Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến người nhiễm HIV AIDS tại nơi làm việc ở tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.07 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.............................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...............................................................................................3
I.Cơ sở lý luận....................................................................................................3
1.Tổng quan về HIV/AIDS trên thế giới và ở Việt Nam....................................3
1.1. Trên thế giới................................................................................................3
1.2. Ở Việt Nam..................................................................................................3
2. Khái niệm HIV/AIDS và các vấn đề liên quan..............................................4
2.2. Khái niệm AIDS..........................................................................................4
2.3. Các con đường lây nhiễm HIV/AIDS.........................................................5
2.4. Các giai đoạn HIV/AIDS............................................................................6
3. Khái niệm và biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử..................................6
3.1. Khái niệm kỳ thị và phân việt đối xử..........................................................6
4. Đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu của người nhiễm HIV trong nơi làm việc.....8
4.1. Đặc điểm tâm, sinh lý của người nhiễm HIV trong nơi làm việc...............8
4.2. Nhu cầu của người nhiễm HIV trong nơi làm việc.....................................9
5. Chính sách, pháp luật về phòng, chống kỳ thị đối với người nhiễm
HIV/AIDS..........................................................................................................9
II. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi làm
việc tại tỉnh Thanh Hóa....................................................................................10
1.Khái quát Sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong xã
hội Việt Nam....................................................................................................10
2. Mô tả vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi làm
việc tại tỉnh Thanh Hóa....................................................................................11
2.1. Mô tả về tỉnh Thanh hóa............................................................................11
2.2. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi làm
việc tại tỉnh Thanh Hóa....................................................................................13
2.2.1. Thực trạng người nhiễm HIV tại tỉnh Thanh Hóa..................................13
2.2.2. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi
làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.............................................................................14




3. Các chương trình và hoạt động chính nhằm giải quyết vấn đề HIV/AIDS tại
nơi làm việc tỉnh Thanh Hóa............................................................................15
3. Giải pháp hỗ trợ giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong
nơi làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.......................................................................20
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.............................................................................23
1. Kết Luận.......................................................................................................23
2. Kiến nghị......................................................................................................24
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................26


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay, HIV/AIDS đang là vấn đề toàn cầu. Đòi hỏi sự tham gia, hợp
tác của tất cả các nước trên thế giới. Đã có rất nhiều đề tài, mục tiêu, dự án,
chương trình phòng chống HIV/AIDS được thực hiện bởi chính phủ cũng như
các tổ chức phi chính phủ. Hoạt động Công tác xã hội với người có HIV/AIDS
đã rất phổ biến ở các nước phát triển và một số nước đang phát triển. Nhưng, ở
Việt Nam, Công tác xã hội với người có HIV là một lĩnh vực hoàn toàn mới. Do
đó, cần có sự nỗ lực và hợp tác của tất cả các cơ quan chức năng, các tổ chức xã
hội, nhân viên CTXH và đặc biệt là của những người có HIV/AIDS. HIV/AIDS
có thể phòng tránh và ngăn chặn được.
Đúng vậy, nếu như công tác phòng tránh HIV được thực hiện có kế hoạch
và hiệu quả, thì vấn đề phòng tránh HIV sẽ thực hiện được. Tuy nhiên, một sự
thật đáng buồn là: HIV/AIDS đang gây ra những hậu quả và thiệt hại lớn ngày
càng gia tăng cho mọi người. Nếu năm 1990 Việt Nam phát hiện ca nhiễm HIV
đầu tiên, thì 10 năm trở lại đây (2000-2010) số ca nhiễm HIV được phát hiện
tính theo bình quân/năm là 20.819 người, thậm chí năm 2007 có đến 30.456 ca
nhiễm HIV được phát hiện (Ủy ban Quốc gia, 2010, tr. 7). Tuy số ca nhiễm HIV
phát hiện hằng năm có giảm dần sau năm 2007, nhưng đến năm 2010 vẫn còn

