạy học. Định hướng đổi mới phương pháp dạy học đã
được xác định trong Nghị Quyết Trung ương 4 khóa VII (1/1993), Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII (12/1996) và được thể chế hóa trong Luật Giáo dục sửa
đổi ban hành ngày 27/6/2005, điều 2.4, đã ghi “Phương pháp giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; Bồi dưỡng cho
người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn
lên”.

1.1.3. Thế nào là tích cực và hứng thú trong học tập?
Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Để tồn tại và phát triển,
con người luôn phải chủ động và hăng hái cải biến môi trường tự nhiên. Bởi vậy, hình
thành và phát triển tính tích cực là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục.
Tính tích cực học hỏi về bản chất là tính tích cực nhận thức, đặc điểm ở khát vọng
thông hiểu, có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.
Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học hỏi liên tưởng trước tiên với động
cơ học hỏi. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú
và tự giác là hai nhân tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc
lập. Nghĩ suy độc lập là mầm mống của sáng tạo. Ngược lại, tính tích cực sẽ phát triển
sự hứng thú, bồi dưỡng động cơ học hỏi. Tính tích cực học hỏi thể hiện ở những dấu
hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, nhận xét các câu trả lời của bạn,
mạnh dạn phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề đặt ra; hoặc nêu thắc mắc, đòi hỏi
giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã
học để tiếp nhận thức kiến thức mới; say mê hoàn thành các bài tập, không nản chí
trước những tình huống khó khăn… Tính tích cực học tập biểu hiện qua các cấp độ từ
thấp lên cao như: Bắt chước, tìm tòi và sáng tạo.
1.2. Cơ sở thực tiễn

Khi nói về thực trạng dạy và học môn Lịch sử ở các trường phổ thông, GSNGND Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Việt Nam đã nhận định: “ Vấn
đề đánh giá thực trạng dạy, học môn Lịch sử hiện nay không phải bây giờ mới đặt ra
nhưng giờ đây đã được dư luận quan tâm rất nhiều trên các phương tiện truyền
thông, đặc biệt là sau kì thi đại học những năm vừa qua. Có những năm kết quả thi
tuyển sinh môn Lịch sử đã thực sự gây “sốc” đối với toàn xã hội : Tỷ lệ thí sinh có
điểm thi dưới trung bình chiếm hơn 80% trong đó hơn 60% có điểm thi dưới 1 (1/10).
Qua đó cho thấy kiến thức bộ môn Lịch sử của học sinh bậc trung học phổ thông quá
yếu”. Đó là một vấn đề mà cả xã hội đang quan tâm.
Nhìn vào kết quả của việc học tập môn Lịch sử, đặc biệt là qua các kì thi tuyển,
chúng ta có thể thấy rõ về thực trạng đó. Ở trường trung học phổ thông, trong các môn
6


thi tốt nghiệp, có lẽ môn lịch sử là môn gây nên sự chú ý nhiều nhất của dư luận và
lập được nhiều “kỷ lục” trong thi cử ở nước ta: là môn thi có điểm trung bình thấp
nhất trong các môn thi tốt nghiệp THPT nhiều năm gần đây.
Trong các môn thi tuyển ở Đại học năm 2006 thì môn sử có điểm số thấp nhất.
Trường ĐH Sư phạm Hà Nội có gần 700 bài thi môn sử bị điểm 0; chỉ có 9% bài thi
đạt điểm từ 6 trở lên. Kết quả thi tuyển sinh môn Lịch sử của trường ĐH Sư phạm
Thành Phố Hồ Chí Minh cũng không khá hơn là mấy khi các bài thi đa số dưới 5
thuộc loại yếu kém.
Qua vài năm giảng dạy lớp 10 ở trường tôi nhận thấy:
*Ưu điểm
- Nhà trường, tổ bộ môn tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích giáo viên đổi
mới phương pháp dạy học. Trường đã tập huấn và phổ biến tài liệu về các phương
pháp dạy học tích cực cho giáo viên.
- Hầu hết giáo viên dạy môn Lịch sử trong nhà trường đều nhận thức rõ về tầm
quan trọng của việc đổi mới phương pháp tiếp thu kiến thức của học sinh. Vì vậy,
trong quá trình dạy học trong một chừng mực nhất định giáo viên cũng đã có nhiều cố
gắng trong việc phát huy tính tích cực và tạo hứng thú cho học sinh. Trong soạn giảng

có hướng đổi mới phương pháp dạy học bằng nhiều hình thức như đặt câu hỏi có vấn
đề, đưa ra những tình huống để học sinh giải quyết, xây dựng hệ thống câu hỏi phát
huy tính tích cực của học sinh. Trong quá trình dạy học đã kết hợp nhuần nhuyễn các
đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như
tranh, ảnh, bản đồ, ứng dụng công nghệ thông tin thường xuyên vào giảng dạy.
- Đa số học sinh có ý thức học tập tốt, khả năng tiếp thu và giải quyết vấn đề
nhanh nhạy. Các em tỏ ra hứng thú với các câu hỏi tư duy động não.
*Tồn tại và nguyên nhân
- Việc thực hiện dạy học tích cực bằng cách sử dụng hệ thống câu hỏi để phát
huy tính tích cực và hứng thú của học sinh còn chưa được đồng đều giữa các giáo
viên, một số giáo viên chưa vận dụng linh hoạt vào bài dạy. Do đó, chưa phát huy hết
tích tích cực cũng như chưa tạo được hứng thú thật sự của các em đối với bộ môn.
- Vẫn còn một số ít giáo viên chưa cải tiến nội dung và phương pháp dạy học,
chưa gây được hứng thú học tập cho học sinh, lối dạy truyền thụ một chiều “thầy nói,
trò nghe”, “thầy đọc, trò chép” tuy có giảm nhưng vẫn còn. Từ đó, dẫn đến học sinh
nhàm chán, học một cách thụ động, dẫn đến chất lượng ở một số lớp chưa cao.

