Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn trong lưu vực hồ Trúc Bài Sơn tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.02 MB, 96 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá. Rừng không những là cơ sở
phát triển kinh tế thông qua việc cung cấp nguồn gỗ, tre, nứa, đặc sản rừng,
các loại động, thực vật có giá trị trong nước và xuất khẩu… mà còn giữ chức
năng sinh thái cực kỳ quan trọng. Rừng tham gia vào quá trình điều hòa khí
hậu, đảm bảo chu chuyển oxy và các nguyên tố cơ bản khác, duy trì tính ổn
định, độ màu mỡ của đất, hạn chế lũ lụt, hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, làm
giảm mức ô nhiễm không khí, bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường
sống. Bên cạnh đó, rừng còn mang ý nghĩa quan trọng về cảnh quan thiên
nhiên và an ninh quốc phòng.
Tuy nhiên, một sự thật đang diễn ra rằng tài nguyên rừng đã và đang
bị khai thác bừa bãi, ngày càng suy giảm về số lượng, chất lượng và rất khó
mới có thể phục hồi được. Như vậy, với hiện trạng rừng hiện nay thành quả
của các giải pháp quản lý bảo vệ rừng đem đến và những bất cập vẫn đang
còn tồn đọng thì việc tìm, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả các giải pháp trong
công tác quản lý bảo vệ rừng là một vấn đề cấp bách hiện nay, đặc biệt là với
rừng phòng hộ đầu nguồn. Muốn như vậy, việc đề xuất các giải pháp phù hợp
đạt hiệu quả cao ở các cấp là rất quan trọng.
Quá trình phát triển kinh tế xã hội với tốc độ đô thị hóa diễn ra ngày
càng mạnh, cùng với tốc độ gia tăng dân số nên con người đã khai thác và sử
dụng rừng phòng hộ đầu nguồn vào nhiều mục đích khác nhau, làm cho diện
tích rừng phòng hộ ngày càng bị thu hẹp, thành phần loài thực vật và chất
lượng rừng ngày càng bị suy giảm.
Hải Hà là huyện miền núi ven biển nên có diện tích đất lâm nghiệp
tương đối lớn. Theo kết quả Kiểm kê rừng năm 2015, tổng diện tích rừng và


2


đất lâm nghiệp trên địa bàn huyện là: 34.680,4 ha; Trong đó: Diện tích đất
rừng phòng hộ: 16.011,5 ha chiếm 46,2% diện tích đất lâm nghiệp của huyện
(diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn có 13.502,6 ha, phòng hộ chắn sóng
2.508,9 ha), chiếm 67,8% diện tích tự nhiên của huyện. Đất có rừng phòng hộ
gồm rừng phòng hộ đầu nguồn khu vực Trúc Bài Sơn, đầu nguồn các sông
lớn và rừng phòng hộ ven biển. Thảm thực vật rừng bao gồm các loại cây tre
nứa và các cây gỗ, cây tái sinh, cây nguyên liệu như thông, keo, bạch đàn và
các cây đặc sản như quế, hồi... Rừng phòng hộ ven biển có các loài chủ yếu sú
vẹt... và các cây bụi họ thảo. Huyện Hải Hà còn có một quần thể thực vật tự
nhiên tương đối phong phú và đa dạng.
Rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực Trúc Bài Sơn nằm trên xã Quảng
Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh có diện tích 7059,7 ha, có một vị trí quan
trọng của huyện Hải Hà là nơi bắt nguồn các con sông Tài Chi, sông Quảng
Sơn và các nhánh suối mở bao quanh khu vực, cung cấp nước ngọt cho các xã
trên địa bàn huyện để phục vụ nhu cầu sinh hoạt:
Hệ thống đồi núi đầu nguồn rừng phòng hộ là hệ thống đồi núi một mái
có cao độ trung bình khoảng 400m so với mặt nước biển, có độ dốc trung
bình khoảng 250 do đó công tác bảo vệ đa dạng là hết sức quan trọng. Khi
mùa mưa đến lượng nước mưa theo đường phân thủy chảy từ đỉnh núi xuống
vị trí thấp và đổ vào lòng hồ Trúc Bài Sơn. Nếu để mất hệ sinh thái về đa
dạng sinh học khu vực rừng đầu nguồn thì rừng không còn khả năng giữ nước
hiện tượng xói mòn và sạt lở đất, lũ quét xảy ra gây nguy hiểm đến cuộc sống
của người dân trên địa bàn xã Quảng Sơn nói riêng huyện Hải Hà nói chung.
Hồ Trúc Bài Sơn có diện tích rộng hơn 200 ha, vị trí sâu nhất khoảng
15m, trữ lượng nước trong hồ khoảng 12.000 m3, giữ nước và cung cấp nước


3

sản xuất cho người dân sản xuất nông - lâm nghiệp trên địa bàn vào mùa hanh

khô.
Công tác quản lý bảo vệ rừng ở khu vực này hiện nay là một vấn đề
vô cùng cấp thiết. Với dân số tăng nhanh, nhu cầu về gỗ nhiều, động vật
hoang dã ngày càng bị săn bắt triệt để, nhiều dân cư sinh sống trong rừng và
gần rừng đều là dân tộc thiểu số, trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác lạc
hậu, phát nương làm rẫy... nguồn sinh sống chủ yếu của người dân địa
phương là dựa vào rừng.
Mặc dù công tác quản lý bảo vệ rừng tại tỉnh Quảng Ninh nói chung và
huyện Hải Hà nói riêng ngày càng được quan tâm nhưng những cánh rừng
phòng hộ ngày dần bị mất đi hoặc suy thoái về chất lượng. Lưu vực Hồ Trúc
Bài Sơn cũng không phải ngoại lệ, đã và đang phải chịu áp lực vô cùng lớn từ
các hoạt động của người dân địa phương và từ các đối tường lâm tặc, làm tài
nguyên rừng bị suy giảm nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật lâm nghiệp vẫn
còn thấp kém…Chính vì lẽ đó, tôi chọn đề tài “Đề xuất giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn trong lưu vực hồ
Trúc Bài Sơn tỉnh Quảng Ninh”.