phát hiện 9.128 trường hợp mới, và “tính đến ngày 30/9/2010, cả nước có
180.312 người nhiễm HIV vẫn còn sống, chiếm 0,21% dân số” (Ủy ban Quốc
gia, 2010, tr. 7). Số lượng ca nhiễm HIV tăng nhanh làm cho công tác phòng
chống càng khó khăn hơn; đặc biệt khi bệnh dịch lan rộng qua nhiều địa bàn,
những nơi mà công tác phòng chống và chăm sóc căn bệnh này chưa được triển
khai tốt.
Nỗi sợ hãi về căn bệnh này đã vô tình dựng nên các rào cản xã hội đối với
người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ, tạo thêm khoảng cách giữa con người
với nhau và làm thui chột dần lòng nhân ái. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi đó không vô
căn cứ. Thứ nhất, do căn bệnh này có tính nguy hiểm và chưa có thuốc chữa.
Thứ hai, do tốc độ lây lan nhanh của nó trong cộng đồng (Ủy ban Quốc gia,
1


2010, tr. 7). Thứ ba, bệnh này chủ yếu lây lan qua đường tiêm chích ma túy và
mại dâm (Ủy ban Quốc gia, 2010, tr. 10), những hành vi bị coi là tệ nạn xã hội
và pháp luật ngăn cấm hoặc Nhà nước buộc phải tập trung chữa trị ở trại cai
nghiện. HIV/AIDS có thể phòng tránh được. Tuy nhiên, sự thật đáng buồn là
HIV/AIDS đang gây ra những hậu quả đối với những người nhiễm HIV trong
cộng đồng. Ngày càng có nhiều trẻ em nhiễm HIV chịu nhiều thiệt thòi trong xã
hội, cụ thể như học sinh bị nhiễm HIV trong trường học luôn tự ti vì phải chịu
sự kỳ thị. Để góp phần giúp đỡ cá nhân và gia đình giải quyết các vấn đề tâm lý
xã hội trên, đòi hỏi có sự quan tâm, giúp đỡ từ bên ngoài, điều này sẽ góp phần
tạo nên sự chuyển mình về tâm lý, hành vi con người, đảm bảo cho trật tự an
toàn xã hội và vấn đề an sinh ở nước ta hiện nay.
Tại Thành phố Thanh Hóa, số lượng người nhiễm HIV chưa ở mức độ
cao, nhưng sự kỳ thị còn khá phổ biến vì nhiều nguyên nhần như truyền thông
chưa đạt hiệu quả cao, nhận thức mọi người còn chưa đúng,… Đặc biệt tại các
cơ sở công tác làm việc nơi có số lượng người nhiễm HIV khá cao so với toàn
thành phố và các em còn phải chịu nhiều sự kỳ thị tại trường học.

Để làm rõ hơn về này, em xin chọn đề tài: “Kỳ thị và phân biệt đối xử liên
quan đến người nhiễm HIV/AIDS tại nơi làm việc ở tỉnh Thanh Hóa”. Do kiến
thức, kinh nghiệm bản thân còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi
sai sót. Kính mong các thầy, cô chỉ bảo và nhận xét để bài viết của em được
hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy, cô.

2


PHẦN NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận
1.Tổng quan về HIV/AIDS trên thế giới và ở Việt Nam
1.1. Trên thế giới
Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc về tình hình lây nhiễm HIV trên thế
giới đáng báo động. Có Hơn 38,6 triệu người đang mắc căn bệnh này. Từ lúc
phát hiện ra căn bệnh thế kỷ này có khoảng gần 25 triệu người đã chết. Hiện nay
có gần 40 triệu người dân nhiễm HIV, và chủ yếu trong số đó là phụ nữ.
Đông Âu và Trung Á là khu vực có tốc độ lây nhiễm HIV khủng khiếp
nhất. Nam Phi là quốc gia có số người nhiễm HIV cao nhất. Tỷ lệ số người
nhiễm HII ở các quốc gia Nam Á là 0.9%, thấp hơn so với Nam Phi ( 18.8%)
Theo cơ quan phòng chống AIDS, hầu hết các trường hợp mắc bệnh ở các
nước này chủ yếu do quan hệ tình dục không an toàn.
Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS có thông báo đến
cuối năm 2006 thế giới có khoảng 39,5 triệu người nhiễm HIV đang còn sống,
phụ nữ chiếm gần 50% ( 17,7 triệu người ), trẻ em có khoảng 2,3 triệu người. Tỉ
lệ nhiễm HIV vẫn còn tăng ở nhiều nơi trên thế giới như khu vực Nam Á, Đông
Nam Á, Nam Á, … Tại Châu Á các nước Campuchia,Thái Lan, Mianma được
đánh giá là các nước có khả năng lây nhiễm nhất trong khu vực, tiếp đến là
Indonesia, Việt Nam, Trung Quốc.