7


- Một số giáo viên còn xem nhẹ việc sử dụng hệ thống câu hỏi để tương tác với
học sinh. Việc vận dụng đổi mới phương pháp vào các tiết dạy chưa linh hoạt, sinh
động, hấp dẫn, chưa tạo được hứng thú học tập bộ môn cho học sinh. Đôi lúc giáo
viên đặt câu hỏi hơi khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có hệ thống câu
hỏi gợi mở để dẫn dắt học sinh khai thác. Hoặc ở một số tiết giáo viên chỉ nêu vài ba
câu cho học sinh khá giỏi trả lời chưa có câu hỏi dành cho đối tượng học sinh trung
bình. Cho nên đối tượng này ít được chú ý, các em thêm tự ti về năng lực của mình và
cảm thấy chán nản môn học.
- Có bộ phận không nhỏ học sinh chỉ học bài đối phó, sự say mê và hứng thú thật
sự chưa có. Việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu. Đa số các

em chưa độc lập suy nghĩ để trả lời câu hỏi mà phải lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo
khoa, hay chỉ nêu một mốc thời gian mà không hiểu được ý nghĩa hay bản chất của sự
kiện, hiện tượng lịch sử.

8


CHƯƠNG 2: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÂU HỎI ĐỂ
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ KHẮC SÂU KIẾN THỨC CHO HỌC
SINH TRONG MÔN LỊCH SỬ
2.1. Yêu cầu
Việc sử dụng câu hỏi trong quá trình dạy học nói chung, dạy lịch Sử nói riêng
có lẽ không một giáo viên nào không sử dụng, nhưng sử dụng câu hỏi phải đúng lúc,
đúng kiểu bài lên lớp đồng thời phải phù hợp với mức kiến thức của đối tượng học
sinh. Hơn nữa phải đưa ra câu hỏi làm sao phải phát huy được tư duy của các em, câu
hỏi cần xoáy vào trọng tâm của bài.
Đặt câu hỏi trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp quan trọng để
phát triển tư duy học sinh. Song sử dụng câu hỏi và hệ thống câu hỏi như thế nào để
phát huy tính tích cực của học sinh là một vấn đề khó và phức tạp. Để thực hiện tốt
vấn đề trên, trước hết giáo viên phải thực hiện tốt khâu soạn giáo án. Trước đây chúng
ta xác định mục đích, yêu cầu của bài học là “Làm cho học sinh nắm được, hiểu
được.” Có nghĩa là trong giờ dạy, giáo viên là trung tâm, học sinh thụ động tiếp thu
kiến thức, nhận thông tin từ người thầy. Nhưng từ khi đổi mới chương trình sách giáo
khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy, khâu soạn giảng cũng có nhiều thay đổi, mục
tiêu bài học có mức độ: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng (thấp, cao). Như vậy, chúng
ta đã chuyển hoạt động của giáo viên sang hoạt động của học sinh là chính, học sinh
xây dựng kiến thức cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên thông qua hệ thống câu
hỏi. Học sinh không chỉ nắm kiến thức mà còn nắm phương pháp để hiểu và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn cuộc sống.
Để đạt mục đích trên, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư cho bài soạn, đặc biệt là việc xây

dựng hệ thống câu hỏi của bài dạy. Sử dụng câu hỏi trong dạy học lịch sử để phát huy
tính tích cưc trong học tập và khắc sâu kiến thức cho học sinh phải được thực hiện
linh hoạt ở tất cả các bước trong giờ dạy.
2.2. Biện pháp

2.2.1. Xây dựng tình huống có vấn đề bằng câu hỏi trước khi vào bài mới.
Xây dựng tình huống có vấn đề có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát huy tính
tích cực và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Trước khi vào bài mới, giáo viên nên
nêu tạo tình huống có vấn đề để điều khiển học sinh giải quyết theo hướng tích cực.
Các câu hỏi nêu vấn đề đưa ra vào đầu giờ nhằm động viên sự chú ý, huy động năng
lực nhận thức của học sinh vào việc theo dõi bài giảng để tìm câu trả lời. Những câu
hỏi này là vấn đề cơ bản mà học sinh phải nắm vững. Đương nhiên, khi đặt câu hỏi
này không yêu cầu học sinh trả lời ngay mà chỉ sau khi giáo viên cung cấp đầy đủ
kiến thức thì học sinh mới trả lời được.
9


Trong mỗi bài, mỗi mục đều ẩn chứa các tình huống có vấn đề. Bản thân các
vấn đề bao gồm các vấn đề lớn hay nhỏ, vấn đề phức tạp hay đơn giản. Giáo viên cần
xác định kiến thức trọng tâm cần đạt của tiết học để xây dựng tình huống có vấn đề
phù hợp. Có những loại tình huống có vấn đề sau:
Tình huống nghịch lí: là tình huống vấn đề xuất hiện đứng trước một sự lựa
chọn rất khó khăn giữa hai hay nhiều phương án giải quyết.
Tình huống bác bỏ: là tình huống vấn đề đòi hỏi phải bác bỏ một luận điểm ,
kết luận sai lầm. để đạt được điều đó, học sinh phải tìm ra chổ yếu, chỗ sai, chỗ thiếu
chính xác để chứng minh tính sai lầm của vấn đề.
Tình huống tại sao: là tình huống phổ biến trong dạy học. tình huống này đòi
hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức và kĩ năng vốn có để giải quyết vấn đề đặt ra.
Học sinh phải tìm ra được các mối liên hệ đặc biệt là mối liên hệ nhân quả. Tìm ra
được nguyên nhân dẫn đến kết quả đó. Trên cơ sở đó, giáo viên linh động, sáng tạo

