Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH ở tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.69 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

1


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
-

2

BHTN: Bảo hiểm thất nghiệp
BHXH: Bảo hiểm xã hội
BHYT: Bảo hiểm y tê
HĐND: Hội đồng Nhân dân
HTX: Hợp tác xã
KCB: Khám chữa bệnh
LĐTB & TB: Lao động Thương binh & Xã hội
UBND: Ủy ban Nhân dân


BẢNG SƠ ĐÔ
Sơ đồ: Vị trí của BHXH Tỉnh Hòa Bình trong hệ thống quản lý BHXH

T.10

Sơ đồ: Cơ quan BHXH Tỉnh Hòa Bình

T.12

3



LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biêt yêu tố con người trong mọi thời đại luôn là nhân tố để
phát triển, con người tồn tại không thể không lao động. Công sức mà họ bỏ ra để
lao động đã được đền bù bằng kêt quả lao động và người ta vẫn gọi đó là thu
nhập. Thu nhập của người lao động luôn luôn là vấn đề được xã hội quan tâm
chú ý bởi ý nghĩa kinh tê và xã hội to lớn của nó. Chính vì vậy, BHXH đã ra đời
để bảo vệ cuộc sống cho người lao động.
Hiện nay, trong hầu hêt các quốc gia, bảo hiểm xã hội được coi là bộ phận
cấu thành hệ thống an sinh xã hội, là chính sách quan trọng của mỗi nước và ở
nước ta cũng vậy. Trải qua hơn 40 năm thực hiện, sửa đổi và bổ sung cho phù
hợp với từng giai đoạn, chính sách BHXH đã góp phần rất to lớn trong việc đảm
bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần ổn định
chính trị – xã hội của đất nước. Đên nay, BHXH Việt Nam đã được thực hiện
cho công chức Nhà nước, lực lượng vũ trang và người lao động, . . . và sẽ còn
tiêp tục mở rộng cho nhiều đối tượng khác.
BHXH cấp tỉnh là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH
Việt Nam, là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt hoạt
động ở BHXH cấp tỉnh thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cả hệ thống.
BHXH Tỉnh Hòa Bình là đơn vị trực thuộc sự quản lý của BHXH Nhà nước Việt
Nam. Cơ quan BHXH Tỉnh Hòa Bình được thành lập và bắt đầu hoạt động từ
năm 1995 cho đên nay đã thu được nhiều thành tự như: phí thu được ngày càng
nhiều, chi trả đúng đối tượng, . . . Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn
nhiều hạn chê như thu BHXH vẫn chưa đạt kêt quả cao, nhiều đơn vị không
tham gia BHXH cho người lao động hay tham gia không đủ số lượng lao
động . . . Điều này đã làm cho hoạt động của BHXH kém hiệu quả và còn phải
nhờ vào Ngân sách Nhà nước. Như vậy vấn đề quản lý tốt đối tượng tham gia có
ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của BHXH Việt Nam nói chung và
BHXH quận, huyện nói riêng trong cả nước, trong đó có BHXH Tỉnh Hòa Bình.
Do vậy mà em đã chọn đề tài: “Phân tích công cụ quản lý đối tượng tham gia

BHXH ở Tỉnh Hòa Bình” để xem xét và đánh giá kêt quả của việc quản lý đối
tượng tham gia BHXH trong những năm qua cũng như những vấn đề còn tồn tại,
tìm hiểu nguyên nhân của những tồn tại đó, để từ đó đề xuất một số kiên nghị
nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH.
Ngoài phần mở đầu và kêt luận, kêt cấu của bài tiểu luận bao gồm 3
chương:
4


Chương I: Một số lý luận chung về BHXH và quản lý đối tượng tham gia
BHXH
Chương II: Thực trạng quản lý đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn
Tỉnh Hòa Bình
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện việc quản lý
đối tượng tham gia BHXH
Em xin chân thành cảm ơn.

5


CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ
QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH

I.Sự cần thiết khách quan của BHXH
Thời tiêt có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Mùa xuân cây cối tươi tốt, đâm
chồi nảy lộc. Qua hạ sang thu, đông lại về. Đó là quy luật muôn đời của tự
nhiên. Và con người cũng vậy, cũng phải trải qua các giai đoạn phát triển của
đời người đó là sinh ra, lớn lên, trưởng thành và chêt đi. Đó là vòng: sinh, lão,
bệnh, tử – là quy luật của tạo hóa. Đi theo cùng quy luật đó là những rủi ro, ốm

đau, bệnh tật có thể đên bất cứ lúc nào trong cuộc sống. Bởi lẽ trên thực tê
không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi trong cuộc sống, có thu
nhập ổn định như mình mong muốn. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu
nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hay bị tai
nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già không còn khả năng lao động .
. . Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiêt trong cuộc sống
không vì thê mà mất đi, ngược lại còn phát sinh thêm như: cần được khám chữa
bệnh và điều trị ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc
nuôi dưỡng . . . Bởi vậy để tồn tại và phát triển đòi hỏi con người và xã hội loài
người phải tìm ra được biện pháp để giải quyêt những vấn đề trên và thực tê là
họ đã tìm ra được nhiều biện pháp khác nhau như: đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự
cứu trợ của Nhà nước. Nhưng những cách này chỉ mang tính tạm thời và không
chắc chắn.
Khi nền kinh tê hàng hóa phát triển và việc thuê mướn cũng trở nên phổ
biên thì cũng là lúc mâu thuẫn giữa chủ và giới thợ bắt đầu phát sinh. Lúc đầu
chủ chỉ cam kêt trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kêt cả việc bảo
đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những
nhu cầu thiêt yêu khi không may họ gặp phải rủi ro: ốm đau, tai nạn . . . Trong
thực tê, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải
chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một
lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thê, mâu thuẫn chủ – thợ phát
sinh, giới thợ liên kêt đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kêt. Cuộc đấu tranh
này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đên đời sống kinh tê xã
6


hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hòa mâu thuẫn. Sự can
thiệp này một mặt làm tăng được vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới
chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính

toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê.
Xuất phát từ những thực tê khách quan trên BHXH đã ra đời nhằm đảm
bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biên cố bất lợi, Chính nhờ
những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn
trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn
định. Như vậy BHXH ra đời và phát triển là một tất yêu khách quan và ngày
càng phát triển cùng với sự phát triển của mỗi quốc gia. Nó trở thành quyền lợi
và nhu cầu của người lao động và được thừa nhận là nhu cầu tất yêu khách quan.
II. Khái niệm
1. Khái niệm BHXH
Hiện nay, có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH, tùy theo góc độ nghiên
cứu, cách tiêp cận mà người ta đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Có thể xác
định khái niệm bảo hiểm xã hội như sau:
Theo ILO: BHXH có thể hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các
thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các
khó khăn về kinh tê, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chêt; đồng thời
đảm bảo các chăm sóc y tê và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Theo nghĩa thông dụng ở nước ta, có thể hiểu BHXH là sự bảo đảm bù đắp
một phần hoặc thay thê thu nhập của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hêt tuổi lao động hoặc chêt . . . trên
cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định
đời sống cho họ và an toàn xã hội.
2. Khái niệm quản tri
Nêu coi quản trị là một quá trình thì nó bao gồm việc hoạch địch, tổ chức
thực hiện và kiểm tra, giám sát nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
Nêu coi quản trị là một hoạt động thì nó là những hoạt động cần thiêt được
thực hiện khi con người kêt hợp với nhau trong một tổ chức, trong một môi
trường luôn biên động nhằm thực hiện mục tiêu chung của tổ chức.
3. Khái niệm quản tri BHXH

Nêu coi quản trị BHXH là một quá trình thì nó bao gồm việc hoạch địch, tổ
7


chức thực hiện và kiểm tra, giám sát nhằm đạt được mục tiêu chung của BHXH
và chính sách BHXH đó là đảm bảo quyền và lợi ích cho người lao động.
Nêu coi quản trị BHXH là một hoạt động thì nó bao gồm những hoạt động
cần thiêt được thực hiện như: quản lý đối tượng tham gia, đối tượng thụ hưởng
BHXH, việc thu chi, quản lý đầu tư, kiểm tra, giám sát, ứng dụng công nghệ
thông tin, cải cách hành chính, . . . nhằm mục tiêu bảo vệ quyền và lợi ích của
người lao động.
III. Vai trò của BHXH
1. Đối với người lao động
Mục đích chủ yêu của BHXH là bảo đảm thu nhập cho người lao động và
gia đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu
nhập. Vì vậy, BHXH có vai trò rất to lớn đối với người lao động, đó là điều kiện
cho người lao động được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn, thai sản, . . .
Đồng thời, BHXH cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ
cho những khó khăn của các thành viên khác.
Tham gia BHXH còn giúp người lao động nâng cao hiệu quả trong chi tiêu
cá nhân, giúp họ tiêt kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần
thiêt chi dùng khi già cả, mất sức lao động . . . góp phần ổn định cuộc sống cho
bản thân và gia đình. Nhờ có BHXH, thu nhập của người lao động được đảm
bảo ổn định ở mức độ cần thiêt nên thường có tâm lý yên tâm, tự tin hơn trong
cuộc sống.
2. Đối với người sử dụng lao động
-

-


BHXH giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, các doanh nghiệp, ổn định hoạt
động thông qua việc phân phối các chi phí cho người lao động một cách hợp lý
khi họ ốm đau, tai nạn, . . .
BHXH tạo điều kiện cho người sử dụng lao động có trách nhiệm với người lao
động, không chỉ khi trực tiêp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời người lao
động, đên khi già yêu. BHXH làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu
sắc, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
3. Đối với xã hội

-

BHXH tạo ra cơ chê chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố
truyền thống đoàn kêt, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội.
BHXH còn phản ánh trình độ phát triển kinh tê, xã hội của một quốc gia. Nêu
kinh tê chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống
8


-

BHXH cũng chậm phát triển ở mức tương ứng. Khi kinh tê càng phát triển, đời
sống của người lao động được nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH của họ
càng lớn.
Ở Việt Nam, thông qua chính sách BHXH đối với khu vực chính thức, BHXH
góp phần thúc đẩy quá trình từ sản xuất lạc hậu, nhỏ lẻ tiên lên sản xuất công
nghiệp, dịch vụ hiện đại nhanh chóng hơn.
IV. Một số vấn đề quản lý đối tượng tham gia BHXH
1. Đối tượng và phạm vi quản lý

a.

-














-

Đối tượng quản lý
Người lao động tham gia BHXH
+ Theo quy định tại Điều 2 – Nghị định 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006
và Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007, đối tượng tham gia
BHXH được quy định như sau:
Người lao động tham gia BHXH là công dân Việt Nam bao gồm:
Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức
Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp
đồng lao động không xác định thời hạn
Người lao động, xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo
hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã
thành lập, hoạt động theo luật HTX
Công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp

thuộc lực lượng vũ trang
Sỹ quan, quân nhân, công an nhân dân
Người lao động theo quy định nói trên được cử đi học, thực tập, công tác trong
và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công ở trong nước.
Người lao động đã tham gia BHXH mà chưa nhận BHXH một lần trước khi đi
làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, bao gồm:
Hợp đồng với tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động dịch vụ
đưa người lao động di làm việc ở nước ngoài dưới hình thức thực tập, nâng cao
tay nghề và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có đưa người lao động đi làm
việc ở nước ngoài.
Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình ở ngước
ngoài
Hợp đồng cá nhân
Người sử dụng lao động tham gia BHXH
9













b.

-

-

+ Người sử dụng lao động tham gia BHXH, bao gồm:
Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp
Các công ty Nhà nước thành lập theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước đang trong
thời gian chuyển đổi thành Công ty Trách nhiệm hữu hạn hoặc Công ty Cổ phần
theo Luật Doanh nghiệp
Cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước
Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật
Cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực; giáo dục – đào tạo, y tê, văn
hóa, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia
đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các ngành sự nghiệp khác
HTX, Liên hiệp HTX thành lập, hoạt động theo Luật HTX
Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và các cá nhân có thuê mướn, sử
dụng và trả công cho người lao động theo quy định của pháp luật lao động
Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tê hoạt động trên lãnh thổ
Việt Nam có sử dụng lao động là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc
tê mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kêt hoặc tham gia có quy
định khác
Phạm vi quản lý
Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH trên địa bàn
quản lý theo sự phân cấp quản lý.
Quản lý người lao động thuộc diện tham gia BHXH trong từng đơn vị sử dụng
lao động thuộc diện tham gia BHXH trên địa bàn quản lý theo sự phân cấp quản
lý.
Quản lý tiền lương, tiền công đóng BHXH của những người lao động tham gia
BHXH và tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của các đơn vị sử dụng
lao động tham gia BHXH.