4

PHẦN I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững (QLRBV)
- Theo tổ chức gỗ nhiệt đới (ITTO) thì: QLRBV là quá trình quản lý
những diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo sản
xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ rừng như mong muốn mà không làm
giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không
gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường vật lý và xã hội.
- Theo tiến trình Helsinki thì: QLRBV là quản lý rừng và đất rừng một
cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học (ĐDSH), năng suất, khả năng tái

sinh, sức sống của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng
kinh tế, xã hội và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai,
ở cấp địa phương, quốc gia và toàn cầu, không gây ra những tác hại đối với
các hệ sinh thái (HST) khác.
Các khái niệm này đều nói lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt
được sự ổn định về diện tích, đảm bảo bền vững về tính ĐDSH và hiệu quả về
mặt kinh tế cũng như về môi trường sinh thái của rừng.
Từ lâu việc quản lý rừng bền vững đã được các nhà lâm học xem là vấn
đề cơ bản của kinh doanh rừng. Phần lớn các học thuyết về rừng đều hướng
vào phân tích những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể
rừng trong mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động kỹ thuật
của con người làm cơ sở để xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp
nhằm nâng cao năng suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến
thức liên quan đến quản lý rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học
khác nhau như Lâm học, trồng rừng, quy hoạch rừng, điều chế rừng... Tuy
nhiên, trong những năm gần đây, do nhận thức được vai trò quan trọng của


5

rừng với môi trường và sự phát triển bền vững nói chung, vấn đề quản lý rừng
bền vững nói riêng được người ta quan tâm nhiều hơn trong đó có cả những
chuyên gia lâm nghiệp, chủ rừng, chính quyền và nhiều tổ chức kinh tế - xã
hội khác.
Mục tiêu cơ bản của QLRBV là đồng thời đạt được bền vững về kinh
tế, bền vững về xã hội và bền vững về môi trường.
Nội dung cơ bản của những thuật ngữ này như sau:
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và
được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Bền vững về xã hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài

nguyên rừng và tiêu chuẩn xã hội, không diễn ra ngoài sự chấp thuận của
cộng đồng.
- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo
toàn sản phẩm của rừng, đáp ứng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự nhiên.
QLRBV dựa vào các nguyên lý chủ yếu sau:
- Nguyên lý thứ nhất là sự bình đẳng giữa các thế hệ trong sử dụng tài
nguyên rừng: Cuộc sống con ng-ời luôn gắn với việc sử dụng tài nguyên thiên
nhiên và để sử dụng nó chúng ta cần phải bảo vệ nó vì tài nguyên thiên nhiên
không phải là vô tận. Vấn đề chìa khoá để bảo đảm nguyên lý bình đẳng giữa
các thế hệ trong quản lý tài nguyên rừng là bảo đảm năng suất và các điều
kiện tái sinh của nguồn tài nguyên có khả năng tái tạo này. Một trong những
nguyên tắc cần tuân thủ là tỷ lệ sử dụng lâm sản không được vượt quá khả
năng tái sinh của rừng.
- Nguyên lý thứ hai là trong quản lý tài nguyên rừng bền vững, sự
phòng ngừa được hiểu là ở đâu có những nguy cơ suy thoái nguồn tài nguyên


6

rừng và chưa có đủ cơ sở khoa học thì ch-a nên sử dụng biện pháp phòng
ngừa suy thoái về môi trường.
- Nguyên lý thứ ba là sự bình đẳng và công bằng trong sử dụng tài
nguyên rừng ở cùng thế hệ: Đây là một vấn đề khó, bởi vì trong khi cố tạo ra
sự công bằng cho các thế hệ tương lai thì chúng ta vẫn chưa tạo được những
cơ hội bình đẳng cho những người sống ở thế hệ hiện tại. Sự bình đẳng trong
cùng thế hệ hàm chứa hai khía cạnh:
+ Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng về sự tự do thích hợp trong
việc được cung cấp các tài nguyên từ rừng.
+ Sự bất bình đẳng trong xã hội và kinh tế chỉ có thể đ-ợc tồn tại nếu
sự bất bình đẳng này là có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội và tất cả

mọi người đều có cơ hội tiếp cận nguồn tài nguyên rừng như nhau.
- Nguyên lý thứ tư là tính hiệu quả: Tài nguyên rừng phải được sử dụng
hợp lý và hiệu quả nhất về mặt kinh tế và sinh thái.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của
rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng
cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí
cần thiết để góp phần phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này,
quản lý sử dụng rừng bền vững đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải
pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.
1.2. Những nghiên cứu về QLBVR trên thế giới
Khi chưa có sự xuất hiện của con người, rừng che phủ hầu hết đất đai
của các lục địa. Khi mới xuất hiện, con người sống phụ thuộc hoàn toàn vào
rừng bằng các hoạt động săn bắt và hái lượm, các hoạt động này không gây
thiệt hại gì cho rừng, đến khi bắt đầu biết chăn nuôi và trồng trọt thì con ng-ời


