Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

CHUYÊN đề LỊCH sử QUAN hệ QUỐC tế từ năm 1945 đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.07 KB, 28 trang )

BỐ CỤC CHUYÊN ĐỀ
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn chuyên đề:
a,Cơ sở lí luận:
b.Cơ sở thực tiễn:
2.Mục đích của chuyên đề
3.Đối tượng nghiên cứu
4.Phương pháp nghiên cứu
5.Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu
6.Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
PHẦN II: NỘI DUNG
A.Quan hệ Quốc tế từ năm 1945 đến nay
I.Quan hệ Quốc tế từ năm 1945 đến nửa đầu những năm 70 của thế kỉ XX
1.Sự hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai
2.Cuộc chiến tranh lạnh giữa hai cực Xô-Mĩ và hai khối Đông –Tây
3.Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu và cuộc chạy đua vũ trang giữa
hai khối
II.Quan hệ quốc tế từ nửa sau những năm 70 đến nay
1.Quan hệ Xô-Mĩ trong thập niên 80
2.Một trật tự thế giới mới đang hình thành
B.Bài tập vận dụng:
PHẦN III:KẾT LUẬN

1


PHẦN I:ĐẶT VẤN ĐỀ
1.Lí do chọn đề tài:
a.Cơ sở lí luận:
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc (1945), là khởi điểm cho sự tiến triển
của một giai đoạn lịch sử mới. Quan hệ quốc tế đã từ lâu là một yếu tố ảnh hưởng


lớn tới quá trình tiến triển của lịch sử loài người. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
quan hệ quốc tế trở nên khá phức tạp với sự hình thành của trật tự hai cực Ianta,
cuộc chiến tranh lạnh cùng với xu thế hòa hoãn , hòa dịu trong quan hệ mở của thế
giới. Qua những quan hệ phức tạp, rối ren, phong phú vô cùng ấy ta nắm được sâu
sắc và cụ thể nội dung căn bản của thời đại. Bên cạnh đó, những năm tháng diễn
biến phức tạp của tình hình thế giới trùng với thời kì kháng chiến vô cùng oanh liệt
của dân tộc.
Là một giáo viên dạy, tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi bộ môn lịch sử ở cấp
THCS, tôi luôn trăn trở làm sao để quá khứ qua đi còn ghi dấu lại trong thế hệ trẻ
của đất nước. Thông qua việc tìm hiểu về “QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945
ĐẾN NAY” muốn các em hiểu hơn về diễn biến phức tạp của tình hình thế giới kể
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời hiểu được những tác động qua lại giữa
lịch sử thế giới với lịch sử dân tộc , rèn luyện tư duy nắm bắt được sự thay đổi đang
diễn ra từng ngày, từng giờ của tình hình thế giới và hiểu hơn những thay đổi kịp
thời trong chính sách của Đảng và nhà nước, bồi dưỡng cho các em những kiến
thức nâng cao hơn, trang bị cho các em kiến thức vững vàng trong kì thi HSG cấp
THCS, giáo dục một cách sâu sắc tình yêu nước của các em.
b.Cơ sở thực tiễn:
* Thuận lợi
Trường THCS Yên Lạc có truyền thống dạy tốt- học tốt , luôn nhận
được sự quan tâm hàng đầu của các thế hệ lãnh đạo các ngành , của địa
phương . Đó là nguồn khích lệ , động viên to lớn đối với các thế hệ giáo viên
của trường
2


Giáo viên bộ môn có trình độ chuyên môn vững vàng, có ý thức cao trong
việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
Phụ huynh học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình
Đa số học sinh của trường có học lực khá, giỏi

Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên quan tâm , giúp đỡ, tạo điều
kiện cho giáo viên bộ môn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình
* Khó khăn
Phụ huynh học sinh coi môn lịch sử là môn phụ vì vậy chưa có sự quan tâm
đúng mức cho môn học này
Môn Lịch sử chưa có phòng học bộ môn phù hợp với chức năng môn học
2.Mục đích của đề tài:
-Qua nghiên cứu để tìm ra phương pháp dạy học tối ưu theo hướng đổi mới góp
phần làm cho việc giảng dạy môn lịch sử có hiệu quả hơn.
-Giúp học sinh nắm được những nét khái quát của quan hệ quốc tế nửa sau thế
kỉ XX với những diễn biến phức tạp.Đó là cuộc đấu tranh gay gắt vì những mục
tiêu của loài người:Hòa bình,độc lập dân tộc ,dân chủ và hợp tác phát triển.
3.Đối tượng nghiên cứu:
-Học sinh đội tuyển sử 9
4.Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp tổng hợp: Sưu tầm,trao đổi,phân tích,đánh giá,áp dụng
công nghệ thông tin…
5.Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu: Trường
6.Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu:
*Phạm vi: Trường Trung học cơ sở Yên Lạc
*Kế hoạch nghiên cứu: năm(2013-2014)

3


PHẦN II: NỘI DUNG
A.QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY
I.QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NĂM 1945 ĐẾN NỬA ĐẦU NHỮNG NĂM 70
CỦA THẾ KỈ XX:
1.SỰ HÌNH THÀNH TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ

GIỚI THỨ HAI:
a.Hội nghị Ianta và việc hình thành “Trật tự hai cực Ianta”:
Đầu năm 1945,cục diện chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn
chót.Nhiều mâu thuẫn,nhiều tranh chấp trong nội bộ phe Đồng minh chống phát xít
nổi lên gay gắt trong đó nổi bật lên ba vấn đề bức xúc phải giải quyết: Việc nhanh
chóng kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Châu Á- Thái Bình Dương,việc tổ chức
lại trật thế giới sau chiến tranh,việc phân chia khu vực đóng quân theo chế độ quân
quản ở các nước phát xít chiến bại và phân chia phạm vi thế lực giữa các nước
tham gia chiến tranh chống phát xít .
Trong bối cảnh đó, Hội nghị tam cường Liên Xô, Mĩ, Anh đã họp tại Ianta
(Liên Xô) từ ngày 4 đến 11/2/1945. Tham dự hội nghị có chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng Liên Xô (Xta-lin), Tổng thống Mĩ (Rudơven) và Thủ tướng Anh (Sơcsin).
Hội nghị diễn ra gay go, quyết liệt vì thực chất nội dung hội nghị là cuộc tranh
giành và phân chia thành quả thắng lợi chiến tranh giữa các lực lượng tham chiến
có lien quan mật thiết tới hòa bình, an ninh, trật tự thế giới sau này mà trước hết là
lợi ích riêng của mỗi một nước tham chiến. Cuối cùng, hội nghị đã đi đến những
quyết định:
+ Về việc kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Châu Á, ba cường quốc đã
thống nhất mục đích là tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân
phiệt Nhật, nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Châu Âu và Liên Xô đã tham gia
chiến tranh chống Nhật ở Châu Á sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Âu.
4