2. Nội dung quản lý đối tượng tham gia BHXH

-

-

Quản lý danh sách lao động tham gia BHXH trong từng đơn vị sử dụng lao
động, danh sách điều chỉnh lao động và mức lương đóng BHXH
Quản lý tiền lương, tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT,
BHTN, bảng kê khai mức tiền lương, tiền công hoặc mức thu nhập làm căn cứ
đóng BHXH do đơn vị sử dụng lao động và người tham gia lập theo mẫu quy
định của BHXH Việt Nam.
Quản lý mức đóng BHXH của từng đơn vị và từng người tham gia trên cơ sở
danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị và bảng kê khai mức tiền lương, tiền
công hoặc mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH do đơn vị sử dụng lao động
10


-

-

lập
Cấp, quản lý sổ BHXH cho người tham gia BHXH và hàng năm ghi bổ sung
vào sổ BHXH theo các tiêu thức ghi trong sổ và theo quy định của pháp luật về
BHXH.
Tổ chức thu BHXH.
3. Vai trò của quản lý đối tượng tham gia BHXH

-


-

-

Làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động thu BHXH đúng đối tượng, đủ số lượng
theo quy định của pháp luật về BHXH và đúng thời gian quy định.
Là điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tham gia BHXH của người lao động, của
đơn vị sử dụng lao động và của công dân theo quy định của pháp luật về
BHXH.
Góp phần khai thác triệt để đối tượng tham gia BHXH nhằm thực hiện mục tiêu
mở rộng phạm vi “che phủ” của BHXH, tiên tới thực hiện BHXH cho mọi người
vì sự an sinh và công bằng xã hội theo chủ trương của Nhà nước.
Làm cơ sở giải quyêt quyền lợi hưởng BHXH cho các đối tượng tham gia theo
đúng quy định của pháp luật về BHXH.
Góp phần tích cực vào việc phòng ngưa hạn chê những hành vi vi phạm pháp
luật về BHXH của tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện pháp
luật về BHXH.
4. Công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH




-

-

Cơ sở pháp lý:
Hệ thống pháp luật là công cụ cơ bản và quan trọng để thực hiện việc quản lý
đối tượng tham gia BHXH

Hệ thống pháp luật bao gồm: pháp luật về lao động, pháp luật về BHXH và các
văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư, Luật HTX, . . .
Thông qua hệ thống tổ chức bộ máy BHXH và các nhà quản trị BHXH trong
từng cấp quản trị của hệ thống tổ chức BHXH từ Trung ương đên địa phương.
Hồ sơ tham gia và thủ tục thực hiện: là những quy định về các loại văn bản giấy
tờ cần thiêt và các thủ tục hành chính mà đối tượng tham gia BHXH phải thực
hiện. Trong đó, quy định rõ hồ sơ và thủ tục thực hiện đối với cá nhân người
tham gia và hồ sơ tham gia đối với các đơn vị sử dụng lao động. Đây là một
trong những công cụ không thể thiêu đối với bất kỳ một hệ thống BHXH nào.
Công nghệ thông tin: Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản trị
BHXH nói chung, quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng là một việc làm
11


-

tất yêu. Khi công nghệ thông tin được sử dụng làm công cụ quản lý đối tượng
tham gia, thì các thủ tục hành chính được cải cách, hiệu quả quản trị của tổ chức
BHXH sẽ tốt hơn.
Các cơ quan, tổ chức hữu quan:
+ Việc quản trị đối tượng tham gia BHXH đòi hỏi cần có có sự phối hợp
nhịp nhàng, chặt chẽ giữa tổ chức BHXH với các cơ quan, tổ chức hữ quan khác
trong việc kiểm soát sự tuân thủ pháp luật của người lao động và các đơn vị sử
dụng lao động.
+ Các cơ quan hữu quan thường bao gồm: các cơ quan quản lý nhà nước về
BHXH, các tổ chức đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động,
các cơ quan thanh tra BHXH, ngân hàng, kho bạc . .

12



CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
I Vi trí và chức năng của BHXH tỉnh Hòa Bình
BHXH tỉnh Hòa Bình là cơ quan trực thuộc BHXH Việt Nam có chức năng
giúp Tổng Giám đốc tổ chức thực hiện chê độ chính sách của BHXH trên địa bàn tỉnh
Hòa Bình theo quy định của pháp luật và quy định của BHXH Việt Nam.
BHXH tỉnh chịu sự quản lý trực tiêp toàn diện của Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam và chịu sự quản lý hành chính của Nhà nước của Ủy ban Nhân dân tỉnh Hòa Bình.
BHXH tỉnh Hòa Bình có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng.
BHXH tỉnh Hòa Bình được thành lập theo Quyêt định số 01 QĐ/TC-CB
ngày 15/6/1995 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam với chức năng tổ chức
thực hiện chê độ, chính sách BHXH,BHYT và quản lý quỹ BHXH, BHYT trên
địa bàn tỉnh theo quy định của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật. Khi
được thành lập, BHXH tỉnh Hòa Bình bao gồm có 10 BHXH huyện, thị xã và 4
phòng chức năng với tổng số 46 cán bộ, công chức, viên chức và lao động hợp
đồng. Đên nay BHXH tỉnh Hòa Bình có 9 phòng chức năng và 11 BHXH huyện,
thành phố với tổng số 303 cán bộ, công chức, viên chức.
Sơ đồ: Vị trí của BHXH tỉnh Hòa Bình trong hệ thống quản lý BHXH
CHÍNH PHU
HÔI ĐÔNG QUAN LY BHXH

BHXH VIÊT NAM

BÔ LĐTB & XH

BHXH
TỈNH HÒA BÌNH Quan hệ trực tiêp ngành

SỞ LĐTB
Ghi chú:
dọc & XH TỈNH HÒA BÌNH
Quan hệ ngành ngang

13


II Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH trên đia bàn tỉnh
Hòa Bình
Trong khoảng hơn 20 năm qua trở lại đây kinh tê Hòa Bình có nhiều bước
phát triển đáng ghi nhận. Đặc biệt là từ khi UBND tỉnh chú trọng việc kêu gọi
thu hút đầu tư xây dựng nhiều khu công nghiệp quy mô lớn thì số lượng các
doang nghiệp đầu tư vào Hòa Bình tăng lên đáng kể. Do có nhiều thê mạnh về
địa lý, tự nhiên lại có thêm sự định hướng đầu tư của Nhà nước nên Hòa Bình
ngày càng một phát triển. Đi cùng với sự gia tăng về số lượng quy mô các doanh
nghiệp là sự gia tăng không ngừng về số lượng lao động tham gia BHXH trên
địa bàn tỉnh.
Theo báo cáo của BHXH tỉnh Hòa Bình năm 2017, mặc dù khối lượng
công việc rất lớn, nhiều nhiệm vụ mang tính cấp bach, nhưng được sự quan tâm
chỉ đạo, lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Hòa Bình và BHXH Việt
Nam; sự cộng tác phối hợp chặt chẽ của các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tổ
chức thực hiện chính sách BHXH, BHYT, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của toàn
thể công chức, viên chức, người lao động, BHXH tỉnh Hòa Bình đã triển khai
hiệu quả nhiều giải pháp và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nhiệm vụ được
giao.
Tính đên hêt tháng 12/2017, số người tham gia BHXH trên địa bàn tỉnh là
70.430 người, số người tham gia BHYT là 816.510 người, đạt tỷ lệ bao phủ
97,4% dân số toàn tỉnh, vượt 6,3% so với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao tại
Quyêt định số 1167/QĐ-TTg. Số thu BHXH, BHYT, BHTN là 1.654.971 triệu