7

có những hoạt động gây tác hại đến rừng, mặc dù các tác động này có phần
nào hạn chế sự phát triển của rừng nhưng cũng chưa có ảnh hưởng đáng kể
đến tài nguyên rừng.
Kể từ thế kỷ thứ III trước công nguyên trở về sau thì rừng mới thực sự
bị con người tấn công khai phá, sự tấn công khai phá rừng được thấy rõ nét
nhất bắt đầu ở châu Âu mà chủ yếu ở Tây Âu, đặc biệt là từ thế kỷ thứ V đến
thế kỷ XII và kéo dài đến thời kỳ Phục Hưng từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ
XVIII, do sự phát triển của các đô thị, các thành phố lớn, nhà thờ, xưởng kỹ
nghệ, xưởng đóng tàu ngày càng nhiều, kỹ nghệ luyện kim và thủy tinh xuất
hiện, nền nông nghiệp càng phát triển... Để cung cấp đủ nguyên liệu cho nhu
cầu phát triển nói trên cần phải tiêu thụ rất nhiều gỗ dẫn đến sự khai phá rừng
làm thu hẹp diện tích rừng một cách đáng kể. Sau đó, vào nửa cuối thế kỷ thứ

XIX giao thông đường sắt phát triển, công nghiệp hóa học và công nghiệp
giấy ra đời đã làm cho nhu cầu sử dụng gỗ càng gia tăng.
Vào cuối thế kỷ 20, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng
thì con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị
suy giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất
rừng mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn
100 năm nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những
thảm hoạ khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường.
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo
tồn ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ
chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ
và phát triển rừng trong đó có chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh
năm 1991), Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình
hành động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường


8

và phát triển (UNCED tại Rio de Janerio năm 1992), Công ước quốc tế về
buôn bán các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công ước về đa dạng sinh
học (CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994),
công ước về chống sa mạc hoá (CCD, 1996). Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt
đới (ITTA, 1997). Những năm gần đây, nhiều hội nghị, hộ thảo quốc tế và
quốc gia về QLRBV đã liên tục được tổ chức. Phân tích khái niệm về quản lý
rừng bền vững của ITTO thì QLRBV là cách thức quản lý vừa đảm bảo được
các mục tiêu sản xuất, vừa đảm bảo giữ được các giá trị kinh tế, môi trường
và xã hội của tài nguyên rừng.
Là tổ chức đầu tiên áp dụng vấn đề quản lý rừng bền vững ở nhiệt đới,
ITTO đã biên soạn một số tài liệu quan trọng như "Hướng dẫn quản lý rừng
tự nhiên nhiệt đới " (ITTO, 1990), "Tiêu chí đánh giá quản lý bền vững rừng

tự nhiên nhiệt đới" (ITTO, 1992), "Hướng dẫn thiết lập hệ thống quản lý bền
vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới" (ITTO, 1993), và "Hướng dẫn
bảo tồn ĐDSH của rừng sản xuất trong vùng nhiệt đới" (ITTO, 1993). ITTO
cũng đã xây dựng chiến lược quản lý bền vững rừng nhiệt đới, buôn bán lâm
sản nhiệt đới cho năm 2000.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống QLRBV là suất phát từ
các nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận
sản xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn
điều tiết việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn
đề đặt ra là phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô
quốc tế, hội đồng quản trị rừng đã được thành lập để xét công nhận tư cách
của các tổ chức xét và cấp chứng chỉ rừng. Với sự phát triển của QLRBV,
Canada đã đề nghị đặt vấn đề QLRBV trong hệ thống quản lý môi trường
theo tiêu chuẩn ISO 14001.


9

Hiện nay, trên thế giới đã có bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc
gia như: Canada, Thụy Điển, Malaysia, Indonesia... và cấp quốc tế như tiến
trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức
gỗ nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn "Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng
(P&C)" đã được công nhận và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Các
tổ chức cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá tình trạng
quản lý rừng và xét cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng.
Tháng 8/1998, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị
lần thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu
chí và chỉ số về QLRBV ở vùng ASEAN (viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất
C&I của ASEAN cũng giống như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng
chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý. Hiện nay, ở các

nước đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan
trọng đối với người dân nông thôn, miền núi, thì quản lý rừng theo hình thức
phát triển lâm nghiệp xã hội đang là một trong những mô hình được đánh giá
cao trên các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.
Với mục đích quản lý bền vững, các khu bảo vệ (protected areas)
được thành lập ngày càng nhiều, nhiều quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến
việc quản lý bền vững các khu bảo vệ. Nhiều chính sách và giải pháp được
đưa ra để áp dụng quản lý rừng bền vững. Năm 1996, tại Vườn quốc gia
Bwindi Impenetrable và Mgahinga Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đã
nghiên cứu giả pháp quản lý, khai thác bền vững một số lâm sản và quản lý
bảo vệ tài nguyên thiên nhiên giữa ban quản lý vườn và cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo "Hợp tác quản lý với người dân ở nam phi - Phạm vi
vận động" của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đã nghiên cứu và
đưa ra giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại Vườn quốc gia