xây dựng tình huống có vấn đề với hệ thống câu hỏi phù hợp.
Ví dụ: Khi dạy bài “Các quốc gia cổ đại phương Đông” - tiết 2, kiến thức
trọng tâm là những thành tựu lớn về văn hoá của các quốc gia cổ đại phương Đông.
Để tạo hứng thú, phát huy tính tích cực trong học tâp của học sinh, mở đầu bài học tôi
dẫn dắt ngắn gọn và đưa học sinh vào tình huống có vấn đề: Vì sao nói phương Đông
là cái nôi của nhân loại, nơi mà lần đầu tiên con người đã biết sáng tạo ra chữ viết,
văn học, nghệ thuật và nhiều tri thức khoa học khác? (Tình huống tại sao). Những
thành tựu văn hóa nào của người phương Đông thời cổ đại mà đến nay chúng ta vẫn
thừa hưởng?
Với cách giới thiệu bài như trên, giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tò mò,
mong muốn khám phá.
Ví dụ: Khi dạy bài “Thời Bắc thuộc và các cuộc đấu tranh giành độc lập dân
tộc (Thế kỉ II đến đầu thế kỉ X)”, kiến thức trọng tâm là những nội dung cơ bản chính
sách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc ở nước ta về tổ chức bộ máy cai
trị, chính sách bóc lột kinh tế, chính sách đồng hóa dân tộc; Những chuyển biến kinh
tế, văn hóa, xã hội nước ta trong thời Bắc thuộc. Mở đầu bài học tôi dẫn dắt: Năm 179
TCN, Âu Lạc bị Triệu Đà xâm chiếm. Từ đó, đến đầu thế kỉ X, các triều đại phong
kiến phương Bắc từ triệu đến Đường thay nhau đô hộ nước ta. Chúng đã thực hiện
nhiều chính sách cai trị thâm độc với âm mưu đồng hóa dân tộc ta. Từ đó tôi đưa ra
câu hỏi có tình huống cho học sinh:
- Các triều đại phong kiến phương Bắc đã thực hiện những chính sách cai trị
gì đối với dân tộc ta?

10


- Các triều đại phong kiến phương Bắc có thực hiện được âm mưu đồng hóa
dân tộc ta không? Vì sao? (Tình huống nghịch lí).
Để có thể trả lời cho những câu hỏi trên, học sinh cần tập trung trong giờ học,
tích cực huy động kiến thức và kĩ năng để từng bước tìm ra lời giải đáp trên cơ sở sự

hướng dẫn của giáo viên.
Ví dụ: Khi dạy bài “Các quốc gia cổ đại phương Tây - Hi Lạp và Rôma” - tiết
2, Tôi giới thiệu nội dung bài mới: Dựa vào trình độ phát triển cao về kinh tế công
thương và thể chế dân chủ, cư dân cổ đại Địa Trung Hải đã để lại cho nhân loại một
nền văn hoá với nhiều thành tựu rực rỡ. Tôi đưa ra câu hỏi:
- Các quốc gia cổ đại phương Tây đã có đóng góp gì về mặt văn hóa cho nhân
loại?
- Vì sao nói các hiểu biết khoa học đến đây mới trở thành khoa học?
- Tại sao văn hóa các quốc gia cổ đại phương Tây phát triển cao hơn các quốc
gia cổ đại phương Đông?
Tình huống trên không chỉ giới hạn trong nội dung bài mới tiếp thu mà học
sinh phải tư duy, nhớ lại kiến thức đã tiếp thu ở bài 3 và bài 4 (tiết 1) để so sánh, trả
lời.
Ví dụ: Khi dạy bài 23 “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc thế kỉ XVIII”, tôi dẫn dắt học sinh vào bài mới với tình huống có vấn
đề sau: Vào cuối thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến ở Đàng Ngoài cũng như Đàng Trong
bước vào giai đoạn khủng hoảng suy tàn. Trong bối cảnh đó, nước ta lần lượt bị Xiêm
và nhà Thanh nhòm ngó và xâm lược. Tôi đặt câu hỏi: Vậy, trước tình hình đó, yêu
cầu lịch sử đặt ra là gì? Tôi để học sinh suy nghĩ và phát biểu, các em có nhiều ý kiến
khác nhau (Ví dụ: cần phải thống nhất đất nước, đánh đổ chính quyền Lê-Trịnh và
chúa Nguyễn; cần đánh bại giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc…) Tôi đánh
giá ý kiến trên và giới thiệu bài mới: “Sứ mệnh lịch sử đó đã được phong trào nông
dân Tây Sơn hoàn thành. Chúng ta hãy xem những vấn đề trên được phong trào Tây
Sơn giải quyết như thế nào? Sau đó tôi vào bài mới. Cách đặt vấn đề như vậy sẽ thu
hút được sự chú ý học tập của học sinh. Kích thích sự tìm tòi để đi đến giải quyết vấn
đề của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài 31 “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII” Tiết 1. Sau
khi kiểm tra bài cũ học sinh, tôi mở bài một cách trực tiếp: Cách mạng tư sản Pháp
cuối thế kỉ XVIII là một cuộc cách mạng xã hội sâu rộng và triệt để nhất. V. Lênin gọi
“cách mạng Pháp là đại cách mạng”. Để thấy rõ điều đó, cô trò chúng ta cùng nhau

tìm hiểu bài mới. Đồng thời tôi nêu rõ nhiệm vụ của các em sau bài học: Lí giải được
vì sao khẳng định rằng cách mạng tư sản Pháp 1789 là cuộc cách mạng triệt để nhất
11


so với các cuộc cách mạng tư sản Âu-Mĩ trước đó? Cách đặt vấn đề như vậy sẽ thu
hút sự chú ý học tập của học sinh. Bởi vì trước đó các em đã tìm hiểu cách mạng tư
sản Anh và Bắc Mĩ. Nhưng yêu cầu nhận thức được đặt ra ở bài 31 là điều mới mẻ,
cần liên hệ so sánh kiến thức học sinh chưa biết với kiến thức đã biết, khiến cho các
em có nhu cầu, hứng thú muốn tìm hiểu.
Lưu ý: Câu hỏi dạng này thường có tính chất bài tập. Muốn trả lời được phải
huy động kiến thức cơ bản của toàn bài. Chính vì vậy học sinh phải chuẩn bị bài kĩ
lưỡng ở nhà theo câu hỏi định hướng giáo viên giao cho các em chuẩn bị bài. Ở trên
lớp, đòi hỏi học sinh tập trung theo dõi bài giảng, biết chọn lọc sự kiện và trình bày
trước lớp.