đồng, đạt 105,9% so với kê hoạch BHXH Việt Nam giao, tăng 167.294 triệu
đồng, tăng 11,2% so với năm 2016. Tỷ lệ nợ BHXH, BHYT, BHTN chiên
2,57% so với số phải thu.
Trong năm 2017, đã cấp 25.858 sổ BHXH cho các đối tượng tham gia, đạt
99,8%. Tổng số chi BHXH, BHYT là 2.413.989 triệu đồng, tăng hơn 287.766
triệu đồng (13,5%) so với năm 2016. Chê độ chính sách đối với người tham gia
BHXH được thực hiện kịp thời, đúng quy định với thủ tục hành chính được rút
gọn; lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng được chi trả đầy đủ, an toàn, thuận
lợi; quyền lợi của người tham gia BHYT được đảm bảo.
Tuy nhiên, bên cạnh những kêt quả đạt được, năm 2017, BHXH tỉnh Hòa
Bình vẫn còn một số khó khăn hạn chê như công tác mở rộng đối tượng tham
gia BHXH còn hạn chê, đặc biệt người tham gia BHXH tự nguyện còn thấp.
Cho nên để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình BHXH tỉnh Hòa Bình hiện đang
14


thực hiện kêt hợp cả 2 phương pháp nắm bắt đối tượng thụ động và chủ động,
trong đó khuyên khích các BHXH cấp huyện thực hiện phương pháp chủ động.
-

-

Phương pháp thụ động: Tức là chờ người lao động, người sử dụng lao động đên
cơ quan BHXH đăng ký tham gia. Phương pháp này nắm đối tượng chủ yêu dựa
vào việc tự giác đăng ký của đối tượng tham gia.
Phương pháp chủ động: Tức là BHXH tỉnh chỉ đạo BHXH cấp huyện đồng thời
thực hiện tổ chức điều tra nắm bắt tình hình của các doanh nghiệp, các đơn vị sử
dụng lao động trên địa bàn mình quản lý, chủ động mời họ đên đăng ký. Trường
hợp người lao động, người sử dụng lao động thuộc diện tham gia mà không đên
đăng ký thì thực hiện các biện pháp tác động, đốc thúc, nhắc nhở họ tới đăng ký.

Để thực hiện được việc nắm bắt đối tượng nói trên một cách có hiệu quả,
BHXH tỉnh đã rất chú trọng công tác tuyên truyền tới từng đối tượng. Cán bộ
BHXH được cử xuống tận cấp xã, “nằm vùng” tại các doanh nghiệp để thực
hiện tuyên truyền đồng thời giúp huấn luyện nghiệp vụ BHXH cho các cán bộ
của xã . . . BHXH tỉnh cũng đã chủ động đề nghị các cơ quan hữu quan giúp sức
trong việc giúp nắm bắt và quản lý đối tượng tham gia BHXH. Thông qua việc
nhận văn bản kê khai hàng quý của Sở Kê hoạch đầu tư, UBND các cấp, . . .
Không chỉ dừng lại ở đó, BHXH tỉnh cũng đặc biệt chú trọng việc hoàn thiện bộ
máy của mình, nâng cao trình độ cho cán bộ, phối hợp hành động giữa các
BHXH cấp huyện để đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý. BHXH tỉnh hiện
nay có 11 cơ quan BHXH cấp thành phố và cấp huyện
Sơ đồ Cơ quan BHXH Tỉnh Hòa Bình
BHXH TỈNH HÒA BÌNH

BHXH TP HÒA
BHXH
BÌNH
H. LẠC
BHXH
THUY
H. YÊN
BHXH
THUY
H. KIM
BHXH
BÔI
H. LẠC
BHXH
SƠN
H. BHXH

TÂN LẠC
H. BHXH
MAI CHÂU
H. CAO
BHXH
PHONG
H. BHXH
ĐÀ BẮC
H.BHXH
KỲ SƠN
H. LƯƠNG SƠ

Các cơ quan BHXH cấp huyện, thành phố đều được giao nhiệm vụ cụ thể,
thực hiện các chức năng quản lý trên địa bàn hoạt động của mình, nhưng vẫn có
sự phối hợp với nhau, định kỳ hàng tháng BHXH các huyện nộp báo cáo cho
BHXH tỉnh, để có sự định hướng thống nhất chung trong hoạt động. Cán bộ
15


BHXH của các huyện vẫn thường xuyên trao đổi thông tin, học hỏi lẫn nhau và
được cử đi tập huấn tại BHXH tỉnh. Để tiêt kiệm chi phí cho các hoạt động này
BHXH tỉnh đã thực hiện đổi mới công nghệ thông tin toàn bộ của BHXH tỉnh
được cập nhật trên trang thông tin của BHXH tỉnh tại địa chỉ
bhxhhoabinh.gov.vn. Bản thân cán bộ của BHXH các huyện có thể nắm bắt tình
hình hoạt động của các huyện khác, và trao đổi thông tin học hỏi kinh nghiệm
lẫn nhau qua trang tin này, hoặc thông qua mạng thông tin nội bộ đang được
BHXH tỉnh triển khai trang bị. Ngoài ra, người lao động, người sử dụng lao
động muốn tìm hiểu về các chê độ chính sách, cách thức tham gia . . . đều có thể
tìm hiểu thêm thông tin tại trang web này hoặc có thể trực tiêp tới các điểm tiêp
dân của BHXH tỉnh, hoặc tại ủy ban nhân dân các cấp đều có cán bộ BHXH sẵn