10

Richtersveld chủ yếu dựa trên hương ước (Contractual Agreement) quản lý
bảo vệ tài nguyên, trong đó người dân cam kết bảo vệ ĐDSH trên địa phận
của mình còn chính quyền và ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng
và cải thiện các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Tại Vườn quốc gia Kruger của Nam Phi (2000), nhằm bảo vệ tài
nguyên bền vững, Chính phủ đã trao quyền sử dụng đất đai, chia sẻ lợi ích từ
du lịch cho người dân, ngược lại người đân phải tham gia quản lý và bảo vệ
tài nguyên tại Vườn quốc gia.
Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của
Madagascar, để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho
người dân được quyền chăn thả gia súc và khai thác tài nguyên từ rừng phục
hồi để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống khác

như có thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Ngược lại, người dân phải
đảm bảo tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái trong khu vực.
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng
gia ChitWan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm
được tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên
vùng đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài
nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hàng năm sẽ được đầu tư trở
lại cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng.
Các mô hình quản lý bền vững các khu bảo vệ được nêu trên đã góp
phần quản lý tài nguyên thiên nhiên. Chúng đã đưa ra được một số chính sách
như chia sẻ lợi ích, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội... và một
số giải pháp như đồng quản lý, quản lý có sự tham gia của người dân... tuy
nhiên, các mô hình trên chỉ phù hợp với một số quốc gia và một số khu bảo vệ
có tiềm năng du lịch, tài nguyên, đất đai phù hợp.


11

1.3. Những nghiên cứu QLBVR ở Việt Nam
Khái niệm “bền vững” được thế giới sử dụng từ những năm đầu thế kỷ
18 là tiền đề cho QLRBV sau này, thì đến mãi cuối thế kỷ 20 Việt Nam mới
dùng khái niệm “điều chế rừng” để quản lý, kinh doanh lâm nghiệp. Đến nay,
khái niệm này vẫn được coi là công cụ truyền thống để quản lý rừng theo
phương án điều chế thực hiện theo những quy định trong Quyết định
40/2005/QĐ-BNN ngày 7/7/2005 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn về Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác.
Tháng 2/1998, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng 3 tổ chức
quốc tế phát động một phong trào QLRBV và CCR rộng rãi trong cả nước,
thông qua hội thảo quốc gia ngày 10-12/02/1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tổ Công tác Quốc gia về chứng chỉ FSC ở Việt Nam (NWG) đã được thành

lập gồm 12 thành viên thực hiện chương trình hành động, đồng thời xây dựng
tổ chức để hoạt động lâu dài trong hệ thống thành viên của FSC nhằm thúc
đẩy tiến trình QLRBV và CCR tại Việt Nam. Ban đầu NWG trực thuộc Cục
lâm nghiệp thuộc Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Từ năm 2001, theo quy chế của FSC NWG trở thành một tổ chức độc
lập, phi chính phủ, phi lợi nhuận thuộc Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam (nay là
Viện Quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng). Các hoạt động chủ yếu của
NWG là:
Dựa trên cơ sở 10 nguyên tắc và 56 tiêu chí của FSC, hoàn thành dự
thảo tiêu chuẩn quốc gia với 160 chỉ số phản ánh các đặc thù của Việt Nam,
song vẫn đảm bảo các tiêu chuẩn chất lượng của FSC. Đây là dự thảo lần 9 đã
lấy ý kiến nhiều chủ rừng, các cơ quan tổ chức liên quan, đã 2 lần mời chuyên
gia FSC sang dự hội thảo góp ý.


12

Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho chủ rừng, các bên liên
quan và cộng đồng dân cứ sống trong rừng, gần rừng. Nâng cao năng lực
quản lý cho chủ rừng, năng lực hoạt động cho chuyên gia Viện QLRBV và
cán bộ lâm nghiệp.
Đánh giá chất lượng quản lý rừng.
Tổ chức mạng lưới các mô hình QLRBV tự nguyện. Năm 2001, Chiến
lược lâm nghiệp quốc gia (NFS) giai đoạn 2001-2010 đã xác định quản lý và
phát triển rừng theo hướng bền vững là hướng đi chủ chốt. Vào đầu năm
2007, Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020 đã được ban
hành, trong đó quy định theo hướng phát triển rừng quốc gia với năm chương
trình lớn. Một lần nữa QLRBV là một trong ba chương trình trọng điểm của
chiến lược với mục tiêu 30% (8,4 triệu ha) diện tích rừng trồng sản xuất đến
năm 2020 được cấp chứng chỉ.

Như vậy, QLRBV là một yếu tố chủ chốt trong các chính sách, chiến
lược và kế hoạch hành động của Việt Nam. Điều này được thể hiện trong các
văn bản pháp quy dưới đây:
Luật Đất đai, năm 2003, bổ sung 2013 quy định: Việc sử dụng đất phải
tôn trọng các nguyên tắc sau đây: Tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ môi trường
và không làm tổn hại đến lợi ích chính đáng của người sử dụng đất xung
quanh.
Luật Bảo vệ và phát triển rừng, năm 2004: Điều 9 đã quy định các hoạt
động để đảm bảo QLRBV: Các hoạt động bảo vệ và phát triển rừng phải đảm
bảo PTBV về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; phù hợp với
chiến lược phát triển KTXH, chiến lược phát triển lâm nghiệp; đúng quy
hoạch, kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng của cả nước và địa phương; tuân
theo quy chế quản lý rừng do Thủ tướng Chính phủ quy định.