+ Ba cường quốc thống nhất thành lập tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nền
tảng và nguyên tắc cơ bản là sự nhất trí giữa năm cường quốc Liên Xô, Mĩ, Anh,
Pháp, Trung Quốc để giữ gìn hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh.
+ Hội nghị đã đi đến thỏa thuận việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp
quân đội phát xít và phân chia phạm vi ảnh hưởng ở Châu Âu và Châu Á.
Ở Châu Âu,quân đội Liên Xô sẽ chiếm đóng vùng Đông Đức,Đông Béclin

và Đông Âu,còn quân đội Mĩ,Anh,Pháp chiếm đóng vùng Tây Đức,Tây
Beclin,Italia và một số nước Tây Âu khác.Vùng Đông Âu thuộc phạm vi ảnh
hưởng của Liên Xô,vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ trong đó
Áo,Phần Lan trở thành hai nước trung lập.
Ở Châu Á,hội nghị chấp nhận những điều kiện để đáp ứng việc Liên Xô
tham gia chiến tranh chống Nhật,bao gồm: Bảo vệ nguyên trạng và công nhận
quyền độc lập của Mông Cổ;trả lại Liên Xô những quyền lợi của đế quốc Nga ở
Viễn Đông trước chiến tranh Nga-Nhật 1904, cụ thể: trả lại Liên Xô miền nam đảo
Xa-kha-lin và tất cả những đảo nhỏ thuộc đảo này, quốc tế hóa thương cảng Đại
Liên (Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận(Trung Quốc)
làm căn cứ hải quan, trả lại Liên Xô đường sắt Xibia-Trường Xuân, cùng sử dụng
đường sắt Hoa Đông và đường sắt Xuân Mãn - Đại Liên; Liên Xô chiếm bốn đảo
Curin, ngoài ra ba cường quốc cũng đã thỏa thuận để quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật
Bản, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc Triều Tiên, quân đội Mĩ chiếm đóng
Nam Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới. Nhật Bản thuộc phạm vi ảnh hưởng
của Mĩ, Trung Quốc tiến tới thành lập chính phủ liên hiệp bao gồm Đảng cộng sản
Trung Quốc và Mĩ với Liên Xô cùng có quyền lợi ở Trung Quốc. Các vùng còn lại
của Châu Á(Đông Nam Á,Nam Á,Tây Á…) vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền
thống của các nước phương Tây.
Những quyết định của Hội nghị cấp cao Ianta tháng 2/1945 đã trở thành
những khuôn khổ của trật tự thế giới mới từng bước được thiết lập trong những
năm 1945-1947 sau khi chiến tranh kết thúc thường được gọi là”Trật tự hai cực
5


Ianta”(hai cực chỉ Mĩ và Liên Xô phân chia nhau phạm vi thế lực trên cơ sở thỏa
thuận của hội nghị Ianta).
b.Hội nghị cấp cao Pôtxđam (từ 17/7/1945 đến 2/8/1945)
Sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu Á, nhiều mâu thuẫn mới và nhiều vấn đề
mới lại nổi lên trong đó quan trọng nhất là vấn đề Đức và vấn đề kết thúc chiến

tranh ở Viễn Đông. Để giải quyết vấn đề này từ ngày 17/7 đến 2/8/1945 những
người cầm đầu 3 cường quốc là Liên Xô,Mĩ ,Anh đã họp hôi nghị ở Pôtxđam(Đức).
Trong hội nghị cấp cao Pôtxđam đã diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt,phức tạp
giữa Liên Xô, Mĩ, Anh trên tất cả các vấn đề quốc tế được nêu lên, cuối cùng hội
nghị đã thỏa thuận thông qua những nghị quyết quan trọng có lợi cho hòa bình và
cách mạng thế giới.
Về vấn đề Đức,hội nghị Pôtxđam đã có những quyết định:
- Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít Đức,không để
cho Đức đe dọa hòa bình,an ninh của các dân tộc.
- Quy định nền công nghiệp của Đức phải được chuyển hoàn toàn sang công
nghiệp hòa bình
- Coi nước Đức là một quốc gia thống nhất toàn vẹn về kinh tế cũng như về
chính trị
- Khuyến khích sự phát triển của các công đoàn dân chủ tự do,quyền tự do
báo chí ngôn luận…
- Quy định Đức phải bồi thường ở mức tối đa về những thiệt hại mà Đức gây
ra cho các nước Đồng minh.
- Quy định việc tổ chức xử tội các tội phạm chiến tranh
- Xác nhận những quyết định về việc thành lập Hội đồng kiểm soát,quyết
định về các khu vực đóng quân
Ngày 26/7/1945 hội nghị Pôtxđam đi đến thỏa thuận những nguyên tắc trong
việc giải quyết vấn đề Nhật Bản sau chiến tranh và ra bản “Tuyên cáo Pôtxđam kêu
gọi Nhật Bản đầu hàng”. Ngoài ra, hội nghị Pôtxđam còn giải quyết được nhiều
6


việc quan trọng khác như thành lập hội đồng ngoại trưởng các cường quốc (Liên
Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung Quốc) để giải quyết vấn đề dự thảo hòa ước với các
nước phát xít chiến bại và tiếp tục giải quyết vấn đề Ba Lan theo nghị quyết của hội
nghị Ianta.

Hội nghị Pôtxđam đã cụ thể hóa vấn đề Đức, Nhật Bản và việc kí hòa ước
với các nước phát xít chiến bại…nhằm bổ sung và hoàn chỉnh các nghị quyết của
hội nghị Ianta để xây dựng một trật tự mới sau chiến tranh thế giới thứ hai.Việc
“hòa bình hóa” và “dân chủ hóa” nước Đức và nước Nhật là một thắng lợi to lớn
của hòa bình và cách mạng thế giới.
c.Hội nghị Xan Phranxixcô và việc thành lập Liên hợp quốc:
Từ ngày 25/4 đến 26/6/1945 hội nghị đại biểu của 50 nước đã họp tại Xan
Phranxixcô (Mĩ) để thông qua Hiến chương Liên hợp quốc và thành lập tổ chức
Liên hợp quốc
Sau hai tháng làm việc,qua các cuộc đấu tranh gay gắt giữa nhiều ý kiến và
khuynh hướng khác nhau, hiến chương Liên hợp quốc được đại biểu của 50 nước kí
kết ngày 26/6/1945. Hiến chương bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 24/10/1945 và
ngày này cũng được coi là ngày Liên hợp quốc chính thức thành lập.
Hiến chương Liên hợp quốc quy định mục đích cao nhất của Liên hợp quốc
là nhằm duy trì hòa bình, an ninh thế giới, thúc đẩy sự phát triển quan hệ hữu nghị
giữa các nước trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các dân tộc và nguyên tắc
dân tộc tự quyết
Để thực hiện những mục đích trên, Hiến chương quy định Liên hợp quốc sẽ
hành động dựa theo những nguyên tắc: chủ quyền bình đẳng giữa các quốc gia và
quyền dân tộc tự quyết, tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị của tất cả
các nước,giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình,chung sống
hòa bình và đảm bảo sự nhất trí giữa 5 cường quốc(Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp, Trung
Quốc), không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào
Các cơ quan chính của Liên hợp quốc gồm:
7


Đại hội đồng (tức hội nghị của tất cả các nước hội viên) họp mỗi năm một
lần để thảo luận những vấn đề có liên quan thuộc phạm vi Hiến chương đã quy
định. Trong hội nghị,quyết định của các vấn đề quan trọng nhất phải được thông

