Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ LÀM RÕ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.97 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ
LÀM RÕ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ
TÔN GIÁO
TIỂU LUẬN CUỐI KHÓA
(Môn học: Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác–Lênin)
MÃ SỐ LỚP HP: LLCT150105_28
BUỔI HỌC: TIẾT 7 - 11, THỨ 3
NHÓM THỰC HIỆN: 20
HỌC KỲ: 1 – NĂM HỌC: 2016-2017
GIẢNG VIÊN: TẠ THỊ THÙY

TP.HỒ CHÍ MINH – 11/2016
1


MỤC LỤC

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài


Trong đời sống tinh thần của con người tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất định.
Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử loài người, tôn giáo ra đời và trở thành
một hiện tượng xã hội. Có nhiều tôn giáo khác nhau trên thế giới nhưng nhìn chung
mọi tôn giáo đều hướng tới con người với những giá trị tốt đẹp. Chủ nghĩa cộng sản
không phủ nhận tuyệt đối tôn giáo mà dung hòa tôn giáo trong đời sống, chính trị,
xã hội để phát triển. Ở nước ta cũng vậy, tôn giáo đóng vai trò nhất định trong đời
sống tinh thần. Nhìn chung mọi giáo lý của các tôn giáo đều chứa đựng tính nhân
văn sâu sắc. Những chiếc lý ấy giúp cho con người sống với nhau gần gũi hơn, có
trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng với sự phát triển chung của toàn xã hội.
Tôn giáo là sự tự do tín ngưỡng của mỗi công dân. Nhưng đâu đó vẫn còn những
vấn đề giải quyết, mà từ đó đưa ra những chính sách cho phù hợp. Vì vậy nhóm em
quyết định chọn đề tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ LÀM RÕ CHÍNH SÁCH
CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO” để nghiên cứu, để trước hết mỗi thành
viên trong nhóm sẽ có những hiểu biết nhất định về các tôn giáo ở Việt Nam, đồng
thời xác định rõ cách nhìn nhận, lựa chọn tín ngưỡng góp phần vào sự phát triển
chung của xã hội.
2.

Mục đích nghiên cứu

Tín ngưỡng và tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn
đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết thận trọng, cụ thể và
chính xác. Vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin có những quan điểm như thế nào về việc
giải quyết vấn đề này?
3


Việt Nam là một nước đa tôn giáo, Đảng và nhà nước ta đã hiểu rõ nhu cầu tâm linh
của nhân dân Việt Nam bởi lẽ, hầu hết nhân dân Việt Nam là những tín đồ các tôn

giáo. Bản tính của con người Việt Nam là khoan dung, cởi mở. Do vậy, dù là tôn
giáo nào, từ đâu đến thì cộng đồng cũng sẵn sàng chấp nhận miễn là nó không xâm
phạm đến lợi ích của quốc gia và đi ngược lại truyền thống văn hóa dân tộc. Chính
sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta được xây dựng một mặt dựa trên quan điểm
cơ bản của học thuyết Mác-Lênin mặt khác căn cứ vào đặc điểm tôn giáo ở Việt
Nam. Tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta là tôn trọng quyền
tự do tôn giáo của nhân dân; Tinh thần đó được Đảng và Nhà nước ta thể hiện bằng
hệ thống chính sách phù hợp. Vậy, hệ thống chính sách đó như thế nào thì chúng ta
cùng tìm hiểu?
3.

Nội dung nghiên cứu

Nhóm chúng em nghiên cứu đề tài “QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC –
LÊNIN VỀ VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO, QUA ĐÓ LÀM RÕ
CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO”
Nội dung nghiên cứu gồm có 2 chương và phần kết luận trình bày quan điểm của
nhóm.
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn
giáo.
Chương 2: Chính sách của Đảng ta về vấn đề tôn giáo theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin.
4.

Kết quả nghiên cứu

4


Hiểu được bản chất, nguồn gốc và các vấn đề tôn giáo. Biết được các quan điểm

của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc giải quyết vấn đề tôn giáo qua đó vận dụng hiểu
rõ được Chính sách của Đảng ta về vấn đề tôn giáo.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VIỆC
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TÔN GIÁO
1.1.