13

Luật Bảo vệ môi trường, năm 2005; trong Chương IV: Bảo tồn và sử
dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, có 7 điều (từ Điều 28 đến Điều 34) đã đưa
ra những quy định liên quan tới QLRBV thuộc các lĩnh vực: điều tra, đánh
giá, lập quy hoạch sử 23 dụng tài nguyên thiên nhiên; bảo vệ thiên nhiên; bảo
vệ đa dạng sinh học; bảo vệ và phát triển cảnh quan thiên nhiên; bảo vệ môi
trường trong khảo sát, thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên;
phát triển năng lượng sạch.
Quyết định số 18/2007/QĐ- TTg ngày 05/02/2007 của Thủ tướng chính
phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển Lâm nghiệp giai đoạn 2006-2020, có
một Chương trình ưu tiên phát triển được đặt lên hàng đầu là “Chương trình
quản lý và phát triển rừng bền vững” với mục tiêu “đến năm 2020, thiết lập,
quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng bền vững 16,24 triệu hecta đất qui
hoạch cho Lâm nghiệp...”. Đây là một mục tiêu đầy tham vọng và để đạt được

mục tiêu này cần thiết phải xác lập được những định hướng mới trong phát
triển nguồn lực trong QLRBV thông qua các chương trình đào tạo, hợp tác và
nghiên cứu 5 chương trình trọng điểm của Chiến lược là: Quản lý và phát
triển rừng bền vững, Bảo vệ rừng, bảo tồn ĐDSH và phát triển dịch vụ môi
trường, Chế biến thương mại lâm sản, Nghiên cứu, giáo dục đào tạo và
khuyến lâm, và Đổi mới thể chế chính sách, kế hoạch, giám sát ngành 1.3.2.
Các hoạt động về QLRBV
Tuyên truyền tập huấn đào tạo về QLRBV do NWG thực hiện với sự
hỗ trợ Quỹ rừng nhiệt đới (TFT), Dự án cải cách hành chính của GTZ, WWF
Đông Dương tại các hội nghị, hội thảo quốc gia, vùng, tỉnh.
Xây dựng kế hoạch chiến lược và các hoạt động QLRBV thể hiện trong
Chiến lược phát triển lâm nghiệp giai đoạn 2006 – 2010.


14

Xây dựng lộ trình thực hiện QLRBV theo hai giai đoạn 2006-2010 và
sau năm 2010.
Xây dựng các điều kiện QLRBV và CCR với các hoạt động trong giai
đoạn 2006-2010 gồm: tiếp tục dự án 661; rà soát và quy hoạch lại 3 loại rừng;
quy hoạch sử dụng đất vĩ mô.
Về cơ sở lý luận, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu phân
tích những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững.
Một số đề tài nghiên cứu đã bước đầu đề xuất các giải pháp cụ thể áp dụng
cho một số vùng như:
Quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững lưu vực sông Sê San của
Phạm Đức Lâm và Lê Huy Cường 1998, các tác giả đã đưa ra các giải pháp
về quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững tại lưu vực sông Sê San.
Quản lý bền vững rừng khộp ở EaSúp - Đắc Lắk của Hồ Viết Sắc
1998, tác giả đã đề xuất một số giải pháp về xã hội và quản lý nhằm quản lý

bền vững rừng khộp ở Ea Súp - Đắc Lắk.
Du canh với vấn đề QLBVR ở Việt Nam của Đỗ Đình Sâm 1998, tác
giả đã phản ánh thực trạng du canh, đánh giá sự ảnh hưởng của nó đồng thời
nêu lên một số giải pháp chính sách về định canh và biện pháp kỹ thuật canh
tác trên đất dốc nhằm quản lý rừng bền vững ở Việt Nam;
Sử dụng đất tổng hợp bền vững của Nguyễn Xuân Quát năm 1996, tác
giả đã nêu lên những điều cần biết về đất đai, phân tích tình hình sử dụng đất,
các mô hình sử dụng đất bền vững, mô hình khoanh nuôi phục hồi rừng ở
Việt Nam, đồng thời đã đề xuất tập đoàn cây trồng nhằm sử dụng bền vững và
ổn định đất rừng;


15

Cấu trúc rừng tự nhiên ở Tây Nguyên và khả năng ứng dụng trong
kinh doanh rừng của Trần Văn Con năm 1999, tác giả đã đánh giá lại các
nghiên cứu về cấu trúc rừng tự nhiên ở vùng Tây Nguyên để xem xét thực
trạng sự hiểu biết, khả năng ứng dụng sự hiểu biết về cấu trúc rừng tự nhiên
trong kinh doanh rừng tự nhiên;
Nghiên cứu phát triển bền vững vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên và
Vườn Quốc gia của Trần Ngọc Lân và cộng sự (1999) thực hiện tại Vườn
Quốc gia Pù Mát, các tác giả đã đề xuất một số giải pháp về mặt xã hội và
kinh tế để phát triển bền vững vùng đệm của Vườn Quốc gia Pù Mát;
Đánh giá tình hình khai thác sử dụng lâm sản ngoài gỗ và đề xuất giải
pháp quản lý rừng bền vững ở vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống
của Suree và Đào Thị Minh Châu (2004), các tác giả đã đánh giá thực trạng
và ảnh hưởng của việc khai thác, sử dụng lâm sản ngoài gỗ đồng thời đã nêu
ra được một số giải pháp về xã hội và kỹ thuật nhằm quản lý rừng bền vững ở
vùng đệm Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống;
Dự án kết hợp bảo tồn và phát triển (Integrated Conservation and