2.2.2. Xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhận thức cho cả bài học.
Trong sách giáo khoa, thường sau mỗi mục, mỗi bài có từ 1 đến 3 câu hỏi,
những câu hỏi này là cơ sở để giáo viên xác định kiến thức trong sách, đồng thời bổ
sung để xây dựng hệ thống câu hỏi của bài. Việc sử dụng câu hỏi trong dạy học là một
nghệ thuật. Cho nên, khi soạn bài, giáo viên cần xây dựng hệ thống câu hỏi cho cả bài
học, câu hỏi được sắp xếp theo một trình tự phù hợp với các hoạt động học tập. Xây
dựng hệ thống câu hỏi phải mang tính vừa sức, hợp đối tượng học sinh để kích thích
được sự tìm tòi, sáng tạo tránh nhàm chán với những loại câu hỏi đều đều.
Hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhận thức giúp cho giáo viên đạt được mục tiêu
của bài dạy, học sinh nắm được nội dung của bài học, phát huy được tính chủ động,
tích cực, sáng tạo của học sinh trong học tập. Căn cứ vào cấp độ nhận thức, có các loại
câu hỏi sau:
- Nhận biết: Với các động từ như nêu, liệt kê, trình bày, kể tên…
- Thông hiểu: Với các động từ như giải thích, vì sao, tại sao, hãy lí giải…

- Vận dụng thấp: Với các động từ như so sánh, phân tích, chứng minh…
- Vận dụng cao: Với các động từ như bình luận, nhận xét, đánh giá, rút ra bài
học, liên hệ thực tiễn…
Ví dụ: Khi dạy bài 30 “Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ”. Tôi xây dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhận thức như sau:
- Nhận biết: Hãy nêu rõ tình hình kinh tế, xã hội Bắc Mĩ trước cuộc chiến tranh
giành độc lập. Trình bày diễn biến chính của cuộc chiến tranh giành độc lập của 13
bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ. Yếu tố nào giúp Bắc Mĩ giành chiến thắng trong cuộc
chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ?

12


- Thông hiểu: Tại sao Chính phủ Anh lại kìm hãm sự phát triển của CNTB ở
Bắc Mĩ?
- Vận dụng thấp: So sánh chiến tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh
ở Bắc Mĩ với cách mạng tư sản Hà Lan và cách mạng tư sản Anh.
- Vận dụng cao: Em có suy nghĩ gì khi được tiếp xúc với bản Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 của nước Mĩ? Liên hệ với bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 do Chủ tịch
Hồ Chí Minh soạn thảo. (Hoặc bài học này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập
như thế nào?)
Ví dụ: Khi dạy bài 31 “Cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII”. Tôi xây
dựng hệ thống câu hỏi theo cấp độ nhận thức như sau:
- Nhận biết: Nêu những nét nổi bật về chính tri, kinh tế, xã hội nước Pháp trước
cách mạng 1789. Hoặc, trước cách mạng tình hình chính tri, kinh tế, xã hội nước Pháp
có gì nổi bật? Những nhà tư tưởng tiến bộ Pháp đã có vai trò như thế nào trong việc
chuẩn bị cho cách mạng. Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cách mạng tư sản Pháp. Lập
bảng thống kê các giai đoạn phát triển của cách mạng tư sản Pháp (theo mẫu giáo viên
yêu cầu). Trình bày ý nghĩa lịch sử của cách mạng tư sản Pháp.
- Thông hiểu: Tại sao nói thời kì chuyên chính Gia-cô-banh là đỉnh cao của

cách mạng tư sản Pháp?
- Vận dụng thấp: So sánh cách mạng tư sản Pháp với các cuộc cách mạng tư
sản đã học (cách mạng tư sản Hà Lan, cách mạng tư sản Anh, chiến tranh giành độc
lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ) về nhiệm vụ, động lực, hình thức, kết quả, ý
nghĩa.
- Vận dụng cao: Khi đề cập đến cách mạng tư sản Pháp, Lênin nhận xét: “Cách
mạng Pháp xứng đáng là một đại cách mạng. Nó đã làm biết bao nhiêu việc cho giai
cấp của nó, tức là giai cấp tư sản, đến nỗi trọn thế kỉ XIX là thế kỉ đem lại văn minh
và văn hóa cho toàn thể nhân laoij đã diến tiến dưới dấu hiệu của cách mạng Pháp”.
Em hãy cho biết ý kiến của mình về nhận xét trên.
Như vậy, các dạng câu hỏi nêu trên tạo thành một hệ thống câu hỏi hoàn chỉnh,
giúp cho học sinh trong quá trình học tập lịch sử phát hiện ra nguyên nhân, diễn biến,
kết quả và ý nghĩa của một sự kiện hay một quá trình lịch sử. Giáo viên nên vận dụng
nhuần nhuyễn trong các tiết dạy nhằm giúp các em vừa biết được các sự kiện vừa đi
sâu hiểu bản chất của sự kiện. Những dạng câu hỏi trên không chỉ đòi hỏi học sinh
nhớ các sự kiện lịch sử cơ bản mà phải suy nghĩ nhận thức sâu sắc bản chất của sự
kiện lịch sử từ đó vận dụng vào giải quyết vấn đề của cuộc sống.
13