Khái niệm tôn giáo và vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ

1.1.1.

nghĩa xã hội
Khái niệm tôn giáo

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn tại
phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua. Nói
chung, bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều bao
gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín
ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang
tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, “tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự
phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Tôn giáo là sản phẩn của con người, gắn với những điều kiện tự nhiên và lịch sử
cụ thể, xác định. Về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội phản ánh sự bế tắc,
bất lực của con người trước tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, trong ý thức tôn giáo
cũng chứa đựng nhiều giá trị phù hợp với đạo đức, đạo lý con người.
Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn thiện và

biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, chính
5


trị. Tôn giáo ra đời bởi nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn
gốc kinh tế - xã hội, nhận thức và tâm lý. Khi trình độ con người thấp kém, bất lực
trước sức mạnh của tự nhiên, của xã hội con người đặt hi vọng vào những lực
lượng siêu nhiên. Khi những hiện tượng tự nhiên, xã hội không thể giải thích được,
thay vào đó người ta giải thích bằng tôn giáo. Tôn giáo góp phần bù đắp những hụt
hẫng trong cuộc sống, nỗi trống vắng trong tâm hồn, xoa dịu nỗi đau của con
người.
1.1.2.

Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tôn
giáo vẫn còn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân
chủ yếu sau:
- Nguyên nhân nhận thức:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn
còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải
được, trong khi đó trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó,
trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa
thể nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi,
che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
- Nguyên nhân kinh tế:
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành
phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong
đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn
diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa các nhóm dân cư

còn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạng
6


mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy,
cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.

7


- Nguyên nhân tâm lý:
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm
tin, lối sống, phong tực tập quán, tình cảm của một bộ phân đông đảo quần chúng
nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế,
chính trị - xã hội, song tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của
những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so
với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố
mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con người, của xã
hội.
- Nguyên nhân chính trị - xã hội:
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo phù hợp với chủ nghĩa xã hội,
với chủ trương đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là những
giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo. Đó là những giá trị đạo đức, văn
hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện… đáp ứng được với nhu cầu của một bộ
phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong đó một chừng mực nhất định, tôn
giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác,
những thế lực phản động lợi dụng tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

- Nguyên nhân văn hóa:
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoại tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức
độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi
cá nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được
8


thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo
chuẩn mực đọa đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt
văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã thu hút một bộ phận quần chúng
nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng
với tiến trình đó, tôn giáo cũng có những biên đổi cùng với sự thay đổi của những
điều kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
1.2.

Các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về việc giải quyết vấn
đề tôn giáo

Giải quyết vấn đề tôn giáo cần dựa trên những quan điểm sau:
Một là, giải quyết những vấn đề phát sinh từ tôn giáo trong đời sống xã hội phải
gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa Mác –
Lênin và hệ tư tưởng tôn giáo có sự khác nhau về thế giới quan, nhân sinh quan và
con đường mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, khắc phục dần những ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền tới quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới.
Hai là, tôn trọng tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân.
Một khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng

nhân dân, thì chính sách nhất quán của nhà nước xã hội chủ nghĩa là tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân.
Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát huy những nhân tố tích cực
của tôn giáo, đặc biệt là những giá trị đạo đức; chủ nghĩa nhân đạo và tinh thần yêu
nước. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tự do tín ngưỡng của công dân. Đó là sự
9


thể hiện bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự quan tâm của đảng
cộng sản và nhà nước của giai cấp vô sản đến nhu cầu tinh thần của quần chúng
nhân dân đối với tín ngưỡng tôn giáo.
Ba là, thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một
tôn giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết toàn dân tộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng tôn
giáo. Thông qua quá trình cùng nhau đoàn kết xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ
quốc, nâng cao mức sống, lối sống và trình độ kiến thức của quần chúng, những
người lao động có tín ngưỡng, tôn giáo sẽ dần dần đến với chủ nghĩa xã hội. Những
người lao động quan tâm việc xây dựng cuộc sống hạnh phúc thực sự ở thế gian một thiên đường dưới trần gian - có ý nghĩa thiết thực hơn những cuộc tranh luận
suông về có hay không có "cõi cực lạc", "thiên đường", v.v..
V.I. Lênin nhấn mạnh rằng: Những lời tuyên chiến ầm ĩ với chủ nghĩa duy tâm,
những mệnh lệnh ngăn cấm tín ngưỡng, tôn giáo là những hành vi dại dột, vô chính
phủ, làm cho kẻ thù lợi dụng để kích động tình cảm tôn giáo của tín đồ, làm cho họ
ngày càng gắn bó với tôn giáo, xa lánh, thậm chí đi đến chống lại công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đương nhiên, như vậy không có
nghĩa là coi nhẹ việc giáo dục chủ nghĩa vô thần khoa học, thế giới quan duy vật
cho toàn dân, trong đó có những tín đồ tôn giáo, việc làm đó góp phần nâng cao
trình độ kiến thức cho toàn dân.
Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Khắc phục mặt này là

nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, gắn liền với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có tín ngưỡng. Mặt chính trị
thể hiện sự lợi dụng tôn giáo để chống lại sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng
chủ nghĩa xã hội của những phần tử phản động đội lốt tôn giáo. Đấu tranh loại bỏ
10


mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, đòi hỏi
phải nâng cao cảnh giác kịp thời chống lại những âm mưu và hành động của các thế
lực thù địch lợi dụng tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân, nhằm
bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng xã hội mới - giải quyết vấn đề này vừa phải
khẩn trương, kiên quyết, vừa phải thận trọng và có sách lược đúng.
Năm là, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.
Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có
quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vấn đề liên
quan đến tôn giáo. Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể - đó là
điều mà V.I.Lenin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa cần phải có quan điểm và phương thức ứng xử pù hợp với từng
trường hợp cụ thế khi giải quyết các vấn đề tôn giáo.
Có những tôn giáo khi mới xuất hiện như một phong trào bảo vệ lợi ích của người
nghèo, người bị áp bức và nô lệ. Nhưng rồi, tôn giáo ấy lại biến thành công cụ của
giai cấp bóc lột, thống trị. Có những giáo sĩ suốt đời hành đạo luôn luôn đồng hành
cùng với dân tộc, nhưng cũng có những người đã hợp tác với các thế lực phản
động, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Có những vị chân tu luôn "kính Chúa
yêu nước", thiết tha sống "tốt đời, đẹp đạo", nhưng lại có những người lầm đường
lạc lối nghe theo kẻ địch phản bội Tổ quốc và suy đến cùng cũng phản lại cả lợi ích
của giáo hội. Điều khiến cho nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn cần có thái độ, cách
cư xử phù hợp với từng trường hợp cụ thể đó là điều mà V.I. Lênin đã nhắc nhở:

"Người mácxít phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể"

11


CHƯƠNG 2: CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG TA VỀ VẤN ĐỀ TÔN GIÁO THEO
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
2.1.

Đặc điểm tôn giáo ở Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền
thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các
dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và
tâm linh của mình.
Các tôn giáo: Nhà nước Việt Nam đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 38
tổ chức, hệ phái tôn giáo và 01 pháp môn tu hành thuộc 13 tôn giáo, với trên 24
triệu tín đồ (chiếm khoảng 27% dân số cả nước), 83.000 chức sắc, 250.000 chức
việc, 46 trường đào tạo chức sắc tôn giáo (tương đương từ bậc trung cấp đến trên
đại học), 25 ngàn cơ sở thờ tự.
Ở Việt Nam hiện có 06 tôn giáo lớn: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao
Đài, Hoà Hảo.
Phật giáo: Đạo Phật được truyền vào Việt Nam từ những năm đầu Công nguyên. Từ
thế kỷ X đến thế kỷ XV, Phật giáo Việt Nam có bước phát triển mới cùng với nền
độc lập của dân tộc. Thời Lý-Trần (từ đầu thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) là thời kỳ
cực thịnh của Phật giáo ở Việt Nam. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập ra
Thiền phái Trúc lâm Yên tử mang bản sắc Việt Nam với tinh thần sáng tạo, dung
hợp và nhập thế. Phật giáo Nam Tông truyền vào phía nam của Việt Nam từ thế kỷ
IV sau Công nguyên. Tín đồ Phật giáo Nam Tông chủ yếu là đồng bào Khơ-me, tập
trung ở đồng bằng sông Cửu Long nên gọi là Phật giáo Nam Tông Khơ-me. Phật