Development - ICD) tại Vườn Quốc gia Cát Tiên do Quỹ Quốc tế về Bảo tồn
thiên nhiên (WWF) tài trợ (1997), trong dự án này chỉ đưa ra giải pháp đồng
quản lý tài nguyên trong đó đề cập đến sự tham gia quản lý tài nguyên rừng
của cộng đồng địa phương và các bên liên quan mà chưa đề cập đến các giải
pháp khác nhằm QLBVR.
1.4. Tổng quan về lưu vực rừng phòng hộ đầu nguồn Trúc Bài Sơn
tỉnh Quảng Ninh.
Huyện Hải Hà nằm ở phía Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh, tiếp giáp với
Trung Quốc, là một huyện miền núi có đến 13/16 xã có diện tích lâm nghiệp;


16

Huyện có tổng diện tích tự nhiên 51.230,3 ha. Trong đó có 35.051,2 ha
đất lâm nghiệp chiếm 68,4%. Do đó rừng có vai trò quan trọng trong việc
phòng hộ và phát triển nền kinh tế xã hội của Huyện. Trong tổng số 35.051,2
ha đất lâm nghiệp, có 13.502,6 (ha) đất rừng phòng hộ đầu nguồn. Khu rừng
phòng hộ đầu nguồn, một phần là vùng sinh thuỷ cho hồ lớn Trúc bài Sơn
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt đối với nhân dân trên địa
bàn. Do vậy duy trì ổn định diện tích và nâng cao chất lượng rừng cho khu
rừng phòng hộ là một nhiệm vụ rất quan trọng của cán bộ và nhân dân các
dân tộc đặc biệt là Ban quản lý rừng phòng hộ hồ Trúc Bài Sơn.
Rừng phòng hộ đầu nguồn lưu vực hồ Trúc Bài Sơn nằm trên địa bàn
xã Quảng Sơn do Ban quản lý rừng phòng hộ Trúc Bài Sơn huyện Hải Hà tỉnh
Quảng Ninh quản lý. Diện tích này đóng vai trò quan trọng trong việc phòng
hộ, bảo vệ môi trường sinh thái cũng như phát triển kinh tế xã hội của huyện
Hải Hà nói riêng và tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Tổng diện dích tự nhiên của lưu vực rừng phòng hộ đầu nguồn Trúc Bài
Sơn là: 7.059,7 ha, trong đó: Diện tích Ban quản lý rừng phòng hộ hồ Trúc Bài
Sơn đã được giao đất 6,681,4 ha theo QĐ số 1904/QĐ-UBND ngày 29/7/2013

của UBND tỉnh Quảng Ninh; diện tích Ban đang đề nghị các cấp giao tiếp rừng
phòng hộ để quản lý là 378,3 ha tại xã Quảng Sơn.
Trên diện tích rừng lưu vực Hồ Trúc Bài Sơn đã có nghiên cứu về tài
nguyên rừng và cấu trúc rừng, nghiên cứu về bảo tồn như: điều tra đa dạng
sinh học về động vật rừng của Viện điều tra quy hoạch rừng, … tuy nhiên,
chưa có một nghiên cứu cụ thể nào về việc nâng cao hiệu quả quản lý bền
vững rừng của lưu vực hồ Trúc Bài Sơn. Vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu
thực trạng và đề xuât giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác quản lý bảo vệ


17

rừng bền vững tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn là cần thiết để lôi kéo người dân
và các bên liên quan khác cùng tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ rừng.


18

PHẦN II
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là khu vực rừng phòng hộ đầu nguồn
Trúc Bài Sơn thuộc xã Quảng Sơn, do Ban quản lý rừng phòng hộ hồ Trúc
Bài Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh đang quản lý.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Phạm vi về nội dung
- Đặc điểm rừng và đất rừng tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn huyện Hải
Hà tỉnh Quảng Ninh.
- Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng…trong lưu vực hồ Trúc Bài
Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.

+ Phạm vi về không gian
Do điều kiện thời gian và kinh phí, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu đánh
giá đặc điểm rừng và đất rừng, thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng, các
nhân tố ảnh hưởng đến công tác QLBVR tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn xã
Quảng Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.
+ Phạm vi về thời gian
- Thời gian thực hiện đề tài: từ tháng 5 năm 2018 đến tháng 11 năm
2018.


19

Phần III
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài góp phần cung cấp những cơ sở khoa học và thực tiễn, nhằm
nâng cao hiệu quả công tác quản lý bền vững rừng phòng hộ đầu nguồn trong
lưu vực hồ Trúc Bài Sơn xã Quảng Sơn nói riêng và của huyện Hải Hà nói
chung.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá được thực trạng tài nguyên rừng của lưu vực rừng phòng
hộ đầu nguồn hồ Trúc Bài Sơn tỉnh Quảng Ninh.
- Phân tích được thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng, ảnh hưởng
của các nhân tố tới lưu vực rừng phòng hộ đầu nguồn hồ Trúc Bài Sơn huyện
Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.
- Những thuận lợi khó khăn trong công tác quản lý bảo vệ rừng trong
lưu vực hồ Trúc Bài Sơn.
- Đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý bền vững rừng
phòng hộ đầu nguồn trong lưu vực Trúc Bài Sơn.