qua với 2/3 tổng số phiếu, với vấn đề ít quan trọng hơn thì thông qua với đa số
thuận.
Hội đông bảo an: Cơ quan chính trị quan trọng nhất và hoạt động thường
xuyên của Liên hợp quốc chịu trách nhiệm chính về việc hòa bình và an ninh quốc
tế.Mọi nghị quyết của Hội đồng bảo an phải được thông qua với sự nhất trí của 5
cường quốc. Những quyết nghị của hội đồng bảo an được thông qua hoàn toàn phù
hợp với hiến chương thì bắt buộc các nước hội viên phải thi hành. Hội đồng bảo an
không phục tùng Đại hội đồng.
Ban thư kí là cơ quan hành chính của Liên hợp quốc, đứng đầu có Tổng thư
kí (do Đại hội đồng bầu ra theo sự giới thiệu của Hội đồng bảo an)
Ngoài ra, Liên hợp quốc còn có nhiều tổ chức và cơ quan chuyên môn khác
như Hội đồng kinh tế xã hội,Hội đồng quản thác, Tòa án quốc tế, Cao ủy người tị
nạn (UNHCR), quỹ nhi đông Liên hợp quốc(UNICEF)…
Đến nay, Liên hợp quốc đã có 189 thành viên(2005).Xét theo tôn chỉ,mục
đích và nguyên tắc hành động, Liên hợp quốc là một tổ chức quốc tế có vị trí quan
trọng trong sinh hoạt quốc tế hiện nay. Hơn 60 năm tồn tại và phát triển của mình,
Liên hợp quốc đã có những đóng góp quan trọng trong việc gìn giữ hòa bình và an
ninh thế giới,có những đóng góp đáng kể vào tiến trình phi thực dân hóa cũng như
có nhiều nỗ lực trong việc giải trừ quân bị và hạn chế sản xuất vũ khí hạt nhân.
Ngoài ra, Liên hợp quốc cũng có những đóng góp đáng kể vào việc thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội giữa các nước hội viên và trợ
giúp cho các nước đang phất triển, thực hiện cứu trợ nhân đạo cho các nước hội
viên khi gặp khó khăn.
Hiện nay, khi cuộc “chiến tranh lạnh” kết thúc, tình hình thế giới đã chuyển
biến khác trước, nhiều vấn đề đang được đặt ra đối với Liên hợp quốc: Vấn đề cải
8


tổ và dân chủ hóa các cơ cấu của Liên hợp quốc sao cho phù hợp với tình hình mới,
vấn đề giữ gìn hòa bình và an ninh, vấn đề tài chính, bệnh tật, nghèo đói…

d.Hội nghị ngoại trưởng 5 cường quốc tại Mátxcơva:
Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt,nhân cơ hội lực lượng Anh,
Pháp bị suy yếu, không đủ khả năng để duy trì những vị trí cũ, Mĩ đã lợi dụng ưu
thế về kinh tế, quân sự của mình để bành trướng thế lực ở Viễn Đông không đếm
xỉa gì đến những điều đã cam kết trong các hội nghị quốc tế trước đây.
Do âm mưu của Mĩ, tình hình Viễn Đông trở nên căng thẳng,phức tạp nhưng
Mĩ đã gặp phải sức đấu tranh kiên quyết của Liên Xô và sự phản kháng mãnh liệt
của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản nên buộc phải đồng ý đưa vấn đề
Viễn Đông ra thảo luận tại hội nghị ngoại trưởng các nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp,
Trung Quốc ở Mátxcơva từ ngày 16 đến 26/12/1945.
Về vấn đề Nhật Bản, Mĩ buộc phải đồng ý đề nghị của Liên Xô để tất cả các
nước đồng minh được tham gia việc định đoạt chính sách đối với Nhật và kiểm tra
việc thực hiện chính sách đó. Để thực hiện nhiệm vụ này, hội nghị đã thành lập hai
cơ quan đặc biệt: Hội đồng đồng minh ở Tôkiô và ủy ban Viễn Đông.
Về vấn đề Triều Tiên, Hội nghị đã thông qua những quy định:
- Xây dựng một nước Triều Tiên độc lập, thành lập chính phủ dân chủ lâm
thời để đảm nhiệm việc phát triển nông nghiệp, công nghiệp, văn hóa…
- Ủy ban Liên hợp quốc ở Triều Tiên được thành lập
- Thời gian ủy trị của 4 cường quốc không được kéo dài quá 5 năm. Việc ủy
trì chỉ là một biện pháp để giúp đỡ và khuyến khích sự tiến bộ về chính trị, kinh tế,
xã hội…
Về vấn đề Trung Quốc, hội nghị đề ra những quy định:
- Trung Quốc phải là một nước thống nhất và dân chủ
- Chấm dứt cuộc nội chiến ở Trung Quốc
- Chính phủ Quốc dân đản cần phải tổ chức lại và mở rộng cho các đảng phái
dân chủ tham gia
9


- Các cường quốc không tham gia vào công việc nội bộ của Trung Quốc và

trong một thời gian ngắn, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Trung Quốc
Nhờ sự đấu tranh kiên quyết của Liên Xô và nhân dân các nước Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản, hội nghị đã thu được những kết quả có lợi cho cách mạng,
những quy định của hội nghị về vấn đề Viễn Đông đã góp phần bảo vệ nền hòa
bình ở khu vực này đồng thời tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho phong trào cách
mạng của nhân dân Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản phát triển mạnh mẽ.
2.CUỘC CHIẾN TRANH LẠNH GIỮA HAI CỰC XÔ-MĨ VÀ HAI KHỐI ĐÔNG –TÂY:

a.Chủ nghĩa “Tơruman” và âm mưu của Mĩ:
Việc tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít và thực hiện những cải cách dân chủ
ở các nước phát xít chiến bại đã thúc đẩy phong trào phát triển mạnh mẽ. Đầu năm
1947, ở các nước Anbani, Bungari, Rumani, Đông Đức, chính quyền dần dần thật
sự chuyển vào tay nhân dân lao động . Ở châu Á, quân giải phóng Trung Quốc
giáng cho quân đội Tưởng Giới Thạch những đòn chí mạng. Để đối phó lại, tháng
3-1947, Tổng thống Mĩ-Tơruman đã đọc diễn văn trước Quốc hộỉ Mĩ, chính thức
đưa ra "chủ nghĩa Tơruman". Theo Tơruman thì các nựớc Đông Âu "vừa mới bị
cộng sản thôn tính" và những đe dọa tương tự đang diễn trên nhiểu nước khác ở
châu Âu, ở Italia, Pháp và cả ở nước Đức nữa. Vì vậy, Mĩ phải đứng ra "đảm nhiệm
sứ mạng lãnh đạo thế giới tự do", phải "giúp đỡ" cho các dân tộc trên thế giới
chống lại "sự đe doạ" của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự "bành trướng" của nước
Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mĩ Tơruman đã
phát động cuộc "chiến tranh lạnh" chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của "chủ nghĩa Tơruman", mối quan hộ đồng minh giữa Liên Xô với
Mĩ và các nước phương Tây trong thời kì chiến tranh chống phát xít đã tan vỡ và
thay vào đó là cuộc "chiến tranh lạnh''. Để phát động "chiến tranh lạnh", Mĩ tìm
cách lôi kéo các nước Đồng minh vào những tổ chức kinh tế, chính trị, quân sự để
qua đó khống chế, thao túng các nước này...
10