giáo hiện nay ở Việt Nam có khoảng hơn 11 triệu tín đồ, trên 17.000 cơ sở thờ tự,
gần 47.000 chức sắc, 04 Học viện Phật giáo, 09 lớp Cao đẳng Phật học, 31 trường
Trung cấp.
Công giáo: Nhiều nhà nghiên cứu sử học Công giáo lấy năm 1533 là thời mốc đánh
12


dấu việc truyền đạo Công giáo vào Việt Nam. Từ năm 1533 đến năm 1614, chủ yếu
là các giáo sĩ dòng Phan-xi-cô thuộc Bồ Đào Nha và dòng Đa minh thuộc Tây Ban
Nha đi theo những thuyền buôn vào Việt Nam. Từ năm 1615 đến năm 1665, các
giáo sĩ dòng Tên thuộc Bồ Đào Nha từ Ma-cao (Macau, Trung Quốc) vào Việt Nam
hoạt động ở cả Đàng Trong (nam sông Gianh), Đàng Ngoài (bắc sông Gianh). Hiện
nay, Công giáo có khoảng 6,5 triệu tín đồ; 42 Giám mục, khoảng 4.000 linh mục,
hơn 100 dòng tu, tu hội, tu đoàn với hơn 17.000 tu sỹ; có 26 giáo phận, 07 Đại
Chủng viện.
Tin Lành: Đạo Tin lành có mặt tại Việt Nam muộn hơn so với các tôn giáo du nhập
từ bên ngoài, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do tổ chức Liên hiệp
Phúc âm Truyền giáo (The Christian and Missionary Alliance-CMA) truyền vào.
Năm 1911 được xem là thời mốc xác nhận việc truyền đạo Tin lành vào Việt Nam.
Hiện đạo Tin Lành có khoảng 1,5 triệu tín đồ thuộc 10 tổ chức, hệ phái; khoảng
3.000 chức sắc; gần 400 cơ sở thờ tự; 01 Viện Thánh kinh thần học và 01 trường
Kinh thánh.
Đạo Hồi: Ở Việt Nam, tín đồ đạo Hồi chủ yếu là người Chăm. Theo tư liệu lịch sử,
người Chăm đã biết đến đạo Hồi từ thế kỷ X-XI. Có hai khối người Chăm theo đạo
Hồi: một là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Ninh Thuận, Bình Thuận là khối Hồi
giáo cũ hay còn gọi là Chăm Bà-ni; hai là, khối người Chăm theo đạo Hồi ở Châu
Đốc (An Giang), thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai là khối đạo Hồi mới
hay còn gọi là Chăm Islam. Hiện nay Đạo Hồi ở Việt Nam có khoảng trên 80.000
tín đồ, 89 cơ sở thờ tự, 1.062 chức sắc, chức việc, 07 tổ chức Hồi giáo được Nhà
nước công nhận.

Đạo Cao Đài: Là một tôn giáo bản địa. Giữa tháng 11/1926 (ngày 15/10 năm Bính
Dần), những chức sắc đầu tiên của đạo Cao đài tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gò
Kén-Tây Ninh chính thức cho ra mắt đạo Cao đài. Hiện nay, đạo Cao Đài có
khoảng 2,5 triệu tín đồ thuộc 10 hệ phái, 01 pháp môn tu hành, trên 10.000 chức
13


sắc, hơn 1.200 cơ sở thờ tự hoạt động ở 37 tỉnh, thành phố.
Phật giáo Hòa Hảo: Là một tôn giáo bản địa do ông Huỳnh Phú Sổ làm lễ khai đạo
vào ngày 18/5 năm Kỷ Mão (ngày 4/7/1939) tại làng Hòa Hảo, tỉnh An Giang. Hiện
nay Phật giáo Hòa Hảo có khoảng 1,3 triệu tín đồ, trong đó có 2.528 chức việc, 94
chùa ở 20 tỉnh, thành phố.
Các tôn giáo khác ở Việt Nam gồm Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Cộng đồng
Tôn giáo Baha’i Việt Nam, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Minh Sư đạo,
Minh Lý đạo, Bàlamôn với tổng số gần 1.3 triệu tín đồ; ngoài ra, còn có khoảng 20
tổ chức Cao đài độc lập, khoảng 40 nhóm, hệ phái Tin lành…
Đại đa số tín đồ các tôn giáo là người lao động, chủ yếu là nông dân cư trú trên địa
bàn cả nước, một bộ phận tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số theo các tôn giáo cư
trú ở các địa bàn Tây Bắc (100 ngàn), Tây Nguyên (400 ngàn), Tây Nam Bộ (1,3
triệu).
Sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ: Ở Việt Nam, 95% dân số có đời sống tín ngưỡng.
Hằng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa
phương được tổ chức.
Tín đồ tôn giáo hoàn toàn tự do trong việc thực hiện các nghi lễ tôn giáo, bày tỏ và
thực hành đức tin tôn giáo của mình. Chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo được tự do
trong việc thực hành các hoạt động tôn giáo theo giáo luật. Việc phong chức, bổ
nhiệm, thuyên chuyển chức sắc được thực hiện theo quy định của giáo hội. Các tổ
chức tôn giáo đã được công nhận tư cách pháp nhân trong những năm qua đều có
sự phát triển về số lượng cơ sở giáo hội, về tín đồ, chức sắc nhà tu hành, về việc
xây dựng mới hoặc tu bổ các cơ sở thờ tự, bảo đảm kinh sách, các hoạt động tôn