2.2.3. Xây dựng câu hỏi củng cố toàn bài, chương.
Kiến thức lịch sử là một chuỗi mắt xích, có liên quan với nhau. Vì vậy, giáo
viên cần phải giúp học sinh nhận thức rõ mối liên quan giữa các sự kiện lịch sử. Nhằm
giúp học sinh nhận thức kiến thức lịch sử đã học sâu sắc hơn, biết tổng hợp, so sánh,
giải thích, phân tích, đánh giá các sự kiện lịch sử đã học sau một bài, một chương tôi
thường sử dụng những câu hỏi nâng cao, tổng hợp kiến thức của toàn bài hoặc chương
để học sinh suy nghĩ, tìm đáp án trả lời nhằm phát huy tính tích cực học tập, phát
triển tư duy của học sinh, giúp các em nhận thức rõ vai trò của môn lịch sử trong cuộc
sống, rút ra những bài học kinh nghiệm cho thực tiễn.
Ví dụ: Khi dạy xong chương 2-Xã hội cổ đại. Tôi đưa ra các câu hỏi để củng

cố chương: So với văn hóa cổ đại phương Đông, văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô- ma
phát triển như thế nào? Vì sao văn hóa cổ đại Hi Lạp và Rô-ma lại phát triển được như
thế?
Ví dụ: Khi dạy bài 19 “Những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở các thế kỉ
X-XV”. Tôi đưa ra các câu hỏi để củng cố bài:
- Hãy phân tích nguyên nhân thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm ở các thế kỉ X-XV.
- Hãy phân tích ý nghĩa lịch sử của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm ở
các thế kỉ X-XV.
Ví dụ: Khi dạy xong Chương 1-các cuộc cách mạng tư sản từ giữa thế kỉ XVI
đến cuối XVIII. Tôi đưa ra các câu hỏi để củng cố chương:
- So sánh cách mạng tư sản Hà Lan, cách mạng tư sản Anh, chiến tranh giành
độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ và cách mạng tư sản Pháp. (giáo viên gợi
ý cho học sinh tìm những điểm giống và khác về nhiệm vụ, động lực, hình thức, kết
quả, ý nghĩa.
- Hãy chọn một sự kiện lịch sử tiêu biểu về cuộc cách mạng tư sản từ giữa thế
kỉ XVI đến cuối XVIII mà em thích và giải thích tại sao lại lựa chọn sự kiện đó.
- Trong các cuộc cách mạng tư sản từ giữa thế kỉ XVI đến cuối XVIII xuất hiện
nhiều nhân vật lịch sử. Em thích nhất nhân vật lịch sử nào? Tại sao?

2.2.4. Lựa chọn câu hỏi để rèn luyện kĩ năng thảo luận nhóm
Để rèn luyện kĩ năng thảo luận nhóm cho học sinh, bên cạnh công tác tổ chức
(phân công nhiệm vụ, chuẩn bị tài liệu, phương tiện hỗ trợ…) thì việc sử dụng câu hỏi
đóng một vai trò hết sức quan trọng vì nó là chủ đề để thảo luận, để học sinh tự mình
giải quyết những mâu thuẫn trong kiến thức. Nếu sử dụng câu hỏi quá dễ sẽ tạo tâm lí
14


nhàm chán (chẳng có gì để thảo luận), còn sử dụng câu hỏi quá khó, vượt xa khả năng
hiểu biết của học sinh sẽ gây áp lực rất lớn. Do đó, việc xây dựng câu hỏi có tác dụng

rất lớn trong việc rèn luyện kĩ năng thảo luận nhóm của học sinh.
Ví dụ: Khi dạy bài “Các quốc gia cổ đại phương Tây” (Tiết 2), tôi đưa câu hỏi
thảo luận nhóm như sau:
- Nhóm 1: Những hiểu biết của cư dân Địa Trung Hải về lịch và chữ viết. So
với cư dân cổ đại phương Đông có gì tiến bộ hơn? Ý nghĩa của việc phát minh ra chữ
viết?
- Nhóm 2: Hãy trình bày những hiểu biết về các lĩnh vực khoa học của cư dân
cổ đại phương Tây-Hy Lạp và Rôma? Tại sao nói: "Khoa học đã có từ lâu nhưng đến
Hy Lạp, Rôma khoa học mới thực sự trở thành khoa học"?
- Nhóm 3: Nêu những thành tựu về văn học, nghệ thuật của cư dân cổ đại Địa
Trung Hải. Rút ra nhận xét.
Ví dụ: Khi dạy bài “Trung Quốc thời phong kiến” (Tiết 2), tôi đưa câu hỏi thảo
luận nhóm như sau:
Nhóm 1: Đánh giá mặt tích cực và hạn chế của Nho giáo.
Nhóm 2: So sánh sự phát triển của sử học qua các thời kì.
Nhóm 3: Giá trị nội dung các tác phẩm văn học Trung Quốc thời phong kiến.
Nhóm 4: Rút ra nhận xét về các thành tựu khoa học kĩ thuật của Trung Quốc
thời phong kiến. Những hiểu biết của em về “Tứ đại phát minh”.
Ví dụ: Khi dạy bài “Ấn Độ thời phong kiến” (Tiết 1), tôi đưa câu hỏi thảo luận
nhóm như sau:
Nhóm 1: Nêu khái quát quá trình hình thành vương triều Gúp-ta. Phân tích vai
trò về mặt chính trị của vương triều này.
Nhóm 2: Điểm nổi bật trong văn hoá Ấn Độ dưới thời Gúp ta là gì?
Nhóm 3: Văn hoá Ấn Độ thời Gúp-ta đã ảnh hưởng như thế nào đến Ấn Độ
giai đoạn sau và ảnh hưởng ở những lĩnh vực nào?
Ví dụ: Khi dạy bài “Phong Trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước,
bảo vệ Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII” tôi đưa câu hỏi để học sinh thảo luận ở cuối bài:
Đánh giá công lao của phong trào Tây Sơn trong việc thống nhất đất nước.