Ngày 5-6-1947, ngoại trưởng Mĩ- Macsan đọc diễn văn đưa ra "Phương án phục
hưng châu Âu", trong đó nhấn mạnh chỉ cần một bộ phận hoặc toàn bộ các nước
châu Âu cùng nhau xây dựng một kế hoạch "phục hưng" thì Mĩ sẽ vui lòng mở
rộng "viện trợ" đến châu Âu. Ngày 12-7-1947, các nước Anh, Pháp triệu tập ở Pari
hội nghị 16 nước tư bản châu Âu chấp nhận "viện trợ" của Mĩ, thành lập "Uỷ ban
hợp tác kinh tế châu Âu" và yêu cầu Mĩ "viện trợ" 29 tỉ đô la trong 4 năm (sau
giảm xuống 22 tỉ). Tháng 4-1948, Quốc hội Mĩ thông qua "đạo luật, viện trợ nước
ngoài" với những quy định như: các nước nhận viện trợ buộc phải kí với Mĩ những
hiệp định tay đôi có lợi cho Mĩ, phải thi hành "hết sức nhanh chóng" các chính sách
kinh tế, tài chính mà Mĩ yêu cầu; phải bảo đảm quyền lợi cho tư nhân Mĩ đầu tư
kinh doanh; phải cung cấp nguyên liệu chiến lược cho Mĩ; phải... Ngoài ra, đạo luật
còn dùng những lời lễ kín đáo buộc các nước nhận "viện trợ" phải thủ tiêu việc
buôn bán vớỉ các nước xã hội chủ nghĩa và gạt các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính
phủ của các nước nhận "viện trợ" đã phục hồi rồi sau đó phát triển nhanh chóng,
nhưng bị lệ thuộc vào Mĩ về kinh tế, chính trị quân sự.
Để đối phó với "chủ nghĩa Tơruman" và "kế hoạch Macsan" tháng 9 - 1947,
theo sáng kiến của Đảng Cộng sản Liên Xô, tại Vacxava đã tiến hành hội nghị đại
biểu các Đảng Cộng sản Liên Xô, Bungari, Hunggari, Ba Lan... Hội nghị đã thông
qua bản tuyên bố, trong đó phân tích tình hình thế giới lúc này đã chia thành hai
phe: phe "đế quốc" và "tư bản" (do Mĩ đứng đầu) và phe chống đế quốc, chống tư
bản (do Liên Xô đứng đầu). Hội nghị quyết định thành lập cơ quan thông tin của
một số Đảng Cộng sản và công nhân gọi là Cục thông tin quốc tế (KOMINFORM)
với nhiệm vụ tổ chức việc thông tin, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp hành động
đấu tranh cách mạng giữa các Đảng một cách tự nguyện.
Sau khi các nước Đông Âu đã hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân và
tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, ngày 8-1-1949, Liên Xô và các nước Anbani,
Ba Lan, Bungari, Hunggari, Rumani, Tiệp Khắc đã quyết định thành lập tổ chức
kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa: Hội đồng tương trợ kinh tế ( SEV). Như thế,
11



trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế của các nước
xã hội chủ nghĩa (khối SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
b. "Chính sách ngăn chặn" và việc chia cắt nước Đức và Triều Tiên của Mĩ.
Trong những năm 1947 - 1949, Mĩ thực hiện "chính sách ngăn chặn" nhằm
"ngăn chặn" sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản rồi tiến tới tiêu diệt nó. Sau
khi đã thực hiện "chủ nghĩa Tơruman" và "kế hoạch Macsan", Mĩ ra sức tiến hành
âm mưu chia cắt nước Đức phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Tây Đức, biến Tây Đức
thành một tiền đồn "ngăn chặn" nguy cơ thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đang "đe
doạ" ở nhiều nước châu Âu. Mĩ đã cố tình phá hoại những khoá họp của hội nghị
ngoại trưởng ở Mátxcơva (tháng 4-1947) và ở Luân Đôn (tháng 12-1947) bằng
cách bác bỏ mọi đề nghị hợp lí của Liên Xô trong việc giải quyết vấn đế kí hoà ước
với Đức, vấn đề thành lập một chính phủ chung cho toàn nước Đức theo như nghị
quyết Pôtxđam và những biện pháp nhằm tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa quân phiệt
Đức...
Để bảo vệ nến kinh tế Đông Đức khỏi bị tan rã, Ban quân chính Liên Xô ở
Đức đã bắt buộc phải thi hành những hạn chế về vận tải trong việc thông thương
giữa các khu vực miền Tây và miền Đông cũng như giữa Đông và Tây Béclin.
Đồng thời, ở Đông Đức cũng tiến hành cải cách tiền tệ dân chủ để góp phần ổn
định và phát triển nền kinh tế ở vùng này.
Tiếp theo ngày 8-4-1949, trong hội nghị ở Oasinhtơn, các chính phủ Mĩ,
Anh, Pháp đã thông qua văn bản "quy chế đóng quân" và nhiều văn bản quan trọng
khác về vấn đề Đức.Như thế, các hiệp định của hội nghị Oasinhtơn đã đưa tới việc
thành lập một quốc gia riêng rẽ ở Tây Đức và một quy chế chiếm đóng mới ở Tây
Đức trái ngược với tinh thần hội nghị Pôtxđam. Tháng 5-1949, Hội đồng nghị viện
họp ở Bon đã thông qua dự thảo hiến pháp của nước Cộng hoà liên bang Đức (Tây
Đức).
12



Ngày 14-8-1949, ở các khu vực miền Tây đã tiến hành bầu cử quốc hội riêng
rẽ. Ngày 12-9, Hớt (Theodore Heuss) được cử làm Tổng thống và ngày 15-9,
Ađênao (Konrad Adenauer), thủ lĩnh Đảng Liên minh công giáo dân chủ, được cử
làm Thủ tướng chính phủ nước Cộng hoà liên bang Đức.
Như thế, ở Tây Đức đã xuất hiện một quốc gia riêng rẽ, cấu kết chặt chẽ với
các nước phương Tây trong mọi chính sách phản cách mạng, để chống lại nước
Cộng hoà dân chủ Đức, chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Việc
thành lập quốc gia riêng rẽ Tây Đức đã dẫn đến việc chia cắt lâu dài nước Đức và
gây tác hại không nhỏ đến sự phát triển kinh tế, chính trị của toàn nước Đức, làm
ảnh hưởng nhiều đến sự nghiệp hoà bình của nước Đức cũng như của châu Âu và
toàn thế giới.
Ở châu Á, Mĩ cũng gấp rút thực hiện việc chia cắt Triều Tiên, coi đó là một
bộ phận quan trọng trong chính sách "ngăn chặn" nguy cơ thắng. Từ tháng 8 đến
tháng 12-1948. Mĩ đã kí kết với chính phủ Lý Thừa Vãn những hiệp định bất bình
đẳng, trong đó có hiệp định "viện trợ" cho phép các độc quyền Mĩ kiểm soát kinh
tế, tài chính ở Nam Triều Tiên.
c. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới hình thành và sự thất bại của "chính
sách ngăn chặn" của Mĩ.
Mục tiêu và âm mưu chủ yếu của kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ là tìm
cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa. Với chính sách "ngăn chặn'',
Mĩ định bao vây quân sự, kinh tế Liên Xô và các nước Đông Âu, hi vọng rằng Liên
Xô sẽ bị suy yếu, kiệt quệ rồi đi đến chỗ tự tiêu diệt, và ở các nước Đông Âu, giai
cấp tư sản sẽ có điều kiện lên nắm chính quyền, thiết lập nền thống trị tư bản chủ
nghĩa. Ở Đức cũng như ở Triều Tiên, Mĩ không chỉ muốn ''ngăn chặn" sự "bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản" mà còn muốn cấu kết, nâng đỡ các thế lực phản
động ở hai nước này để tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng và xâm lựợc, thống
trị toàn nước Đức và toàn nước Triều Tiên. Trung Quốc là nơi mà Mĩ đã bỏ công
13