1.2. Ở Việt Nam
Dịch bênh HIV/AIDS đang ngày một gia tăng ở Việt Nam. Trung bình
một ngày sẽ có khoảng 100 người bị lây nhiễm HIV. Năm 2006, số người nhiễm
HIV đang còn sống ở Việt Nam khoảng 280.000 người. Trẻ em bị lây nhiêm
HIV/AIDS cũng tăng cao, và lá con số đáng báo động cần mọi người quam tâm
hơn về đại dịch HIV/AIDS.
Ước tính năm 2005 có khoảng 14.000 người chết vì dịch HIV/AIDS. Năm
2006, tỷ lệ nhiễm HIV ở độ tuổi 15 đến 49 ở Việt Nam xấp xỉ 0,5% là trung bình
cứ 200 người thì sẽ có một người sống chung với đại dịch HIV.
3


Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự lây nhiễm HIV ngày càng gia tăng với
tốc độ khá nhanh là do quan hệ tình dục không an toàn. Đặc biệt ở những nam
giới bán dâm có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn so với nữ giới bán dâm.
Năm 2009, Việt Nam có hơn 80% số người nhiễm HIV tập trung ở độ tuổi
từ 20-39 và đang có xu thế trẻ hóa, Tỷ lệ nam giới lây nhiễm HIV cao gấp 4 lần
so với nữ giới. Hiện Việt Nam đang là một trong số các nước nhiễm HIV thông
qua con đường tiêm chích khá cao.
Giai đoạn những năm gần đây, số lượng người nhiễm HIV/AIDS vẫn còn
cao tuy nhiên đã có dấu hiệu chững lại. Mặc dù số người nhiễm HIV được điều
trị thuốc kháng virut khá cao, vào khoảng 6.200 người, nhưng vẫn còn chưa đáp
ứng đủ nhu cầu của gần 40.000 người nhiễm HIV cần điều trị bằng thuốc. Đáng
chú ý hiện nay là tình trạng quan hệ đồng giới nam đã và đang phát triển mạnh ở
các thành phố lớn. Đây cũng là một mối nguy hại cho lây nhiễm HIV/AIDS.
2. Khái niệm HIV/AIDS và các vấn đề liên quan
2.1. Khái niệm HIV
- HIV là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Human Immunodeficiency
Virus" là vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người, làm cho cơ thể suy giảm khả
năng chống lại các tác nhân gây bệnh.

- HIV gây tổn thương hệ thống miễn dịch của cơ thể và làm cho cơ thể
không còn khả năng chống lại các tác nhân gây bệnh dẫn đến chết người. HIV
nếu không được điều trị sẽ làm tổn thương đến mức cơ thể không tự bảo vệ
được mình.
2.2. Khái niệm AIDS
- AIDS là chữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Acquired Immune
Deficiency Syndrome" là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải do HIV gây
ra, thường được biểu hiện thông qua các nhiễm trùng cơ hội, các ung thư và có
thể dẫn đến tử vong.
- AIDS là một bệnh mãn tính do HIV gây ra. AIDS là giai đoaạn cuối của
HIV. Khi HIV phá huỷ các tế bào của hệ miễn dịch, cơ thể không còn khả năng
4


chống lại các virus, vi khuẩn và nấm và từ đó người bệnh chuyển dần sang giai
đoạn AIDS. Bình thường mất 10 năm hoặc hơn để cho quá trình HIV chuyển
sang AIDS. Do đó cơ thể bị một số loại bệnh ung thư và nhiễm trùng cơ hội mà
bình thường có thể đề kháng được.
2.3. Các con đường lây nhiễm HIV/AIDS
Tất cả mọi người trong cộng đồng không phân biệt tuổi, giới tính, nghề
nghiệp,…đều có nguy cơ lây nhiễm HIV nếu có nhận thức chưa đúng và các
hành vi sai lệch dù chỉ một lần trong cuộc sống.
Theo nghiên cứu về dịch tễ học cho thấy rằng chỉ có trong máu, dịch sinh
dục (tinh dịch của nam và dịch tiết âm đạo của nữ) và trong sữa của người
nhiễm HIV mới có đủ lượng HIV có thể làm lây truyền HIV từ người nọ sang
người kia. Do đó, có 3 con đường chính lây nhiễm HIV/AIDS, cụ thể:
- HIV/AIDS lây qua đường máu: Trong truyền máu, máu của người khác
đi thẳng vào mạch máu của mình với lượng máu lớn. Do đó bất kỳ ai bị truyền
máu của người nhiễm HIV đều bị lây nhiễm. Ngoài ra sử dụng chung bơm kim
tiêm có có dính máu người nhiễm HIV, tiếp xúc với máu của người nhiễm HIV