sàng tiêp nhận mội thắc mắc của các đối tượng.
Tuy vậy, việc nắm bắt và quản lý các đối tượng thuộc khu vực ngoài Nhà
nước này vẫn hêt sức khó khăn. Qua tìm hiểu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khối HTX và hộ sản xuất kinh
doanh, tổ hợp tác đều tìm cách trốn tránh tham gia BHXH, như ký hợp đồng lao
động dưới ba tháng; ngắt quãng thời gian; đăng ký BHXH cho người lao động
không đúng với mức lương người lao động được trả mà chỉ tham gia với mức
lương tối thiểu của Nhà nước. Bên cạnh đó, rất nhiều doanh nghiệp khi ký kêt
hợp đồng lao động với người lao động chỉ mang tính hình thức, đối phó, còn bản
thân người lao động không hề biêt công việc của mình phải làm và các quyền lợi
được hưởng, trong đó có quyền lợi về BHXH. Việc không thực hiện quy định
thang lương, bảng lương Nhà nước; không đăng ký thang bảng lương áp dụng
thực hiện với cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt diễn ra phổ
biên. Không ít người lao động biêt rõ chủ sử dụng lao động cố tình làm sai,
nhưng vì sợ mất việc làm nên không dám đòi hỏi; thậm chí một số lao động bị
doanh nghiệp lừa trong đóng bảo hiểm.
III Đánh giá công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH trên đia bàn tỉnh
Hòa Bình
1.Ưu điểm

-

Trong hơn 20 năm qua BHXH tỉnh Hòa Bình đã đạt được 1 số thành tựu
đáng ghi nhận trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH:
Luôn hoàn thành tốt các nhiệm vụ và chỉ tiêu do cấp trên đề ra.
Công tác tuyên truyền về chính sách, chê độ BHXH, BHYT luôn được quan tâm
triển khai đên các tổ chức, đơn vị sử dụng lao động, người lao động và mọi tầng
16



-

-

lớp nhân dân, góp phần làm chuyển biên căn bản nhận thức của người lao động,
người sử dụng lao động và người dân về trách nhiệm, nghĩa vụ tham gia BHXH,
BHYT
Công tác giải quyêt, chi trả chê độ BHXH, BHYT cho người thụ hưởng luôn
đảm bảo kịp thời, đúng quy định
Công tác giám định, đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BHYT khi KCB
luôn được quan tâm và thực hiện tốt, mặc dù số lượng cán bộ làm công tác giám
định BHYT còn thiêu so với nhu cầu công việc nhưng đã phấn đấu hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ.
Công tác cấp sổ BHXH, thẻ BHYT bước đầu gặp một số khó khăn nhưng với
quyêt tâm cao, công tác này đã từng bước đi vào nề nêp.
BHXH tỉnh thực hiện tốt cải cách thủ tục hành chính trong tiêp nhận hồ sơ và
giải quyêt chê độ theo quy trình “một cửa”, đã giảm phiền hà, tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho đơn vị sử dụng lao động, người tham gia và thụ hưởng chính sách.
Công tác xét duyệt hồ sơ cho người lao động theo đúng quy định, đáp ứng giải
quyêt chê độ theo sổ BHXH thay hồ sơ nhân sự.
2. Hạn chế và những vấn đề yếu kém còn tồn tại chưa giải quyết được
Bên cạnh những kêt quả khả quan đã nêu trên thì trong quá trình thực hiện
công tác quản lý đối tượng hơn 20 năm qua BHXH tỉnh Hòa Bình cũng đã bộc
lộ nhiều khuyêt điểm yêu kém, trong đó có những vấn đề đã trở nên nổi cộm,
cần được khắc phục ngay:

-

-


-

-

Không thực sự sát sao nắm chắc số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH,
cũng như quỹ lương trên địa bàn, chủ yêu mới dựa vào sự kê khai đăng ký của
các đơn vị sử dụng lao động.
Chưa có biện pháp cụ thể để xác định tính chính xác của các bản kê khai danh
sách sử dụng lao động, quỹ lương của các doanh nghiệp, các đơn vị sử dụng lao
động.
Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện các quy định của BHXH tỉnh vẫn
chưa được các BHXH cấp huyện, thành phố thực hiện thường xuyên liên tục,
đôi khi hoạt động này còn tỏ ra thiêu nghiêm túc và chưa thực sự minh bạch nên
hầu như chưa thu được hiệu quả nào đáng kể.
Công tác tuyên truyền, giải đáp thắc mắc về BHXH cho các đối tượng chưa được
thực hiện một cách thường xuyên và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Nội dung
và hình thức tuyên truyền còn nặng nề, mang tính hình thức chưa thu hút được sự
quan tâm của đông đảo người lao động và chủ sử dụng lao động.
17


3. Nguyên nhân của những hạn chế còn tồn tại
-

-

-

-


-

-

Nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về trách nhiệm và
quyền lợi của việc tham gia BHXH còn nhiều hạn chê, đặc biệt là ở khu vực các
huyện, các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đội ngũ cán bộ quản lý của tỉnh nhìn chung còn yêu và thiêu về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, đặc biệt là chưa có nghệ thuật tiêp cận cơ sở. Chính vì vậy việc
nắm bắt, quản lý và giám sát việc tham gia BHXH của các đối tượng còn hạn
chê chưa thực sự đạt hiệu quả.
Hệ thống văn bản pháp luật về BHXH còn chưa thực sự đồng bộ, vẫn tồn tại
nhiều vấn đề khúc mắc cần giải đáp, nhưng các văn bản hướng dẫn của BHXH
Việt Nam còn thiêu sự thống nhất, đôi khi còn chồng chéo khó hiểu, thiêu tính
kịp thời gây những khó khăn nhất định cho hoạt động của BHXH tỉnh.
Chưa có sự thể chê rõ ràng cho mối quan hệ của BHXH với các cơ quan hữu
quan có liên quan trong công tác thực hiện triển khai BHXH, do đó sự phối hợp
hành động giữa các cơ quan này với BHXH tỉnh để đảm bảo quyền lợi hợp pháp
của lao động là rất hạn chê.
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp
địa phương, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các đơn vị sản xuất nhỏ lẻ còn nhiều yêu
kém. Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp vin vào cớ chịu ảnh hưởng
của suy thoái kinh tê nên thua lỗ, làm ăn kém để trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về
BHXH cho người lao động, vì cái lợi trước mắt mà bỏ qua quyền lợi của mình
và người lao động.
Công tác thanh tra, kiểm tra cũng như xử lý vi phạm của ngành Lao động –
Thương binh và Xã hội đối với các đơn vị trong việc thực hiện pháp luật về
BHXH còn hạn chê, mức độ xử lý, xử phạt còn nhẹ không đủ sức răn đe.