sức nhiều nhất trong thời kì từ 1947-1949, hi vọng rằng sẽ tiêu diệt lực lượng cách
mạng và đặt được nển thống trị trên lục địa 700 triệu người.
Nhưng âm mưu và hi vọng của Mĩ đã hoàn toàn bị phá sản, hệ thống xã hội
chủ nghĩa thế giới không những không bị ngăn chặn mà còn được hình thành từ
châu Âu sang châu Á và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Liên Xô không bị suy yếu kiệt quệ mà trái lại còn hùng mạnh và vững chắc
hơn trước.
Ở Đông Âu, trong những năm 1947-1949, nhân dân các nước Anbani, Ba
Lan, Bungari, Hunggari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt, hoàn thành công
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bắt đầu bước vào thời kì quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
Ở Triều Tiên, để đối phó với âm mưu thành lập chính phủ riêng rẽ Nam Triều
Tiên của đế quốc Mĩ, tháng 6-1948, các đảng phái và các tổ chức dân chủ của miền
Bắc Triều Tiên đã họp hội nghị liên tịch, quyết định tiến hành bầu cử quốc hội tối
cao ở miển Bắc Triều Tiên để thành lập một chính phủ dân chủ thực sự. Ngày 21-91948, Quốc hội tối cao họp, tuyên bố thành lập nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Triều Tiên. Đó là một thất bại nặng nề trong âm mưu xâm lược, thống trị Triều Tiên
của Mĩ. Từ cuối năm 1947, cuộc kháng chiến chông Pháp của nhân dân Việt Nam
đã bước sang giai đoạn mới và ngày càng thu được những thắng lợi to lớn. Tháng
10-1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời, đánh dấu hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới đã được hình thành và làm cho lực lượng so sánh trên thế giới thay
đổi có lợi cho chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của cách mạng Trung Quốc, cuộc đấu
tranh giai cấp gay go, quyết liệt trên phạm vi quốc tế cho sự hình thành hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới đã thắng lợi và "chính sách ngăn chặn", chống lại sự hình
thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới của Mĩ đã bị thất bại.
3. SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU VÀ CUỘC CHẠY ĐỤA
VŨ TRANG GIỮA HAI KHỐI.
14



Để tiến thêm một bước nữa trong việc thực hiện âm mưu thống trị thế giới và
chống lại các nước xã hội chủ nghĩa, chống lại phong trào giải phóng dân tộc, Mĩ
tiến hành thành lập các khối quân sự xâm lược nhằm tập hợp các lực lượng phản
cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mĩ để bao vây Liên Xô, các nước dân chủ nhân
dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc.
Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là "Hiệp
định phòng thủ Tây bán cầu" kí giữa Mĩ và các nước chư hầu Mĩ ở hội nghị Riô đơ
Gianêrô (Rio de Janeiro) tháng 9-1947. Tiếp theo hiệp định trên, Anh, Pháp và các
nước phương Tây bắt đầu thương lượng xây dựng liên minh quân sự - chính trị
giữa các nước phương Tây. Ngày 17-3-1948, hiệp ước "Liên hiệp Tây Âu" đã được
kí kết giữa 5 nước (Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Lucxembua) ở Brucxen. Mĩ hoan
nghênh việc thành lập liên minh quân sự phương Tây, nhưng không thoả mãn vì
liên minh này không có tác dụng lớn về mặt quân sự và Anh lại chiếm địa vị lãnh
đạo trong khối này. Hơn nữa, Mĩ không thể tham gia vào khối liên hiệp Tây Âu
được cho nên Mĩ cố gắng nắm lấy khối này và dựa vào đó làm nòng cốt cho việc
xây dựng "Khối Bắc Đại Tây Dương" rộng lớn hơn, trong đó Mĩ sẽ giữ vai trò lãnh
đạo. Để xúc tiến việc thành lập, Mĩ đã tiến hành những cuộc vận động trong Quốc
hội Mĩ và thương lượng giữa Mĩ với khối liên hiệp Tây Ậu. Kết quả ngày 11-61948, Quốc hội Mĩ đã thông qua quyết định Vanđenbơ cho phép chính phủ Mĩ, lần
đầu tiên trong lịch sử, có quyền được kí kết những liên minh quân sự với các nước
ngoài châu Mĩ trong thời bình. Cuối cùng, hiệp ước Bắc Đại Tây Dương đã được
12 nước kí kết ở . Tháng 9 - 1949, khoá họp đầu tiên của Hiệp ước Bắc Đại Tây
Dương đã họp ở Oasinhtơn, lập ra ban phòng thủ và uỷ ban quân sự, Như vậy, Tổ
chức hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, gọi là NATO (North Atlantic Treaty
Organisation) đã ra đời
Sau "chủ nghĩa Tơruman" và "kế hoạch Macsan", việc thành lập Tổ chức
hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) là một bước tiến mới và cũng là một bộ
phận quan trọng trong việc thực hiện những kế hoạch thống trị thế giới của Mĩ.
15



Thực chất, khối NATO là một công cụ của chính sách bành trướng xâm lược của
Mĩ. Vì thế, ngay sau khi thành lập, khối NATO đã chứa chất những mâu thuẫn nội
bộ gay gất: Anh và Mĩ tranh giành nhau quyền lãnh đạo và ảnh hưởng trong khối
NATO; sau khi vươn lên, Pháp và Tây Đức cũng đấu tranh gay gắt đòi Mĩ chia sẻ
quyền lãnh đạo.
Năm 1954, sau khi chia cắt nước Đức và thành lập nước Cộng hoà liên bang
Đức, Mĩ và các nước phương Tây đã kí hiệp ước Pari nhằm vũ trang lại Tây Đức và
đưa Tây Đức vào khối quân sự NATO, biến Tây Đức thành "một lực lượng xung
kích" chống lại Cộng hoà dân chủ Đức, Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ
nghĩa.
Trước tình hình đó, các nước Anbani, Bungari, Hunggari, Cộng hoà dân chủ
Đức, Ba Lan, Rumani, Liên Xô và Tiệp Khắc đã tổ chức hội nghị ở Vácxava từ
ngày 11 đến 14-5-1955 nhằm giữ gìn an ninh của các hội viên, duy trì hoà bình ở
châu Âu và củng cố hơn nữa tình hữu nghị và sự hợp tác vững bền giữa các nước
hội viên.
Sau khi thành lập, cả hai khối quân sự đều ra sức chạy đua vũ trang, trang bị
những vũ khí hết sức hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình.
Mĩ đã tiếp tục thành lập các khối quân sự, liên minh quân sự ở các khu vực
khác nhằm hỗ trợ cho khối NATO và bao vây Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa:
hiệp định an ninh Mĩ - Nhật (9-1951), khối ANZUS (Mĩ - Oxtrâylia - Niu Dilan, 91951), khối SEATO ở Đông Nam Á (9-1954), khối CENTO ở Trung Cận Đông
(1959). Mĩ đã thiết lập trên 2000 căn cứ quân sự, đưa hàng chục vạn quân Mĩ đóng
rải rác khắp mọi nơi (năm 1968-1969, Mĩ có 1,5 triệu quân đóng ở nước ngoài
trong tổng số 3.477.000 quân thường trực của Mĩ, trong đố có 60 vạn quân ở Đông
Dương...
Phía Liên Xô cũng đưa hàng chục vạn quân ra đóng ở các nước Đông Âu
(tập trung ở Đông Đức), ở Mông Cổ và biên giới Xô - Trung.
16


Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai nước Xô - Mĩ đã lên tới đỉnh cao vào những

năm 70. Theo ước tính của các nhà quân sự thì chỉ cần phóng ra 1/2 số kho vũ khí
hạt. nhân của Mĩ hoặc của Liên Xô, cũng đủ để huỷ diệt toàn bộ sự sống con người
và nền văn minh của toàn nhân loại.
Ngoài ra, những cuộc xung đột quân sự ở các khu vực trong thời kì này như:
chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950-1953); vụ quốc hữu hoá kênh Xuyê và cuộc
chiến tranh xâm lược Ai Cập của Anh, Pháp, Ixraen (1956); việc kí kết hiệp định an
ninh Mĩ - Nhật (9-1951); thất bại của Mĩ trong âm mưu can thiệp và mở rộng chiến
tranh xâm lược ở Đông Dương (7-1954); sự cạnh tranh gay gắt giữa các cường
quốc ở khu vực Trung Cận Đông từ cuối thập niên 40 nhằm tranh chấp độc quyến
thăm dò và khai thác dầu lửa... đểu có liên quan đến sự đối đầu của hai cực Xô - Mĩ
và lôi cuốn nhiểu nước trên thế giới tham gia
II.QUAN HỆ QUỐC TẾ TỪ NỬA SAU NHỮNG NĂM 70 ĐẾN NAY:
1. QUAN HỆ XÔ - MĨ TRONG THẬP NIÊN 80
a. Xô - Mĩ chấm dứt "Chiến tranh lạnh"
Từ nửa sau những năm 80, đặc biệt, từ khi Gooc-ba-chôp lên cầm quyền ở
Liên Xô, quan hệ Xô - Mĩ đã thực sự chuyển từ "đối đầu" sang "đối thoại". Để giải
quyết các vấn đề tranh chấp, Liên Xô và Mĩ đã tiến hành nhiều cuộc gặp gỡ cấp cao
giữa Rigân và Gooc-ba-chôp, giữa Busơ và Gooc-ba-chôp qua đó nhiều văn kiện
về hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế, buôn bán, văn hóa và khoa học - kĩ thuật, được
kí kết, nhưng quan trọng nhất là việc kí kết Hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở
châu Âu năm 1987 .Cũng từ năm 1987, hai nước Mĩ và Liên Xô đã thỏa thuận cùng
giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cục diện
"chiến tranh lạnh", cùng hợp tác với nhau giải quyết các vụ tranh chấp và xung đột
quốc tế.
Cuối năm 1989, tại cuộc gặp gỡ không chính thức giữa Busơ và Gooc-bachôp trên đảo Manta, Mĩ và Liên Xô đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc "chiến
tranh lạnh" kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này.
17


Sở dĩ Mĩ và Liên Xô chấm dứt "Chiến tranh lạnh" vì:

Thứ nhất, trải qua hơn 40 năm, với gánh nặng "chạy đua vũ trang" và "bao"
vể chi tiêu quân sự hầu khắp thế giới (thời gian này hai nước Xô - Mĩ phải gánh
chịu từ 50 đến 55% chi tiêu quân sự của toàn thế giới), bản thân hai nước này bị
suy giảm "thế mạnh" của họ về nhiều mặt so với các cường quốc khác.
Thứ hai, Mĩ và Liên Xô đều đứng trước những khó khăn và thách thức hết
sức to lớn: hai nước Đức và Nhật Bản - hai nước phát xít chiến bại nay vươn lên
mạnh mẽ, trở thành đối thủ nguy hiểm đối với Mĩ và Liên Xô; các nước trong
"Khối thị trường chung châu Âu (EEC)" trở nên rất mạnh, cuộc "Chiến tranh kinh
tế" mang tính toàn cầu mà cả thế giới đang ra sức chạy đua; cuộc cách mạng công
nghệ và kĩ thuật đang diễn ra sôi nổi .v.v... Do vậy, muốn vươn lên kịp các nước
khác, cả hai nước cần phải thoát khỏi thế "đối đầu" với nhau và có cục diện ổn
định.
Thứ ba, kinh tế của Mĩ và Liên Xô đều giảm sút so với Nhật Bản và Tây Âu
(đặc biệt, Liên Xô lúc này đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng). Như thế "thời kì
chiến tranh lạnh" đã chấm dứt và quan hệ quốc tế đã bước sang một thời kì mới,
"thời kì sau chiến tranh lạnh".
Trước hết, điều quan trọng là mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mĩ,
Anh, Pháp, Trung Quốc (là 5 ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an, có nhiệm vụ
quan trọng trong việc duy trì hòa bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập
nên) cũng có nhiều đổi mới trong đường lối đối ngoại của mình. Trong ''thời kì
chiến tranh lạnh", mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế "hai cực" Xô - Mĩ đối
đầu nhau: Anh, Pháp phụ thuộc vào Mĩ, còn Trung Quốc thì có lúc liên minh với
Liên Xô chống Mĩ (những năm 50), có lúc cùng chống, Liên Xô và chống Mĩ
(những năm 60), rồi liên minh với Mĩ chống Liên Xô (từ sau thông cáo Thượng Hải
năm 1972). Sau hơn 20 năm đối đầu, năm 1989 quan hệ Xô - Trung đã được bình
thường hóa trở lại. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn đã chuyển từ "hai cực" đối đầu với
nhau sang "đối thoại", hợp tác với nhau trong cùng tồn tại hòa bình, trong việc giải
18



quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế (như cuộc chiến tranh vùng Vịnh
Pécxich - 1991 và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên
thế giới).
b. Quan hệ hai nước Xô - Mĩ từ sau "Chiến tranh lạnh" (1989 - 1991)
Từ sau năm 1989, Liên Xô và Mĩ đã thực sự từ "đối đầu” chuyển sang "đối
thoại" hợp tác với nhau để giải quyết những tranh chấp quốc tế và những vụ xung
đột quân sự mang tính đối địch giữa "hai cực" trước đây ở các khu vực trên thế
giới.
Liên Xô và Mĩ đã đi đến thỏa thuận giải quyết cuộc xung đột quân sự ở
Apganixtan bằng việc quân đội Liên Xô rút ra khỏi Apganixtan, giải quyết vấn đề
Campuchia (thương lượng và kí kết hiệp định Pari về Campuchia năm 1991), giải
quyết vấn đề Namibia ở Tây Nam Phi... Trong những thỏa thuận với Mĩ, Liên Xô
đã có những thỏa hiệp, nhượng bộ không có lợi cho cách mạng thế giới, như thực
hiện chính sách "không can thiệp" vào Đức và các nước Đông Âu, chính sách
không thực hiện những cam kết với các nước đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng
viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ, v.v...).
Ngày 31-7-1991, Liên Xô kí với Mĩ một hiệp ước nhằm hạn chế và giảm bớt
vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là hiệp ước START), mà theo đó, 1/3 kho vũ
khí hạt nhân của hai nước sẽ được thủ tiêu trong vòng 7 năm tới. Kí kết hiệp định
này, phía Liên Xô đã bị bất lợi trong việc duy trì thế cân bằng về sức mạnh vũ khí
hạt nhân với Mĩ.
Nhìn chung, những thỏa hiệp và nhượng bộ của Liên Xô đối với Mĩ từ 1989
- 1991 đã làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô ở khắp các khu vực trên thế
giới.
c. Sự sụp đổ của "Trật tự hai cực Ianta"
Trong những năm 1989 - 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Đông
Âu, làm mất đi khu vực "phạm vi ảnh hưởng" của Liên Xô ở châu Âu.
19