giáo theo hiến chương, điều lệ và giáo lý, giáo luật. Các chức sắc, nhà tu hành được
tham gia học tập, đào tạo ở trong nước và nước ngoài hoặc tham gia các sinh hoạt
tôn giáo ở nước ngoài. Nhiều tổ chức tôn giáo nước ngoài đã vào giao lưu với các
14


tổ chức tôn giáo Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc
năm 2008 và 2014 tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã đăng cai tổ chức thành công
nhiều sự kiện tôn giáo như: Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo Thế giới lần thứ VI
vào năm 2010 tại Hà Nội; Năm Thánh 2011 của Giáo hội Công giáo; Kỷ niệm 100
năm đạo Tin Lành vào Việt Nam, năm 2011 đã có nhiều hoạt động kỉ niệm lớn
được tổ chức tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia của
nhiều chức sắc, tín đồ Tin lành trên cả nước và nước ngoài; Hội nghị Liên hội đồng
Giám mục Á châu được tổ chức tháng 12-2012 với sự tham dự của nhiều Giám
mục các nước ở châu Á và đại diện Tòa thánh Va-ti-căng.
Các ấn phẩm tôn giáo: Việc in kinh sách và xuất bản các ấn phẩm khác liên quan
đến tôn giáo được duy trì thường xuyên, bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động tôn
giáo tại Việt Nam. Hầu hết các tổ chức tôn giáo đã có báo, tạp chí, bản tin như: Tạp
chí Nghiên cứu Phật học, Báo Giác ngộ của Phật giáo; Tập san Hiệp thông, Báo
Người Công giáo Việt Nam, Báo Công giáo và Dân tộc của Công giáo; Tạp văn
Hương sen của Phật giáo Hòa Hảo; Bản tin Mục vụ và Bản tin Thông công của Tin
lành.
Giai đoạn từ năm 2006 đến 2015, Nhà Xuất bản Tôn giáo đã cấp phép xuất bản
khoảng 8.700 xuất bản phẩm, trong đó có gần 5.000 đầu sách với hơn 14.000 bản
in. Trung bình mỗi năm có hơn 1.000 ấn phẩm liên quan đến tôn giáo được cấp
phép xuất bản, với nhiều ngôn ngữ khác nhau như Anh, Pháp và tiếng dân tộc Khơme, Ê-đê, Gia-rai, Ba-na…
Trong công cuộc đổi mới đất nước, đa số chức sắc và tín đồ các tôn giáo tích cực
thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hành đạo trong khuôn
khổ Hiến pháp, pháp luật. Phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
15


Tuy nhiên, tình hình hoạt động tôn giáo còn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
các yếu tố có thể gây mất ổn định ở cơ sở:
+ Một số tôn giáo đẩy mạnh củng cố tổ chức, phát triển tín đồ, phô trương thanh
thế, lợi dụng truyền đạo trái pháp luật, kích động tín đồ đòi đất, cơ sở thờ tự của tôn
giáo. Ở một số nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, một số người đã lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo kích động tín đồ tham gia hoạt động chống đối chính quyền, phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc gây mất ổn định chính trị xã hội.
+ Thành lập các Hội đoàn tôn giáo mang yếu tố chính trị, kích động tín đồ, làm
giảm vai trò, uy tín của đảng viên có đạo ở cơ sở địa phương. Còn xuất hiện “tà
đạo” mang yếu tố mê tín, phản văn hoá, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
+ Các thế lực thù địch trong và ngoài nước triệt để lợi dụng hoạt động tín ngưỡng,
tôn giáo gắn với vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền để chống phá cách mạng
nước ta.
2.2. Những chính sách cụ thể đối với tôn giáo ở Việt Nam