18



CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH
I. Giải pháp
1. Giải pháp chính sách
- Tiêp tục chính sách khuyên khích phát triển doanh nghiệp và duy trì hoạt
động của doanh nghiệp nhằm thu hút người lao động vào làm việc trong doanh
nghiệp
Gắn với một nền kinh tê phát triển đòi hỏi phải có một hệ thống các doanh
nghiệp phát triển. Doanh nghiệp là nơi trực tiêp tạo ra các giá trị sản phẩm hàng
hóa, dịch vụ cung cấp cho thị trường trong nước và nước ngoài; đồng thời,
doanh nghiệp là nơi thu hút tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Theo
định hướng phát triển của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), trong giai đoạn hiện nay, là cố gắng bảo toàn lực lượng doanh nghiệp
có tiềm năng cạnh tranh hiện có, khuyên khích thúc đẩy phát triển thêm nhiều
doanh nghiệp mới, hướng tới mục tiêu có 1,5-2 triệu doanh nghiệp hoạt động có
hiệu quả vào năm 2020.
Từ góc độ chính sách vĩ mô, Chính phủ chỉ đạo tiêp tục cải thiện mạnh mẽ
môi trường đầu tư, kinh doanh, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, lành mạnh
và bình đẳng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, theo phương châm: “Doanh
nghiệp Việt Nam - Động lực phát triển kinh tê - xã hội của đất nước”. Việc tích
cực tạo hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho lập nghiệp, khởi nghiệp cũng như
duy trì và phát triển hoạt động của khối doanh nghiệp để xây dựng nền móng
vững chắc cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; cùng với sự phát triển
của doanh nghiệp sẽ tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng trong
nước và xuất khẩu, sẽ tạo ra nhiều chỗ làm việc, tạo việc làm, thu nhập cho
người lao động trong xã hội.
- Xây dựng chính sách khuyên khích duy trì hoạt động trong các giai đoạn

chuyển đổi nhằm giữ người lao động làm việc tại các doanh nghiệp
Trong nền kinh tê thị trường, việc duy trì ổn định, phát triển sản xuất luôn
là mục tiêu cũng như mong muốn của cả chủ sử dụng lao động và người lao
động. Tuy nhiên, những tình trạng bất thường vẫn có thể xảy ra tùy theo từng
loại hình doanh nghiệp, quy mô và công nghệ, mặt hàng sản xuất, kinh doanh
như tạm ngừng sản xuất do chờ đợi hợp đồng xuất, nhập khẩu; do thay đổi kỹ
thuật, công nghệ; do thay đổi sản phẩm hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu; do thu hẹp
19


-

sản xuất… Sự ngừng hoặc hạn chê hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ ảnh hưởng trực tiêp đên việc làm, thu nhập của người lao động, ảnh
hưởng đên An sinh xã hội. Vì vậy, bên cạnh các quyền lợi của chính sách
BHTN, còn các quyền lợi khác nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong thời kỳ chuyển
đổi như tiền chi trả cho người lao động bị thu hẹp thời gian làm việc nhằm hỗ
trợ cho doanh nghiệp giữ người lao động trong thời kỳ tạm ngừng hoặc hạn chê
sản xuất, kinh doanh, tránh việc xa thải người lao động. Những quyền lợi này rất
có ý nghĩa đối với người lao động vì họ vẫn được bù đủ phần tiền lương mất đi
do doanh nghiệp không đủ tiền chi trả do hạn chê việc làm, hạn chê thời gian
làm việc, tránh bị thất nghiệp do yêu tố hạn chê hoặc mất việc làm từ phía doanh
nghiệp, giúp doanh nghiệp giữ lại người lao động vượt qua giai đoạn chuyển đổi
và tiêp tục ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh do đã sử dụng tiêp người lao
động đã làm quen ở doanh nghiệp với kiên thức tay nghề, kinh nghiệm đã được
tích lũy. Bên cạnh đó, còn những chê độ khác hỗ trợ cho doanh nghiệp nhằm giữ
người lao động lại làm việc như trợ cấp của Nhà nước về chi phí tiền lương giúp
cho doanh nghiệp giữ lại làm việc đối với người lớn tuổi nhưng chưa đủ tuổi
nghỉ hưu; trợ cấp tiền cho chủ doanh nghiệp tham gia liên kêt và nhận thêm lao
động; trợ cấp khuyên khích việc làm cho phụ nữ, cho người tàn tật... Những

khoản hỗ trợ này sẽ thuộc về nội dung của chính sách thị trường lao động tích
cực. Vì vậy, cần sớm nghiên cứu xây dựng chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhằm
giữ và ổn định việc làm cho người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn của
doanh nghiệp, phải đề cập một cách cụ thể, chi tiêt trong hoàn cảnh thị trường
lao động ở nước ta và được đặt trong khuôn khổ của Luật Việc làm.
Sớm triển khai thực hiện Bộ Luật Hình sự trong đó có điều khoản quy định về
tội trốn đóng BHXH cho người lao động
Hiện nay, mặc dù đã có nhiều quy định kiểm soát việc tham gia BHXH cho
người lao động của chủ sử dụng lao động nhưng vẫn tồn tại tình trạng trốn đóng
BHXH BHYT, BHTN xảy ra ở hầu hêt các địa phương, ngày càng nhiều và phổ
biên nhất vẫn ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thực trạng này gây ảnh hưởng
không nhỏ tới việc thực thi pháp luật trong lĩnh vực BHXH, tới quyền và lợi ích
cho người lao động, đảm bảo công bằng xã hội. Việc hình sự hóa hành vi trốn
đóng BHXH BHYT, BHTN cho người lao động đáp ứng yêu cầu đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho người lao động, bảo vệ các quan hệ pháp luật, quy định
trong lĩnh vực lao động được nghiêm chỉnh thực thi (tội trốn đóng BHXH
BHYT, BHTN cho người lao động đã được quy định tại Điều 216 Bộ luật Hình
sự).
20