Tiếp đến, ngày 19-8-1991, ở Liên Xô đã diễn ra đảo chính nhằm lật đổ Tổng
thống Gooc-ba-chôp. Ngày 21-12-1991, 11 nước Cộng hòa trong Liên bang Xô viết
cũ đã kí hiệp định thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập ( SNG). Sự ra đời của
SNG buộc Tổng thống Liên Xô Gooc-ba-chôp phải từ chức ngày 25-12-1991. Như
thế, chế độ xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ ở Liên Xô và Liên bang Xô viết tan vỡ. Sự
kiện này dẫn đến một "cực" - "cực Liên Xô" - đã bị sụp đổ.
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, Liên Xô dẫn
đến việc khối quân sự Vacxava tự tuyên bố giải thể từ ngày 1-7-1991 và Hội đồng
tương trợ kinh tế (khối SEV) ngừng hoạt động ngày 28-6-1991.
Trải qua hơn 40 năm, "Trật tự hai cực Ianta” đã từng bước bị xói mòn: thắng
lợi của cách mạng Trung Quốc năm 1949 đã tạo ra một "đột phá” đối với trật tự này
là đập tan âm mưu của Mĩ khống chế Trung Quốc và Liên Xô buộc phải bỏ những
đặc quyền ở vùng Đông Bắc Trung Quốc; sự lớn mạnh về kinh tế của các nước tư
bản Tây Âu, đặc biệt sự ra đời của Khối thị trường chung châu Âu (EEC) từ giai
đoạn trước làm suy giảm nghiêm trọng phạm vi ảnh hưởng của Mĩ ở Tây Âu; thắng
lợi của phong trào giải phóng dân tộc làm thay đổi căn bản bộ mặt của khu vực Á Phi - Mĩ latinh mà theo "khuôn khổ Ianta" thuộc ảnh hưởng truyền thống của Mĩ và
các nước Tây Âu; sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của Nhật Bản, Tây Âu dẫn đến
viêc hai trung tâm kinh tế - tài chính là Tây Âu và Nhật Bản cạnh tranh với Mĩ
(trước đây Mĩ là trung tâm kinh tế, tài chính duy nhất của cả thế giới) v.v...
Tuy thế, "trật tự hai cực Ianta" về căn bản vẫn được duy trì. Nhưng sau
những biến động lớn ở Đông Âu và Liên Xô trong những năm 1989 - 1991, "trật tự
hai cực Ianta" thực sự bị phá vỡ, thể hiện trên các mặt:
+ "Hai cực", tức hai siêu cường Mĩ và Liên Xô, trong trật tự thế giới cũ đã bị
phá vỡ: Liên Xô bị sụp đổ hoàn toàn từ góc độ một nhà nước, Mĩ tuy vẫn giữ được
vị trí đứng đầu thế giới về sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự nếu tính riêng
từng nước một, nhưng gộp lại cả Tây Âu và Nhật Bản thì về nhiều mặt, Mĩ đã bị
20


suy kém hoặc đứng ở hàng thứ hai (nửa sau những năm 40 và trong những năm 50,

Mĩ mạnh hơn tất cả các nước tư bản cộng lại về kinh tế và quân sự);
+ Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mất hết, còn Mĩ
thì bị thu hẹp rất nhiều ở khắp mọi nơi
+ Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và Mĩ là hai nước chiến thắng
chủ yếu và thu được những quyền lợi lớn nhất, trong "trật tự hai cực Ianta", còn
Đức và Nhật Bản là hai nước phát xít chiến bại chủ yếu và bị sụp đổ về kinh tế quân sự, nhưng qua 45 năm, Nhật Bản và nước Đức (đã thống nhất trở lại) vươn
lên hùng mạnh về kinh tế và địa vị chính trị, đang trở thành mối lo ngại đối với các
cường quốc thắng trận trước đây (Mĩ, Nga, Anh, Pháp...).
2. Một trật tự thế giới mới đang dần dần hình thành
Sau khi "trật tự hai cực" bị phá vỡ, Mĩ ra sức vươn lên "thế một cực” trong
trật tự thế giới mới, còn các cường quốc khác cố gắng duy trì "thế đa cực", trong đó
Đức và Nhật Bản đang đòi hỏi trở thành "hai cực nữa" trong trật tự "đa cực" này.
Từ đầu những năm 90, một trật tự thế giới mới đang dần dần được hình
thành. Trật tự thế giới mới này được hình thành như thế nào, còn tùy thuộc ở nhiễu
nhân tố: + Sự phát triển về thực lực kinh tế, chính trị, quân sự của các cường quốc
Mỉ, Nga, Trung Quốc, Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức trong cuộc chạy đua về sức mạnh
quốc gia tổng hợp (tức sức mạnh tổng hợp về mọi mặt của một nước, trong đó kinh
tế là sức mạnh trụ cột); + Sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng thế giới (sự thành
bại của công cuộc cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa; + Sự vươn lên
của các nước Á - Phi - Mĩ latinh sau khi giành được độc lập; + Sự phát triển của
phong trào đấu tranh vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới v.v...);
+ Sự phát triển của cách mạng khoa học - kĩ thuật sẽ còn tiếp tục tạo ra những "đột
phá" và biến chuyển trên cục diện thế giới.
Tuy thế, đã xuất hiện một số đặc điểm và xu thế phát triển sau đây:

21


- Xu thế đối thoại, hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi, cùng tồn trọng lẫn
nhau trong cùng tồn tại hòa bình, đang ngày càng trở thành xu thế chủ yếu trong

các mối quan hệ quốc tế.
- Năm nước lớn: Nga, Mĩ, Trung Quốc, Anh, Pháp (tức năm nước ủy viên
thường trực trong Hội đổng Bảo an) tiến hành thương lượng, thỏa hiệp và hợp tác
với nhau trong việc duy trì trật tự thế giới mới.
-Vai trò của Liên hợp quốc được tăng cường và đề cao trong việc duy trì trật
tự,an ninh trên thế giới
-Tất cả mọi quốc gia đều đang điều chỉnh lại chiến lược đối ngoại của mình
cho phù hợp với tình hình mới nhằm củng cố vị trí của mình hoặc tạo lập những tập
hợp lực lượng riêng.
-Xu thế “liên kết khu vực” đi đôi với xu thế”toàn cầu hóa”phát triển nhanh như
Liên minh Châu Âu(EU),Hiệp hội ASEAN…Một thời kì mới trong quan hệ quốc tế
đã bắt đầu,trong đó tất cả các quốc gia,dân tộc đều đang đứng trước những thử
thách ,thời cơ để đưa vận mệnh đất nước mình tiến lên kịp với thời đại mới.Sự
nghiệp bảo vệ hòa bình-mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại đang ngày càng
tiến triển,mặc dù nguy cơ chiến tranh chưa phải đã chấm dứt.Những cuộc xung đột
diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới nhưng đã xuất hiện khả năng hiện thực để ngăn
chặn cuộc chiến tranh thế giới hủy diệt bảo vệ sự sống con người và nền văn minh
nhân loại.
B.BÀI TẬP VẬN DỤNG
Câu 1: Quan hệ Mĩ - Liên Xô trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai có
gì khác nhau? Tại sao có sự khác nhau đó?
* Quan hệ Mĩ - Liên Xô: Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Mĩ và Liên Xô
là đồng minh. Sau chiến tranh, Mĩ và Liên Xô nhanh chóng chuyển sang thế đối
đầu và đi tới tình trạng “chiến tranh lạnh”.
* Giải thích
- Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa phát xít là kẻ thù chung của cả
Liên Xô và Mĩ nên hai nước buộc phải liên minh với nhau.
- Sau chiến tranh, Mĩ và Liên Xô có sự đối lập về mục tiêu và chiến lược: Liên
Xô chủ trương duy trì hòa bình và an ninh thế giới, bảo vệ thành quả của CNXH;
22