20

Phần IV
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nội dung nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài tôi thực hiện 4 nội dung
sau:
(1). Nghiên cứu đặc điểm rừng và đất rừng thuộc lưu vực hồ Trúc
Bài Sơn huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh.
+ Xây dựng bản đồ hiện trạng của lưu vực rừng phòng hộ hồ Trúc Bài
Sơn.
+ Rừng theo trạng thái, trữ lượng
+ Tài nguyên động vật rừng
+ Tài nguyên thực vật rừng
+ Điều kiện tự nhiên: bao gồm vị trí địa lý, địa hình, thời tiết, lập địa,
sông suối thủy văn…
+ Điều kiện kinh tế: Nguồn thu nhập chính và thu nhập bình quân đầu
người của cộng đồng dân cư trong khu vực cũng như của cán bộ công nhân
viên trong BQL rừng phòng hộ Trúc Bài Sơn.
+ Điều kiện xã hội: Gồm các vấn đề liên quan đến trình độ học vấn,
dân số, dân tộc, phân bố dân cư, tập quán sinh hoạt, tập quán canh tác, nghề
nghiệp, y tế giáo dục, cơ sở hạ tầng...
(2). Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng của khu vực nghiên
cứu.
+ Về tổ chức bộ máy:


21


Lược sử hình thành và phát triển của Ban QLR phòng hộ hồ Trúc Bài
Sơn
Vai trò và chức năng của Ban QLR phòng hộ hồ Trúc Bài Sơn
Cơ cấu tổ chức của Ban QLR phòng hộ Trúc Bài Sơn
+ Về chia sẻ lợi ích từ rừng: lợi ích hộ nhận khoán %, lợi ích của chủ
rừng %, lợi ích bên trung gian %.
+ Thống kê một số vụ việc vi phạm (các vụ mất rừng): do tự nhiên, do
dịch bệnh, lửa rừng, do người dân…
+ Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho công tác bảo vệ rừng, PCCCR.
+ Công tác tuần tra bảo vệ rừng thực hiện ra sao.
+ Công tác hỗ trợ từ các dự án khác: vấn đề thực tế, chi phí, hiệu quả
của nó như thế nào…
+ Về quy hoạch: phê duyệt và điều chỉnh có hợp lý không
+ Vấn đề về kỹ thuật: Trồng rừng, chăm sóc rừng, bảo vệ rừng, khai
thác rừng, PCCCR… có áp dụng vấn đề kỹ thuật vào không.
(3). Đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới công tác bảo vệ rừng tại
lưu vực hồ Trúc Bài Sơn.
+ Ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên:
Như lập địa, độ cao, độ rốc, sạt lở, thời tiết, giao thông đi lại…
Những thuận lợi, khó khăn
+ Ảnh hưởng của các yếu tố nhân tạo, yếu tố xã hội
Cộng đồng, giới tính, hiểu biết, thu nhập, nhận thức
Quy ước, hương ước của cộng đồng


22

Các thủ tục của địa phương…
+ Thuận lợi, khó khăn
(4). Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng phòng hộ

đầu nguồn trong lưu vực hồ Trúc Bài Sơn tỉnh Quảng Ninh.
Trên cơ sở phân tích những nội dung nghiên cứu nêu trên, đề xuất giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng phòng hộ đầu nguồn hồ Trúc Bài Sơn
tỉnh Quảng Ninh
+ Giải pháp về tổ chức bộ máy quản lý
+ Giải pháp về nhân sự, lực lượng bảo vệ rừng như thế nào
+ Đánh giá bộ máy quản lý thừa hay thiếu
+ Giải pháp về vấn đề quy hoạch: Bản đồ quy hoạch
+ Giải pháp về vấn đề kỹ thuật
+ Giải pháp về phân cấp phòng hộ
+ Giải pháp về vấn đề kinh tế - xã hội
+ Công tác tuyên truyền pháp luật về bảo vệ rừng
+ Đối với công tác kiểm tra kiểm soát lâm sản
+ Đối với công tác PCCCR
+ Đối với công tác ngăn chặn phá rừng và lấn chiếm đất lâm nghiệp
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Nghiên cứu đặc điểm rừng và đất rừng thuộc lưu vực hồ Trúc
Bài Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh


23

Kế thừa số liệu các kết quả nghiên cứu về diện tích rừng, các trạng
thái rừng, trữ lượng, chất lượng, tài nguyên động thực vật rừng, bản đồ hiện
trạng. Kết quả thu thập được tổng hợp vào các bảng biểu 2.1; 2.2
Phương pháp điều tra thực địa: Đề tài tiến hành phỏng vấn các đối
tượng là cán bộ huyện Hải Hà (03 người), Cán bộ xã Quảng Sơn (03 người),
đại diện cán bộ và người dân các thôn (bản) Mảy Nháu, Sám Cáu, Lý Quáng,
Pạc Sủi, Quảng Mới, Mố Kiệc, Lò Mả Coọc, Tài Chi, … các nội dung theo
Phiếu biểu tại phụ lục 2.1; 2.2; 2.3.