Đảng ta khẳng định: “Tín ngưởng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tính
ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
thường theo đúng pháp luật, chống mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng đồng
thơi chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân
dân”.
Trên cơ sở có sự đan xen giữa các tín ngưỡng và tôn giáo, tuy nhiên ngoài niềm tin
là yếu tố chung còn có những sự khác biệt về mặt cấu trúc niềm tin và tổ chức như:
Tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý, chưa có tổ chức chặt chẽ như tôn giáo còn
tôn giáo đã có giáo lý, giáo luật, giáo lễ, giáo hội. Khi nói về tín ngưỡng, tôn giáo
là nói về tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì cần phải nhận thức một cách khoa học và

16


thống nhất là cả tín ngưỡng và tôn giáo đều được tự do và bình đẳng như nhau giữa
những người theo tín ngưỡng, tồn giáo và không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Khi chỉ
ra được cấu trúc và chức năng của tín ngưỡng, tôn giáo sẽ là cơ sở cho việc xác
định chính sách, luật pháp đối với tín ngưỡng, tôn giáo. Đây cũng chính là căn cứ
để điều chỉnh mối quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo với xã hội, với Nhà nước
nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo.
Từ những quan điểm trên, Đảng, Nhà nước ta đã xây dựng hệ thống chính sách
nhất quán đối với tín ngưỡng, tôn giáo với mục tiêu là “tôn trọng tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo” phát huy giá trị tích cực, tốt đẹp của các tín
ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước ta luôn đặt chính sách đối với tín ngưởng, tôn giáo
trong tổng thể các chính sách xã hội bởi tín ngưỡng, tôn giáo là hiện tượng khách
quan của đời sống xã hội. Khi khẳng định sự tồn tại khách quan của tín ngưỡng, tôn
giáo Đảng và Nhà nước ta đã thừa nhận giá trị của thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những
ngươi có công vối cộng đồng, với quốc gia, dân tộc, thừa nhận giá trị đạo đức và
giá trị văn hóa của tôn giáo.
Trên quan điểm đó, Đảng ta đã nêu ra chính sách tôn giáo cụ thể sau:
Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và
sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng
pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp
luật.
Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải xuất phát từ quyền con người trong
lĩnh vực tôn giáo; nhưng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải gắn với nghĩa vụ
trong thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Quyền và nghĩa vụ là hai
17



mặt không thể tách rời của quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân muốn được
hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo thì phải gánh vác nghĩa vụ khi thực hiện tự
do tín ngưỡng, tôn giáo, dù ở bất kỳ một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Đây là điều kiện
bảo đảm cho quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện. Mặt khác, Nhà nước
cũng sẽ bảo đảm cho các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của công dân
được thực hiện trên cơ sở nghiêm chỉnh chấp hành các nghĩa vụ mà pháp luật quy
định.
Hai là, Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân
biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau; đoàn kết đồng bào theo tôn giáo và
đồng bào không theo tôn giáo. Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền
thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân.
Nghiêm cấm sự phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng
thời, nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt
động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia.
Đại hội X của Đảng tiếp tục khẳng định: "Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân,
quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các
tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát
huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ
đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo". Các tổ chức tôn
18


giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Thực hiện tốt

các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá của
đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công
tác tôn giáo. Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi
dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm
quyền tự do tôn giáo của công dân"
Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng.
Làm cho giáo chúng giáo dân ngày càng tin tưởng gắn bó với Đảng, với chế độ nhà
nước XHCN, hiểu, tuân thủ, hăng hái thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, nhất là chính sách có liên quan đến công tác tôn giáo. Thường xuyên nâng
cao giác ngộ, nhận thức chính trị cho quần chúng, “Giải toả nọc độc” của chủ nghĩa
đế quốc và các phần tử phản động lợi dụng tôn giáo. Làm cho quần chúng thấy được
âm mưu thủ đoạn thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động lợi dụng tôn
giáo. Từ đó để quần chúng đứng lên phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội,
chống lại bọn lợi dụng tôn giáo đưa hoạt động của giáo hội vào khôn khổ pháp luật
nhà nước.
Lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các tôn giáo với sự nghiệp chung. Mọi công dân
không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều có quyền, nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu cao tinh
thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện
tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và
tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.
19


Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Nước ta hiện nay có hàng chục triệu tín đồ, chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo,
phân bổ ở mọi vùng, miền, địa phương trong cả nước. Vì vậy, công tác tôn giáo có

liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội và nhiều cấp, nhiều ngành.
Làm tốt công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng lãnh
đạo, trong đó đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng tham
mưu nòng cốt. Tổ chức bộ máy làm công tác tôn giáo cần được củng cố, kiện toàn,
nhất là ở những địa bàn trọng điểm có đông đồng bào tôn giáo. Công tác tôn giáo
thực chất là công tác vận động quần chúng.
Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo.
Mọi tín đồ đều có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo
quy định của pháp luật.
Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, hoạt động theo pháp luật và được
pháp luật bảo hộ, được mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành, xuất bản kinh sách
và giữ gìn, sửa chữa, xây dựng cơ sở thờ tự tôn giáo... của mình theo đúng quy định
của pháp luật.
Việc truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo,
người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của
Hiến pháp và pháp luật.

20


Như vậy, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta bao gồm nhiều mặt, vừa có
mặt đối nội, vừa có mặt đối ngoại. Thực hiện chính sách tôn giáo là trách nhiệm
của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
của mình thông qua chính sách, pháp luật, các đoàn thể nhân dân và Mặt trận Tổ
quốc có nhiệm vụ vận động các tín đồ và chức sắc trong các giáo hội phấn đấu xây
dựng cuộc sống "tốt đời, đẹp đạo".

21



C. KẾT LUẬN
Tôn giáo là hệ thống các tư tưởng, quan điểm giải thích về thế giới mang màu sắc
huyền bí, thần thoại. Xét trên phương diện khoa học và nhận thức, nó kìm hãm sự
phát triển của nhân loại, kìm hãm sự phát triển của tư duy con người trong những
bức tường chật hẹp của những sách kinh, giáo điều. Nhưng cũng không thể không
nhắc đến ý nghĩa của tôn giáo như là một phương thuốc giảm đau cho những con
người đang bất lực trước tự nhiên kinh khủng và bí ẩn, đang rên siết trong gông
cùm của nô dịch và đàn áp, bất công. Bởi vậy, khi nghiên cứu về tôn giáo phải nắm
vững quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể chỉ xem xét nó
một cách phiến diện trong những mặt tiêu cực và hạn chế.
Tôn giáo là một vấn đề hết sức nhạy cảm trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì sẽ không thể tạo dựng được nền tảng
tư tưởng cho xã hội mới. Nhưng nếu giải quyết một cách vội vã bằng phương cách
cưỡng bức, bạo lực thì chắc chắn sẽ gây ra những bất ổn cho xã hội, và càng kéo
dài hơn sự tồn tại của tôn giáo trong lòng nhân dân.
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ rằng: không thể sử dụng bạo lực để đàn áp tôn
giáo, mà chỉ có thể sử dụng các chính sách cụ thể mà Đảng ta đã đưa ra đối với tôn
giáo. Đó là con đường đúng đắn để phát triển tôn giáo theo hướng tích cực nhất.

22


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (Dành cho sinh
viên Đại học, Cao đẳng khối không chuyên ngành Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh), tr.456, tr.457, tr.458, tr.459, tr.460, tr.461, tr.462, NXB Chính Trị Quốc


2.

Gia - Sự Thật, Hà Nội, năm 2012.
Những đặc điểm cơ bản, tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Luận Văn A-Z,
/>
3.

nam.html, 1/11/2016.
Chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo ở Việt Nam, Trường Chính
trị Yên Bái, truongchinhtriyenbai.gov.vn/files/CS%20Tongiao(1).doc,

4.

30/10/2016.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 2006,

5.

tr. 122- 123, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Bộ ngoại giao Việt Nam, Tín ngưỡng – Tôn giáo, www.mofahcm.gov.vn,
1/11/2016

23



×