2. Giải pháp về tổ chức thực hiện
-

-

Xây dựng kê hoạch phát triển đối tượng tham gia BHXH trình UBND tỉnh,
thành phố phê duyệt làm cơ sở pháp lý để các ngành, UBND các quận, huyện
cùng phối hợp với BHXH tỉnh, thành phố triển khai thực hiện tại các địa phương
Việc xây dựng kê hoạch cần phải được tính toán cụ thể cho từng năm; xây

dựng kê hoạch từ cơ sở lên, từ xã phường lên đên quận, huyện và tổng hợp
chung cho toàn tỉnh, thành phố. Sau khi dự thảo kê hoạch phát triển đối tượng
tham gia BHXH cho từng năm một cách khả thi đã hoàn chỉnh, BHXH các tỉnh,
thành phố trình UBND tỉnh, thành phố phê duyệt. Trên cơ sở kê hoạch giao,
UBND tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện sẽ tích cực sát sao chỉ đạo
công tác phát triển đối tượng tham gia BHXH, chỉ đạo các ngành chức năng
cùng với Ngành BHXH để tổ chức hoàn thành chỉ tiêu kê hoạch đã được phê
duyệt. Bên cạnh đó, UBND tỉnh, thành phố và UBND các quận, huyện cũng cần
có quy định đưa chỉ tiêu hoàn thành kê hoạch phát triển đối tượng tham gia
BHXH vào xét thi đua khen thưởng. Đối với khối các doanh nghiệp, sẽ không
xét khen thưởng đối với tập thể, thủ trưởng đơn vị còn vi phạm trốn đóng, nợ
đọng BHXH cho người lao động.
Tiêp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, vận động, giáo dục với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thiêt thực nhằm nâng cao nhận thức của
cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ quan, tổ chức, đoàn thể, chủ sử dụng lao động,
người lao động về ý nghĩa và tuân thủ chính sách pháp luật BHXH
Trong thực tê, việc thực hiện đóng góp BHXH cho người lao động phần
nhiều phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của chủ sử dụng lao động. Nêu chủ sử
dụng lao động tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của chính sách, pháp luật
BHXH thì người lao động sẽ được tham gia BHXH đúng quy định. Nhìn nhận
khoản đóng góp BHXH cho người lao động dưới góc độ kinh tê thì đây là một
khoản chi phí sản xuất, làm tăng giá thành sản phẩm và đương nhiên sẽ làm
giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nêu chủ sử dụng lao động coi
khoản chi phí đóng BHXH là khoản chi phí tất yêu, không thể trốn tránh được
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khoản chi phí ấy phải
được xã hội thừa nhận thì ý thức tự giác tuân thủ pháp luật về BHXH của chủ sử
dụng lao động sẽ trở thành một hành vi đương nhiên, cần thiêt. Sự đồng thuận
và tự giác tuân thủ pháp luât BHXH của mọi chủ sử dụng lao động và người lao
động sẽ làm cơ sở cho tính minh bạch và tăng tính cạnh tranh, bình đẳng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi mọi người lao động có

việc làm, có thu nhập đều tham gia BHXH, được xã hội bảo vệ, thì việc tham gia
21


-

BHXH là một “tiêu chuẩn sống” hay “chuẩn mực sống mới” cho mọi người lao
động trong xã hội. Vì vậy ở nước ta, khi xác định những chỉ số phát triển kinh tê
- xã hội, cần đưa tỷ lệ người lao động có việc làm, có thu nhập được tham gia
BHXH trên tổng số nguồn lao động xã hội là chỉ số đánh giá chất lượng sống
của người lao động hay đánh giá mức độ An sinh xã hội của quốc gia.
Thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ BHXH cho người lao động
Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền và nghĩa vụ BHXH của người lao động,
người lao động có quyền yêu cầu chủ sử dụng lao động thực hiện đăng ký tham
gia BHXH, tuân thủ các chê độ chính sách BHXH trong quá trình lao động. Bên
cạnh đó, với vai trò bảo vệ quyền lợi cho người lao động, tổ chức công đoàn của
doanh nghiệp, tổ chức công đoàn cấp trên trực tiêp, công đoàn cấp quận, huyện
cùng phối hợp chia sẻ thông tin với Ngành BHXH để có đủ số liệu về danh sách
người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH mà chưa được tham gia BHXH
trong từng doanh nghiệp. Từ đó, các tổ chức công đoàn địa phương có biện pháp
xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật để bảo vệ đên cùng quyền lợi BHXH
cho người lao động. BHXH các cấp cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ cần thiêt và cung
cấp cho Liên đoàn Lao động đồng cấp tại địa phương tiên hành khởi kiện ra Tòa
án đối với các đơn vị nợ đọng, trốn đóng BHXH nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật về trốn đóng, nợ đọng BHXH
Theo Luật BHXH (sửa đổi) 2014, từ ngày 01/01/2016, Ngành BHXH có
thêm chức năng thanh tra chuyên ngành về đóng BHXH. Căn cứ vào kê hoạch,
chỉ tiêu thanh tra do BHXH Việt Nam giao, BHXH tỉnh, thành phố tổ chức triển

khai một cách tích cực. Công tác thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo tuân thủ trình
tự, thủ tục khi tiên hành thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật, bao
gồm chuẩn bị thanh tra; tổ chức thực hiện thanh tra và kêt thúc thanh tra. Tổ
chức thi hành các kêt luận, kiên nghị, quyêt định xử lý sau thanh tra có hiệu lực
pháp luật và tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong công tác thanh tra. BHXH tỉnh,
thành phố cần chủ động xây dựng chương trình, kê hoạch phối hợp với các
ngành hữu quan như ngành lao động, công đoàn, thuê, kê hoạch đầu tư… và
triển khai thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách BHXH trên địa
bàn. Kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về
BHXH nhằm khắc phục tình trạng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH. Tổ
chức thực hiện tốt các hoạt động theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kêt
luận, kiên nghị, quyêt định xử lý sau thanh tra
22


-

-

Tiêp tục thực hiện cải cách hành chính và nâng cao chất lượng phục vụ của đội
ngũ cán bộ, viên chức Ngành BHXH
BHXH các tỉnh, thành phố xác định rõ nhiệm vụ là cơ quan phục vụ
chuyên nghiệp và hiệu quả góp phần thúc đẩy phát triển kinh tê xã hội, đảm bảo
thực hiện đầy đủ các chê độ, chính sách BHXH cho nhân dân, người lao động.
Vì vậy, BHXH mỗi địa phương cần phải kê hoạch hóa cải cách thủ tục hành
chính, sử dụng dịch vụ công trực tuyên, ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin
trong quản lý, nâng cao chất lượng phục vụ với một lộ trình cụ thể trong từng
giai đoạn cho phù hợp. Việc giảm các thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây
khó khăn trong việc tham gia BHXH của doanh nghiệp cũng là một biện pháp
có ý nghĩa tích cực nhằm mở rộng đối tượng tham gia BHXH của doanh nghiệp