Các số liệu, thông tin về diện tích rừng, các trạng thái rừng, trữ lượng,
chất lượng, tài nguyên động thực vật tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn huyện Hải
Hà thu thập được tổng hợp, phân tích và đánh giá và được sử dụng làm tư liệu
cơ bản để xây dựng báo cáo tổng kết đề tài.
4.2.2. Thực trạng công tác quản lý bảo vệ rừng của lưu vực rừng
phòng hộ Trúc Bài Sơn tỉnh Quảng Ninh.
Kế thừa các thông tin, tài liệu về thể chế, chính sách trong nông lâm
nghiệp như Luật đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, Luật đa dạng sinh
học, Chính sách giao đất lâm nghiệp, Chính sách khoán bảo vệ rừng; quyền
hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận
khoán rừng và đất lâm nghiệp; trách nhiệm quản lý Nhà nước các cấp về rừng
và đất lâm nghiệp những nghiên cứu và kinh nghiệm về quản lý rừng đang áp
dụng tại huyện Hải Hà.
Phương pháp điều tra thực địa: Để đánh hiệu quả của các giải pháp
quản lý bảo vệ rừng hiện có tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn huyện Hải Hà. Đề tài
đã tiến hành phỏng vấn các đối tượng là cán bộ huyện, cán bộ xã; cán bộ,
người dân thôn (bản), sự phối hợp của người dân trong công tác quản lý bảo
vệ rừng tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn huyện Hải Hà và từ đó xin các ý kiến về


24

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý bảo vệ rừng tại đây. Mỗi trường
hợp phỏng vấn kéo dài từ 5 đến 15 phút. Nội dung phỏng vấn theo Phiếu biểu
tại phụ lục 2.1; 2.2 và 2.3.
+ Xác định dung lượng mẫu điều tra
Xác định dung lượng mẫu không lặp lại theo công thức sau:

Trong đó:
+ n: Số hộ cần điều tra

+ N: Tổng số hộ của xã điều tra
+ d: Sai số mẫu (10%)
+ u: Hệ số tin cậy của phân bố chuẩn (u=1,96)
+

: Phương sai mẫu (

Xác định dung lượng mẫu điều tra cho xã Quảng Sơn
Tổng số hộ dân trong các bản là: Bản Mảy Nháu 57 hộ, Pạc Sủi 55
hộ, Bản Lý Quáng 109 hộ, Thôn 3 có 44 hộ, Bản Mố Kiệc 34 hộ, Bản Lò Mả
Coọc 73 hộ, Bản Quảng Mới 129 hộ, Thôn 4 có 176 hộ, Bản Tài Chi 69 hộ.
Theo công thức trên ta có số hộ dân cần điều tra trong các bản là: Mảy
Nháu 35 hộ, Pạc Sủi 34 hộ, Bản Lý Quáng 26 hộ, Thôn 3 là 14 hộ, Bản Mố
Kiệc 25 hộ, Bản Lò Mả Coọc 41 hộ, Bản Quảng Mới 55 hộ, Thôn 4 có 62 hộ,
Bản Tài Chi 40 hộ.
Các số liệu về thông tin các giải pháp quản lý bảo vệ rừng hiện có tại
lưu vực hồ Trúc Bài Sơn xã Quảng Sơn huyện Hải Hà thu thập được sẽ được
thống kê, sắp xếp. Sau đó tổng hợp và phân tích định tính và định lượng bằng


25

các đánh giá theo phương pháp SWOT các thông tin về thể chế chính sách,
những tồn tại, vướng mắc về chế độ chính sách trong quản lý rừng, khung
logic và bằng các phần mềm thông dụng Excel. Những thông tin thu được đều
được sử dụng làm tư liệu cơ bản để xây dựng báo cáo tổng kết đề tài.
4.2.3. Phân tích và đánh giá ảnh hưởng của các nhân tố tới công tác
bảo vệ rừng tại lưu vực hồ Trúc Bài Sơn.
* Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA và đánh giá nông thôn
có sự tham gia PRA

- Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA
+ Lựa chọn 50 hộ gia đình và cán bộ địa phương để phỏng vấn theo
phương pháp đánh giá nhanh nông thôn RRA. Các hộ gia đình và cán bộ được
lựa chọn từ - Các xã điều kiện tự nhiên mang tính đặc trưng của rừng thuộc
lưu vực hồ Trúc Bài Sơn huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh (xã Quảng Sơn).
Tiêu chí để lựa chọn là các hộ gia đình phải đại diện cho các địa vị xã hội,
mức sống, địa bàn cư trú, nhận thức, thành phần dân tộc, khả năng tiếp cận,
lĩnh vực quản lý.
+ Địa điểm khu vực thu thập thông tin có tính đại diện cao, phản ánh
đúng thực trạng vấn đề nghiên cứu.
+ Các chủ đề phỏng vấn tập trung vào: Mức sống của các hộ gia đình,
những hoạt động có ảnh hưởng đến tài nguyên rừng, sự phụ thuộc của người
dân vào rừng, vai trò của người dân đối với công tác bảo tồn tài nguyên rừng
và những kiến nghị, đề xuất của họ…
+ Công cụ điều tra chủ yếu là bảng các câu hỏi phỏng vấn với những
câu hỏi định hướng, bán định hướng và không định hướng.


×