Mĩ chống phá Liên Xô và các nước XHCN, âm mưu làm bá chủ thế giới. Từ sự đối
lập trên, Mĩ và Liên Xô đã nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu.
Câu 2: Vì sao Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh”? Nêu
các xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh. Các xu thế phát triển
đó, đặt ra cho dân tộc Việt Nam trước những thời cơ và thách thức gì?
a. Liên Xô và Mĩ tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh” vì:
- Sau bốn thập niên chạy đua vũ trang quá tốn kém làm cho cả hai nước bị suy
giảm thế mạnh của họ trên nhiều mặt so với các cường quốc khác…
- Nhiều khó khăn và thách thức to lớn đã đặt ra trước hai nước do sự vươn lên
mạnh mẽ của Nhật Bản, các nước Tây Âu… Còn nền kinh tế Liên Xô lúc này ngày
càng lâm vào trì trệ khủng hoảng…- Để thoát khỏi thế đối đầu nhằm ổn định và
củng cố vị thế của mình, tháng 12-1989 Liên Xô và Mĩ đã cùng nhau tuyên bố
chấm dứt Chiến tranh lạnh.
b.Các xu thế phát triển của thế giới sau Chiến tranh lạnh:
- Một là, xu thế hoà hoãn và hoà dịu trong quan hệ quốc tế…
- Hai là, sự tan rã của Trật tự hai cực I-an-ta và thế giới đang tiến tới xác lập
một trật tự thế giới mới, đa cực, nhiều trung tâm…
- Ba là, từ sau Chiến tranh lạnh và dưới tác động to lớn của cách mạng khoa
học – kỹ thuật, hầu hết các nước đều ra sức điều chỉnh chiến lược phát triển lấy
kinh tế làm trọng điểm…
- Bốn là, tuy hoà bình thế giới được củng cố, nhưng từ đầu những năm 90 của
thế kỉ XX, ở nhiều khu vực lại xảy ra những vụ xung đột quân sự hoặc nội chiến
giữa các phe phái…
c. Các xu thế phát triển đó, đặt ra cho dân tộc Việt Nam trước những thời
cơ và thách thức :
- Thời cơ:
+ Nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lí, thị trường rộng lớn…tạo cơ hội
cho Việt Nam.

+ Chúng ta có thể mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị, tận dụng những thành
tựu khoa học – công nghệ và các nguồn lực khác của thế giới, nhanh chóng đưa
nước ta tiến lên kịp thời đại.
- Thách thức:
+ Thách thức lớn nhất là trình độ lực lượng sản xuất của ta còn kém…
+ Ngoài ra, còn âm mưu diễn biến hoà bình, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa, nguy cơ suy thoái đạo đức, đánh mất bản sắc dân tộc, tình trạng ô nhiễm môi
trường, bệnh tật, tai nạn giao thông…
Câu 3: Trình bày những quyết định của hội nghị Ianta tháng 2/1945?
Thỏa thuận Ianta đã tác động như thế nào đến tình hình thế giới trong những
năm 1945-1947?
1.Hoàn cảnh triệu tập:
23


-Đầu năm 1945,chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc,nhiều vấn đề bức thiết
đặt ra trước các nước đồng minh đòi hỏi phải giải quyết,đó là:
+Việc nhanh chóng đánh bại các nước phát xít
+Việc tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh
+Việc phân chia thành quả chiến thắng giữa các nước thắng trận
-Từ 4 đến 11/2/1945 hội nghị quốc tế được triệu tập tai Ianta(Liên Xô) với sự
tham dự của những người đứng đầu 3 cường quốc Liên Xô,Mĩ,Anh
2,Nội dung:
Hội nghị đã đưa ra những quyết định quan trọng
-Thống nhất mục tiêu chung:Tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít Đức,chủ
nghĩa quân phiệt Nhật.Để nhanh chóng kết thúc chiến tranh,Liên Xô se tham gia
chống Nhật ở Châu Á
-Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hòa bình,an ninh thế giới
-Thỏa thuận việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát
xít,phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu,châu Á

+Châu Âu:
+Châu Á:
3.Hệ quả:
Những thỏa thuận quyết định trên đã trở thành khuân khổ của một trật tự thế
giới mới mà thế giới gọi là trật tự hai cực Ianta do Liên Xô và Mĩ đứng đầu mỗi
cực
4.Tác động của thỏa thuận Ianta:
*Tác động tích cực:
-Thúc đẩy cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nhanh chóng đi đến kết thúc ở
châu Âu,châu Á
-Các nước đồng minh thi hành những biện pháp dân chủ,xóa bỏ những chính
sách kinh tế,chính trị,xã hội,tiêu diệt tận gốc chủ nghĩa phát xít
*Hạn chế:
-Việc phân chia phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc dẫn đến sự hình
thành trật tự thế giới hai cực đối đầu,căng thẳng
-Duy trì nguyên trạng hệ thống thuộc địa của các nước đế quốc
Câu 4:Tổ chức Liên hợp quốc?Mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp
quốc?
HD: hs cần trình bày
1.Sự thành lập:
2.Mục đích-Nguyên tắc hoạt động:
3.Các cơ quan chính:
-Đại hội đồng
-Hội đồng bảo an
-Ban thư kí
4.Vai trò của Liên hợp quốc:
24


5.Mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên hơp quốc:

-Thấy được vai trò to lớn mà tổ chức Liên hợp quốc đem lại nên ngay từ khi
vừa ra khỏi cuộc chiến tranh kéo dài với đế quốc MĨ,Việt Nam đã có đơn xin gia
nhập tổ chức này.Ngày 20/9/1977 Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của tổ
chức này
-Từ khi gia nhập đến nay,Việt Nam đã chủ động đóng góp sức mình vào sự
giúp đỡ lớn mạnh của Liên hợp quốc đồng thời cũng nhận được sự giúp đỡ to lớn
của Liên hợp quốc
-Sự giúp đỡ to lớn của Liên hợp quốc thể hiện trên các lĩnh vực cụ thể:
+Liên hợp quốc viện trợ lương thực thực phẩm khẩn cấp cho các vùng bị thiên
tai,lũ lụt ở Miền Trung..
+Giúp đỡ tài chính cho các dự án trồng rừng..
+Giúp đỡ Việt Nam về chuyên gia,tài chính để Việt Nam phòng chống các đại
dịch…
+Các tổ chức của Liên hợp quốc đang hoạt động tại Việt
Nam:WHO,UNICEF,WTO,IAEA…
Liên hợp quốc là tổ chức rộng lớn nhất có vai trò quan trọng nhất trong việc
giữ gìn hòa bình,an ninh thế giới.Bước sang thế kỉ XXI,một yêu cầu lớn đặt ra là
phải cải tổ Liên hợp quốc để hướng tới một thế giới công bằng hơn cho tất cả các
nước,các khu vực trên thế giới
Câu 5:Hãy đưa ra ý kiến nhận xét về nhận định:Mối quan hệ quốc tế sau
chiến tranh thế giới thứ hai lại gay gắt hơn so với quan hệ quốc tế sau chiến
tranh thế giới thứ nhất,còn quan hệ quốc tế trong những năm gần đây chuyển
dần từ đối đầu sang đối thoại?
1.Quan hệ quốc tê sau chiến tranh thế giới thứ hai lại gay gắt hơn quan hệ
quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ nhất:
-Sau chiến tranh thế giới thứ nhất,quan hệ quốc tế là sự đối đầu giữa các nước
đế quốc với nhau,đây chỉ là mâu thuẫn giữa các nước trong cùng khối đế quốc vì
quyền lợi kinh tế
-Sau chiến tranh thế giới thứ hai,là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với chủ
nghĩa xã hội.Đây là sự đối đầu về hai phương thức sản xuất khác nhau,về hệ tư

tưởng,hệ thống chính trị khác nhau cho nên gay gắt,quyết liệt hơn nhiều
2.Quan hệ quốc tế sau những năm 70 đến nay có xu hướng chuyển dần
sang đối thoại:
-Đối đầu căng thẳng sẽ dẫn đến cuộc chiến tranh hạt nhân,sẽ không có người
chiến thắng.Trong thời đại ngày nay có nhiều vấn đề mang tính toàn cầu được đặt
ra,một quốc gia riêng lẻ không thể giải quyết được mà các quốc gia phải hợp tác
cùng nhau để giải quyết
-Xu hướng hợp tác cùng nhau có lợi phát triểncác quốc gia có quan hệ hợp
tác hơnxu hướng đối đầu giảm xuống
25


×