15



Lưu ý: Câu hỏi thảo luận nhóm phải yêu cầu học sinh tư duy, suy nghĩ trả lời
chứ không đơn thuần là các kiến thức có sẵn hết trong sách giáo khoa. Hay nói cách
khác đó là các câu hỏi thuộc mức độ thông hiểu hoặc vận dụng hoặc có sự kết hợp
giữa các mức độ, không nên chỉ dùng mỗi câu hỏi nhận biết để thảo luận. Trong quá
trình sử dụng câu hỏi để rèn luyện kĩ năng thảo luận nhóm, giáo viên phải luôn quan
sát, nhắc nhở, điều chỉnh thảo luận khi các em đưa ra ý kiến xa rời vấn đề thảo luận.
Thái độ nhiệt tình, động viên của giáo viên cũng góp phần rất lớn tạo nên sự thành
công trong hoạt động nhóm của học sinh.
2.3. Vận dụng vào tiết học cụ thể
Dưới đây là bài minh họa cho việc vận dụng phương pháp sử dụng câu hỏi để
phát huy tính tích cực và gây hứng thú cho học sinh trong dạy học Lịch sử lớp 10: Bài
11 “Tây Âu thời hậu kì trung đại” (Tiết 1).
Bài 11: TÂY ÂU THỜI HẬU KỲ TRUNG ĐẠI (TIẾT 1)
1. MỤC TIÊU
1.1. Kiến thức :

Học sinh cần năm được những kiến thức sau :
- Nhu cầu về vàng bạc, nguyên liệu, thị trường đã dẫn đến các cuộc phát kiến địa lý.
Nó đã đem lại cho châu Âu nhiều của cải và sự hiểu biết mới về trái đất, về các dân
tộc trên thế giới.
- Nội dung và hệ quả của 4 cuộc phát kiến lớn về địa lí.
1.2. Kỹ năng
- Biết sử dụng bản đồ mô tả các cuộc phát kiến địa lý, đồng thời biết tự vẽ bản đồ.
- Thông qua các sự kiện lịch sử, biết phân tích và khái quát hóa rút ra kết luận.
1.3. Thái độ
- Giáo dục học sinh tinh thần dũng cảm, khám phá cái mới; tinh thần đoàn kết các dân
tộc. Giúp học sinh hiểu giá trị của lao động, căm ghét bọn bóc lột, hiểu giá trị lao động
của người bị áp bức.

- Giúp học sinh biết quý trọng những di sản văn hóa các dân tộc trên thế giới, đồng
thời có hiểu biết về tôn giáo để có thái độ đúng đắn với các tôn giáo đang tồn tại ở
nước ta.
- Tích hợp giáo dục môi trường: giáo dục cho học sinh về việc mở rộng môi trường
giao dịch trên thế giới.
16


2. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
2.1. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN
- Thiết bị dạy học: Lược đồ “Những cuộc phát kiến địa lý”, Ảnh chân dung: C.
Colombo, Ma-gien-lăng, hình tàu Caraven, phiếu học tập…
- Học liệu: Sách giáo khoa, sách giáo viên, chuẩn kiến thức kĩ năng, giáo trình lịch sử
thế giới trung đại, những mẩu chuyện lịch sử thế giới…
2.2. CHUẨN BỊ CỦA HỌC SINH: Tìm hiểu các cuộc phát kiến lớn về địa lí, sưu
tầm tranh ảnh, chân dung các nhà phát kiến địa lí…
3. TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
3.1. Ổn định lớp: Kiểm tra sĩ số, kiểm tra vệ sinh, kiểm tra tác phong học sinh.
3.2. Kiểm tra bài cũ: Tại sao nói “Thành thị là bông hoa rực rỡ của Tây Âu thời trung
đại”? (5 phút)
3.3. Tiến trình bài học
Giáo viên dẫn dắt vào mới mới bằng tình huống có vấn đề như sau: Thế kỉ XVXVI, ở Tây Âu đã diễn ra các cuộc phát kiến lớn về địa lí. Vậy, nguyên nhân-điều kiện
nào dẫn đến các cuộc phát kiến địa lý? Nội dung, hệ quả của các cuộc phát kiến lớn về
địa lí; các cuộc phát kiến lớn về địa lí có tác động gì đối với nước ta? Để biết những
vấn đề trên, cô trò chúng ta cùng tìm hiểu bài mới.
HOẠT ĐỘNG 1 (10 phút)
1. Phương pháp: vấn đáp, giảng giải, phân tích, trực quan.
2. Hình thức tổ chức hoạt động
Hoạt động của GV


Hoạt động của HS

- GV dẫn dắt vào mục.

Nội dung cần nắm

*Cả lớp, cá nhân
1. Những cuộc phát
HS theo dõi, suy nghĩ, trả kiến địa lý
- GV hỏi: phát kiến là gì? lời.
Phát kiến địa lý là gì? (Sự
a. Nguyên nhân và điều
phát hiện có ý nghĩa khoa
kiện
Sự
tiến
bộ
khoa
học
kỹ
học về mặt địa lý…)
*Nguyên nhân:
thuật.
- Cho HS xem bản đồ con - Các nhà hàng hải có hiểu
- Sản xuất phát triển, nhu
đường giao lưu, buôn bán biết nhiều về đại dương,
cầu về hương liệu, thị
qua Tây Á, Địa Trung Hải ở có quan niệm đúng về
hình dạng Trái đất, đã vẽ trường và vàng bạc cao.
thế kỉ XV, đưa ra câu hỏi

được hải đồ ghi rõ các
17


Nguyên nhân dẫn đến các vùng đất, các hòn đảo có
dân cư.
cuộc phát kiến địa lý?
- Máy móc thiên văn, la
- Cho HS xem 1 số hình bàn được sử dụng trong
ảnh về máy móc thiên văn, việc định hướng đại
la bàn… đưa ra câu hỏi dương bao la.
những điều kiện dẫn đến - Kỹ thuật đóng tàu có
nhiều tiến bộ, đóng được
các cuộc phát kiến địa lý?
những con tàu có bánh lái
và hệ thống buồm lớn như
- GV nhận xét, chốt ý.
tàu Caraven.
HOẠT ĐỘNG 2. (15 phút)

- Con đường giao lưu,
buôn bán qua Tây Á và
Địa Trung Hải bị người
Ả-rập độc chiếm.
*Điều kiện: KHKT có
nhiều tiến bộ: ngành
hàng hải, những hiểu
biết về hải đồ, bản đồ...

1. Phương pháp: vấn đáp, thuyết minh, giảng giải, phân tích, trực quan, thảo luận

nhóm.
2. Hình thức tổ chức hoạt động
Hoạt động của GV

Hoạt động của HS

- GV dẫn dắt vào mục.