vì thực tê cho thấy, do nhiều khi gặp vướng mắc trong việc giải quyêt hồ sơ, đơn
vị phải gửi đi gửi lại hồ sơ nhiều lần dẫn đên tâm lý ngại tham gia BHXH do sợ
phiền hà. Đối với các doanh nghiệp quy mô nhỏ, số lao động ít, không có cán bộ
chuyên trách làm công tác BHXH, phần lớn là kiêm nhiệm nên việc hướng dẫn
cụ thể, chi tiêt và đơn giản thủ tục hành chính sẽ giúp doanh nghiệp tích cực
tham gia BHXH hơn.
Tăng cường, nâng cao chất lượng các hoạt động phối hợp quản lý người lao
động trong các doanh nghiệp giữa BHXH tỉnh, thành phố và các ngành có liên
quan tại địa phương
Phối hợp trong thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, xử lý doanh nghiệp có hành vi vi phạm quy định về
ngành, nghề kinh doanh có điều kiện.
Phối hợp trong báo cáo về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp sau đăng
ký thành lập. Việc tích cực triển khai thực hiện quy chê phối hợp công tác giữa
Ngành BHXH và ngành Thuê tại địa phương là giải pháp cần thiêt, tiêp để nắm
bắt thông tin, quản lý doanh nghiệp. Phòng Thu của BHXH tỉnh, thành phố và
bộ phận Thu của BHXH các quận, huyện cần tích cực, chủ động, thường xuyên
liên hệ với Phòng Thanh tra Thuê, Chi cục Thuê các quận, huyện tương ứng để
tiêp nhận, trao đổi thông tin. Khảo sát cho thấy, danh sách người lao động tham
gia BHXH và danh sách người lao động kê khai thuê thu nhập cá nhân còn
chênh lệch nhau khá lớn trong từng doanh nghiệp. Vì vậy, việc chia sẻ thông tin,
phân tích sự khác biệt giữa danh sách người lao động tham gia BHXH – danh
sách người lao động kê khai thuê thu nhập cá nhân để tìm ra trường hợp thuộc
diện phải tham gia nhưng chưa tham gia BHXH, giải trình lý do là một trong các
giải pháp cần thiêt để nhắc nhở, vận động doanh nghiệp thực hiện tham gia
23


-


BHXH đầy đủ cho người lao động.
Xây dựng cơ sở dữ liệu dùng chung dựa trên hệ thống công nghệ thông tin trong
cả nước về dân số và người lao động
Việc xây dựng, triển khai cơ sở dữ liệu chung về doanh nghiệp và người lao
động là yêu cầu cần thiêt, khi hoàn thiện sẽ có cơ sở dữ liệu mà tất cả các ngành
liên quan trong bộ máy hành chính nhà nước cùng chia sẻ, sử dụng thông tin. Từ
đó, góp phần cải cách thủ tục hành chính, hạn chê tới mức thấp nhất thông tin
quản lý mà doanh nghiệp, người lao động cần đăng ký tại nhiều cơ quan khác
nhau, giảm bớt sự phiền hà, tốn kém chi phí, thời gian đi lại của doanh nghiệp,
người lao động - Đây là giải pháp lâu dài nhằm xây dựng Chính phủ điện tử.
Đương nhiên việc xây dựng cơ sở dữ liệu về dân số, người lao động thống nhất
trong cả nước đòi hỏi một sự đầu tư lớn về công nghệ thông tin; trong đó, bao
gồm đầu tư về phần cứng (trang thiêt bị máy chủ, đường truyền, máy tính…),
phần mềm nghiệp vụ; phải đảm bảo an ninh, an toàn và bảo mật hệ thống thông
tin cơ sở dữ liệu toàn quốc gia.
II. Kiến nghi

-

-

-

Nhanh chóng hoàn thiện và đồng bộ hóa các quy định về BHXH, cụ thể hóa kịp
thời các chủ trương chính sách mới bằng các văn bản hướng dẫn để giúp BHXH
tỉnh triển khai thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác.
BHXH Việt Nam cần nghiên cứu xây dựng một cơ chê chung để các địa
phương thể chê hóa việc khuyên khích thỏa đáng cho các tập thể, cá nhân thực
hiện tốt công tác BHXH. Đối với cán bộ trong ngành BHXH cần có 1 chê độ
thưởng, phạt rõ ràng và thích hợp hơn để khuyên khích và nâng cao hiệu quả

công tác.
Cơ chê và mức độ xử phạt đối với các đơn vị có vi phạm pháp luật về BHXH
cần được xem xét để thay đổi sao cho hợp lý hơn và có đủ sức răn đe.
BHXH Việt Nam cần có chủ trương, kê hoạch và hành động cụ thể về việc đầu
tư tin học cho công tác BHXH kể cả đào tạo con người, cung cấp máy tính và
thiêt kê phần mềm chuyên ngành.

KẾT LUẬN
24


BHXH là nền tảng cho sự ổn định và phát triển xã hội. Kinh tê cảu mỗi
quốc gia chỉ có thể tăng trưởng một cách bền vững khi người dân được phân
phối công bằng, khi người dân được thụ hưởng các thành quả của kinh tê.
BHXH chính là một “kênh” quan trọng tạo ra sự công bằng này. Vì vậy, các
quốc gia, dù đã phát triển hay đang phát triển, vẫn tiêp tục hoàn thiện, tiêp tục
đổi mới chính sách BHXH.
Trong bối cảnh nền kinh tê Việt Nam đang dần hội nhập sâu vào nền kinh
tê thê giới, sức ép thị trường lao động ngày một tăng lên. Nhất là trong tình hình
hiện nay, khi mà nền kinh tê nước ta bị tác động bởi khủng hoảng kinh tê thê
giới. BHXH chính là sự cần thiêt khách quan và không thể thiêu được đối với
người lao động. Hoạt động BHXH đã ngày càng chứng tỏ được vai trò quan
trọng việc giảm nhẹ Ngân sách Nhà nước tạo nguồn vốn khá lớn để đầu tư tăng
trưởng phát triển kinh tê.
BHXH tỉnh Hòa Bình là một cơ quan cấp tỉnh luôn hoàn thành nhiệm vụ
cấp trên giao, thực hiện tốt chê độ và quyền lợi đối với người lao động và góp
phần đảm bảo công tác an sinh xã hội trên địa bàn.
Nhìn lại chặng đường hơn 20 năm thành lập xây dựng và phát triển, BHXH
tỉnh Hòa Bình rất tự hào với những thành quả đạt được và tin tưởng rằng những
kêt quả trên là hành trang quý báu để BHXH huyện vững bước hoàn thành

nhiệm vụ trên những chặng đường tiêp theo.

25


×