ở các trường hợp như dùng chung dạo cạo râu, vết xước bị thương của người
nhiễm,... đều dẫn tới khả năng bị lây nhiễm HIV/AIDS cao.
- HIV/AIDS lây qua đường tình dục: Trong trường hợp thông thường,
trong quan hệ tình dục nếu người nam mang HIV thì HIV có thể đi qua lớp niêm
mạc âm đạo nữ vào những mạch máu nhỏ li ti có rất nhiều dưới lớp niêm mạc,
dẫn tới người nữ bị lây nhiễm HIV. Điều này cũng xảy ra tương tự nếu người nữ
mang HIV lây nhiễm sang cho người nam. Khi giao hợp bằng miệng thì khả
năng lây nhiễm HIV thấp hơn thông thường. Tuy nhiêm nếu có vết xước có máu
của người nhiễm thì khả năng lây nhiễm HIV nhanh cho người còn lại.
- HIV/AIDS lây từ mẹ sang con: Phụ nữ nhiễm HIV nếu sinh con sẽ có
khả năng khoảng 30% con sinh ra sẽ nhiễm HIV. Trẻ sinh ra có thể bị lây nhiễm
HIV thông qua các con đường chính là khi nhau thai nằm trong bụng mẹ, qua
máu và chất dịch khi mẹ sinh, qua một số nhỏ lây sữa khi mẹ cho bú.
5


2.4. Các giai đoạn HIV/AIDS
Người nhiễm HIV không phải chuyển ngay sang giai đoạn AIDS mà nó
diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định, có thể lên đến hàng chục năm và
trong khoảng thời gian này. Quá trình từ nhiễm HIV thành AIDS dài hay ngắn
phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như sức đề kháng của người nhiễm, lối sống và sinh
hoạt của họ sau khi nhiễm bệnh, sự chăm sóc của gia đình và cộng đồng. Quá
trình lây nhiễm từ HIV sang AIDS có 3 giai đoạn chính:
- Giai đoạn cấp tính : Đa số người nhiễm HIV trong giai đoạn đầu thường
không có biểu hiện gì ra bên ngoài để người khác có thể biết được. Khi HIV
xâm nhập vào cơ thể, chúng tấn công các tế bào miễn dịch CD4 và dựa vào các
tế bào này để sinh sôi nẩy nở hàng triệu phiên bản trong mỗi ngày và virus sẽ
lan tràn trong cơ thể.
- Giai đoạn không triệu chứng: Ở giai đoạn này thường thời gian thường
kéo dài từ và năm hay dài hơn là hơn 10 năm. Người bệnh không có các triệu

chứng lâm sang, người nhiễm HIV vẫn học tập, sinh hoạt như bình thường. Giai
đoạn này HIV không lây nhiễm qua tiếp xúc thông thường, chỉ lây qua 3 đường
cơ bản. Điều trị kéo dài sẽ chuyển dần qua giai đoạn AIDS.
- Giai đoạn AIDS: Điều trị kéo dài HIV người bệnh sẽ chuyển qua giai
đoạn AIDS. Trong giai đoạn này người bệnh thường gặp các triệu chứng: tiêu
chảy, sụt cân, ung thư da, loét da, liêm mạc, lao, nám....Khi chăm sóc người
bệnh ở giai đoạn này cần chú ý áp dụng đầy đủ kiến thức bảo vệ tránh lây nhiễm
HIV như sử dụng đầy đủ đồ phòng hộ,…
3. Khái niệm và biểu hiện của kỳ thị và phân biệt đối xử
3.1. Khái niệm kỳ thị và phân việt đối xử
a) Khái niện kỳ thị.
- Kỳ thị là thái độ làm mất thể diện hoặc không tôn trọng một cách thiếu
căn cứ đối với một cá nhân hoặc một nhóm người nào đó. Kỳ thị có thể dẫn đến
những định kiến, hành vi hoặc hành động làm tổn thương người khác. Với
6