*Nhóm
- HS thảo luận, hoàn
- GV phát phiếu học tập, thành phiếu học tập.
yêu cầu HS dựa trên tài liệu - HS trình bày kết quả
SGK điền nội dung thông thảo luận, HS khác bổ
sung.
tin.
- HS quan sát lược đồ
Tên Tên Thời Kết “Các cuộc phát kiến địa
nước nhà gian quả lý”, HS lên bảng mô tả lại
hành trình của các nhà
thám
thám hiểm.
hiểm
+ 1487, B. Điaxơ đã đi
vòng cực Nam của lục địa
Phi, đặt tên là mũi Bão
Tố.

Nội dung
b. Các cuộc phát kiến
địa lý

- Năm 1487, B. Điaxơ
đã đi vòng cực Nam của
lục địa c. Phi, đặt tên là
mũi Hải Vọng.
- Năm 1492, C.Côlômbô
đi từ Tây Ban Nha đến
CuBa và một số đảo
vùng biển Ăngti. Ông là
người đầu tiên phát hiện
ra Châu Mỹ.

- Năm 1497, Vaxcô đơ
+ 1497, Vaxcô đơ Ga-ma
Ga-ma đi đến Calicut
đến được calicut Ấn Độ.
Ấn Độ
- GV nhận xét, chốt ý.
+ 1492, C.Côlômbô đã
- Năm 1519-1522, Ph.
dẫn đầu đoàn thuỷ thủ về
- Sử dụng lược đồ “Các
Magienlan là người đã
hướng Tây, đến được Cu
cuộc phát kiến địa lý”.
thực hiện chuyến đi đầu
Ba và một số đảo vùng
tiên vòng quanh thế giới
- Cho học sinh xem hình C. Angti.
bằng đường biển.
Côlômbô, kể vài chi tiết về

+ Magienlan là người đã
18


nhân vật này. GV đưa đoạn
thông tin về hành trình đoàn
thám hiểm của Magienlan.
Yêu cầu HS rút ra nhận xét
về tinh thần của các nhà
thám hiểm.

thực hiện chuyến đi đầu
tiên vòng quanh thế giới
bằng đường biển từ năm
1519- 1522.

- GV: Nhận xét, chốt ý.
Nhấn mạnh tinh thần dũng
cảm của các nhà thám hiểm.
- Vì sao BĐN và TBN là 2
nước đi tiên phong trong
các cuộc phát kiến địa lí?
- HS suy nghĩ, trả lời.
- Hướng đi của TBN và
BĐN có gì khác nhau?
- GV nhận xét, chốt ý.
HOẠT ĐỘNG 3. (10 phút)
1. Phương pháp: vấn đáp, thuyết minh, thảo luận nhóm, trực quan.
2. Hình thức tổ chức hoạt động
Hoạt động của GV


Nội dung

- Vì sao nói phát kiến địa lí
*Cả lớp, cá nhân
được coi như một “cuộc
HS trình bày, HS khác bổ
cách mạng thực sự” trong
sung.
lĩnh vực giao thông và tri
thức?
- Khẳng định trái đất hình
cầu.
- GV nhận xét và chốt ý.

Hoạt động của HS
c. Hệ quả
*Tích cực:
- Đem lại hiểu biết mới
về Trái Đất, về những
con đường mới, dân tộc
mới.

- Tạo điều kiện giao lưu
văn hóa, văn minh.
- Tạo điều kiện giao lưu
văn hóa, văn minh.
- Thúc đẩy thương nghiệp
phát triển, tạo điều kiện - Thúc đẩy thương
cho CNTB ra đời.

nghiệp phát triển, thị
trường được mở rộng,
- Theo em, các cuộc phát HS suy nghĩ, trả lời:
kiến địa lý trên có tác động Thuyền buôn châu Âu tìm tạo điều kiện cho CNTB
ra đời.
gì đối với sự phát triển của
đến với Đại Việt ngày một
- GV cho HS xem đoạn
video về cuộc xâm chiếm
thuộc địa. Yêu cầu HS rút
ra nhận xét. (Hậu quả tiêu
cực của các phát kiên địa lí.

19


nước ta?

nhiều, góp phần mở rộng *Hạn chế: nảy sinh qt
thị trường trong nước, cướp bóc thuộc địa,buôn
thúc đẩy sự hưng thịnh bán nô lệ.
của 1 số đô thị, giáo sĩ
Thiên chúa giáo đến
truyền đạo ở nước ta, thúc
đẩy giao lưu văn hóa
Đông – Tây. Các nước tư
bản phương Tây, tiêu biểu
là Pháp, bắt đầu dòm ngó
và âm mưu xâm lược
nước ta…


Tích hợp môi trường: mở
rộng môi trường giao dịch
trên thế giới...

2. Sự nảy sinh CNTB ở
Tây Âu.

Mục 2: Giáo viên hướng
dẫn học sinh đọc thêm,
không dạy, nhưng giáo viên
cần giúp học sinh nắm khái
quát một số vấn đề: Giải
thích khái niệm CNTB...

(Giảm tải)

4. TỔNG KẾT VÀ HƯỚNG DẪN HỌC TẬP (5 phút)
4.1. Tổng kết: Sự ra đời của thành thị thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển ở Tây Âu.
Nhu cầu về hương liệu, vàng bạc, thị trường ngày một tăng. Việc tìm con đường đi
sang phương Đông đã thúc đẩy các cuộc phát kiến lớn về địa lí. Nó mang lại nguồn
của cải lớn về châu Âu cũng như những hiểu biết mới về Trái Đất.
4.2. Hướng dẫn học tập
*Học bài cũ và trả lời câu hỏi: Nguyên nhân và hệ quả của các cuộc phát kiến địa lí?
Trong các hệ quả của cuộc phát kiến địa lý, hệ quả nào quan trọng nhất? Vì sao?
*Chuẩn bị bài mới “Tây Âu hậu kì trung đại” : Hoàn cảnh, nội dung, đặc điểm của
phong trào Văn hóa Phục hưng.
2.4. Kết quả thực nghiệm
Việc sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và khắc sâu kiến thức cho học
sinh trong môn Lịch sử lớp 10 đã được bản thân tôi tiến hành thử nghiệm từ năm học