những người nhiễm HIV/AIDS, đó là sự coi thường, xa lánh, từ chối và trừng
phạt họ. Kỳ thị hình thành trên cơ sở xã hội do đó cần có những giải pháp mang
tính xã hội để chống lại nó nhằm thay đổi thái độ và hành vi.
- Kỳ thị người nhiễm HIV là thái độ khinh thường hay thiếu tôn trọng
người khác vì biết hoặc nghi ngờ người đó nhiễm HIV hoặc vì người đó có quan
hệ gần gũi với người nhiễm HIV hoặc bị nghi ngờ nhiễm HIV.
b) Khái niệm phân biệt đối xử.
Sự phân biệt đối xử đi sau kỳ thị là việc đối xử không công bằng đối với
một người nào đó do họ bị nhiễm hoặc do cảm tưởng là người đó bị nhiễm HIV.
Sự kỳ thị và phân biệt đối xử vi phạm đến các quyền cơ bản của con người, ở
các cấp độ khác nhau từ chính trị đến kinh tế, xã hội, tâm lý và thể chế.
3.2. Biểu hiện cuả kỳ thị
-Tại cơ sở y tế: Miễn cưỡng khi tiếp xúc với người bệnh nhiễm HIV; Trì

hoãn điều trị, chậm phục vụ người nhiễm HIV hoặc không phẫu thuật cho người
nhiễm HIV; Từ chối điều trị; Đùn đẩy người bệnh nhiễm HIV;…
- Tại gia đình có người nhiễm HIV: Gây quan hệ căng thẳng từ chối lảng
tránh hoặc ly thân cho ăn ở riêng. Không cho hoặc cấm người nhiễm bệnh dùng
chung các vật dụng trong gia đình; Bắt người nhiễm HIV ở nơi khác hoặc đổi ra
khỏi nhà,…
- Tại cộng đồng: Hạn chế người nhiễm HIV đến các nơi công cộng, giải
trí, thể thao, nhà vệ sinh, các dịch vụ công cộng; Tẩy chay không mua hàng của
người nhiễm HIV hoặc của gia đình người nhiễm HIV; Xua đuổi người nhiễm
HIV ra khỏi cộng đồng,…
- Tại nơi làm việc: Lấy máu xét nghiệm HIV trước khi tuyển dụng hoặc
trong quá trình lao động nhưng không nói là để xét nghiệm HIV; Cho nghỉ ốm
nghỉ việc khi người lao động bị nhiễm HIV cho dù họ vẫn còn khả năng lao
động; Dùng bồi thường vật chất để thuyết phục người nhiễm HIV xin người

7


việc,…
4. Đặc điểm tâm sinh lý, nhu cầu của người nhiễm HIV trong nơi làm việc.
4.1. Đặc điểm tâm, sinh lý của người nhiễm HIV trong nơi làm việc.
HIV và AIDS có tất cả các đặc điểm của những căn bệnh bị kỳ thị nhất.
Những đặc điểm này bị liên hệ với quan hệ tình dục sai trái và tiêm chích ma túy
ư những hành vi bị xã hội lên án và được coi là lỗi của cá nhân bị bệnh. AIDS là
căn bệnh nan y, suy sụp, thường dẫn đến biến dạng và gắn liền với “một cái chết
không mong muốn”. Mọi người thường có suy nghĩ sai lầm rằng bệnh này dễ
lây lan quan tiếp xúc và là mối đe dọa cho cộng đồng. Người dân nói chung và
nhiều khi cả các nhân viên y tế, không được thông báo một cách đầy đủ và thiếu
sự hiểu biết sâu về HIV và AIDS. Chính vì vậy, không còn gì nghi ngờ rằng sự
kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là một thử thách cần phải