2017-2018. Qua thực hiện, hiệu quả đề tài được đánh giá bằng kết quả học tập của học
20


sinh. Cụ thể, được định lượng bằng điểm số qua các bài kiểm tra định kì và được định
tính qua thái độ của học sinh trong các tiết học trên lớp, cũng như các bài tập về nhà.
Việc thể nghiệm đề tài được tiến hành bằng phương pháp phân tích, đối chiếu, so sánh
hiệu quả giữa việc dạy học theo lối cũ (lấy kết quả những năm học 2016-2017 là năm
cuối cùng học theo phương pháp cũ) đối chiếu với hiệu quả dạy học theo phương pháp
sử dụng câu hỏi để phát huy tính tích cực và khắc sâu kiến thức cho học sinh Cho kết
quả như sau:
Về định tính: Hầu hết học sinh tỏ ra hứng thú và tích cực trong học tập. Các em
hăng say phát biểu xây dựng bài, giờ học lịch sử sinh động, hấp dẫn với học sinh hơn.
Về định lượng: dưới đây là 2 bảng so sánh kết quả học tập của học sinh trước
và sau khi thực hiện sáng kiến.
Kết quả giảng dạy của năm học 2016 - 2017 (%) trước khi áp dụng sáng kiến
TỔNG SỐ

GIỎI

KHÁ

TRUNG
BÌNH

YẾU

KÉM

45- 100%


5%

35%

40%

18%

02%

45- 100%

6%

37%

34%

20%

03%

45- 100%

5%

30%

33%


30%

02%

Kết quả giảng dạy năm học 2017 - 2018(%) sau khi áp dụng sáng kiến

TỔNG SỐ

GIỎI

KHÁ

TRUNG
BÌNH

YẾU

KÉM

45- 100%

9%

46%

42%

3%


0%

45- 100%

8%

43%

45%

4%

0%

45- 100%

11%

45%

41%

3%

0%

Trong thời gian áp dụng phương pháp này đối với học sinh khối lớp 10, tôi đã
đạt được kết quả khả quan. Trước hết, bản thân tôi nhận thấy rằng những kinh nghiệm
này rất phù hợp với chủ trương đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và đào
tạo. Học sinh có hứng thú học hơn, tích cực chủ động sáng tạo để mở rộng vốn hiểu

biết, đồng thời cũng rất linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ lĩnh hội kiến thức và
phát triển kĩ năng. Không khí học tập sôi nổi, nhẹ nhàng và học sinh yêu thích môn
21


học hơn. Tôi cũng hy vọng với việc áp dụng sáng kiến “Phương pháp sử dụng câu
hỏi để phát huy tính tích cực và khắc sâu kiến thức cho học sinh trong môn Lịch sử
lớp 10” học sinh yêu thích môn lịch sử hơn và chất lượng dạy học bộ mô lịch sử ngày
càng được nâng cao.

C. KẾT LUẬN
Sử dụng câu hỏi là một trong những biện pháp quan trọng trong dạy học nói
chung và dạy học lịch sử nói riêng, nó được ví như một chiếc cầu nối giữa giáo viên
với học sinh. Trong quá trình áp dụng phương pháp này tôi rút ra một số kết luận sau:
Sử dụng hệ thống câu hỏi để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập
lịch sử giúp cho nắm được kiến thức cơ bản của từng chương, từng bài từ đó góp phần
giáo dục tư tưởng tình cảm đạo đức, phát triển tư duy của học sinh. Việc sử dụng hệ
thống câu hỏi góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
Sử dụng hệ thống câu hỏi là một phương pháp nhưng cũng cần có sự kết hợp
với các phương pháp khác như sử dụng đồ dùng trực quan, khai thác các nguồn tài
liệu khác cùng các thao tác sư phạm hợp lý cần vận dụng linh hoạt trong giờ học để
góp phần nâng cao hiệu quả môn học lịch sử.
Sử dụng hệ thống câu hỏi đã khắc phục được tình trạng thầy đọc - trò chép. Từ
đó giảm được tình trạng học sinh coi thường bộ môn lịch sử, tạo hứng thú cho giờ
học. Mặt khác sử dụng phương pháp này đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp
dạy học, đáp ứng được mục tiêu giáo dục mà Đảng và nhà nước đã đề ra “giáo dục
con người phát triển toàn diện về mọi mặt”.
Trong quá trình dạy học, giáo viên đặt và sử dụng câu hỏi cần phải linh hoạt,
tùy theo từng lớp và từng đối tượng học sinh. Cần phải nắm vững đối tượng học sinh,
phân biệt được trình độ của các em trong việc học tập bộ môn để từ đó giáo viên điều

chỉnh các thao tác sư phạm của mình cho phù hợp. Khi đặt câu hỏi cần ngắn gọn, đơn
giản, dễ hiểu, phù hợp với tư duy của học sinh. Không nên đặt ra những câu hỏi chung
chung; những câu hỏi “Đúng” hay “Sai”.
Trong quá trình tổ chức dạy học, khi đặt ra câu hỏi người giáo viên cần có ngôn
ngữ truyền cảm, có ngữ điệu rõ ràng, có thái độ xúc cảm đối với các sự kiện hiện
tượng lịch sử. Sử dụng phương pháp này, đòi hỏi người giáo viên phải không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, nâng cao trình độ lí luận dạy học
đồng thời phải bồi dưỡng và tự bồi dưỡng các kiến thức văn hóa xã hội các kiến thức
của các bộ môn có liên quan.
Sử dụng câu hỏi trong dạy học Lịch sử để phát huy tính tích cực và khắc sâu
kiến thức cho học sinh trung học phổ thông hiện nay là rất cần thiết. Vì vậy, tôi kiến
22


×