giải quyết. Cụ thể hơn có các biểu hiện tâm sinh lý:
-Lo sợ: Khi mắc căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS thông thường, người nhiễm
HIV thường có cảm giác lo sợ. Không chỉ lo sợ về căn bệnh mà còn lo sợ về tinh
thần. người nhiễm sợ mọi người thương cảm, nhìn mình với ánh mắt khác. Nỗi
sợ ngày lớn dần dẫn đến việc trầm cảm, ngại giao tiếp với mọi người.
- Sự cô đơn, buồn tủi: người nhiễm HIV ở nơi làm việc có khá nhiều
trường hợp bị sự cô lập từ bạn bè, đồng nghiệp, đối tác sự xa lánh và kỳ thị của
đồng nghiệp, mọi người xung quanh. Người nhiễm luôn lo sợ về mọi người
xung quanh. Và sự cô đơn, buồn tủi dần hình thành khi phải chịu những miệt thị
đó. Những hành động hay cử chỉ nhỏ như tránh xa khi tới chỗ làm, không ngồi
cạnh cùng, bịt khẩu trang khi nói chuyện cùng,… Những điều này làm cảm thấy
cơ đơn, bị cô lập và tủi nhục.
- Mặc cảm: Sự tự ti về bản than và căn bệnh mình đang mang trong người
dẫn đến việc người nhiễm HIV tự tạo vỏ bọc khác biệt các bạn học còn lại.
Người nhiễm không tự tin khi giao tiếp với mọi người xung quanh và ngay cả
những người thân thiết.
- Bên cạnh đó, người nhiễm HIV còn có nhiều biểu hiện cảm xúc khác
8


nhau tùy vào từng trường hợp trong môi trường sống khác nhau. Có một số
trường hợp sẽ chán nản, muốn từ bỏ, cũng có những trường hợp chấp nhận và hy
vọng tốt hơn cho bản thân,…
4.2. Nhu cầu của người nhiễm HIV trong nơi làm việc
Người nhiễm HIV trong nơi làm việc HIV có nhu cầu cấp thiết nhất là
nhu cầu cần được bảo vệ, tránh những kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm
HIV cũng như sự kỳ thị của bạn bè, đồng nghiệp, cơ quan…
Bên cạnh đó, có nhu cầu được làm việc, bình đăng như các bạn bè, đồng
nghiệp, cơ quan. người nhiễm HIV mang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS
nhưng cũng cần được tôn trọng, được hưởng các quyền lợi của bản thân. Người

nhiễm HIV cũng có nhu cầu sinh hoạt phí, nhu cầu bình đẳng tronglàm việc,
hoạt động ngoại khóa.
Ở một số trường hợp học sinh nhiễm HIV/AIDS sinh hoạt và làm việc
trong môi trường chưa tốt thì còn có nhu cầu hỗ trợ về tâm lý, tinh thần. Cần
quan tâm, giúp đỡ để giảm bớt sự mặc cảm, tự ti, những lối nghĩ tiêu cực để lâu
dài có thể dẫn tới trầm cảm và các hậu quả đáng tiếc xảy ra trong cuộc sống.
Một nhu cầu mà người nhiễm HIV HIV/AIDS khá quan tâm là về các
hoạt động tuyên truyền, nâng cao nhận thức về HIV, Phòng chống lây nhiễm
HIV trongnơi làm việc. Từ đó có thể nâng cao hiệu quả làm việc, mọi người
xung quanh và bạn bè, đồng nghiệp hiểu rõ hơn về HIV và có những hành động
quan tâm tới người nhiễm HIV, giảm bớt kỳ thị.
5. Chính sách, pháp luật về phòng, chống kỳ thị đối với người nhiễm
HIV/AIDS
Một số chính sách, luật pháp về phòng, chống kỳ thị đối với người nhiễm
HIV/AIDS:
- Tuyên bố cam kết về HIV/AIDS, 2001 "Khủng hoảng toàn cầu-Hành
động toàn cầu". (Được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết
S-26/2 ngày 27/6/2001).
- Các hướng dẫn quốc tế về HIV/AIDS và quyền con người (1996).
9


- Tuyên bố về “Những hành động then chốt để tiếp tục thực hiện Chương
trình hành động của Hội nghị quốc tế về dân số và phát triển” (1999).
-Tuyên bố chính trị và các sáng kiến và hành động tiếp theo nhằm thực
hiện các cam kết được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã
hội (2000).
- Chương trình về HIV/AIDS của Liên hợp quốc đồng tổ chức ở Giơnevơ
trong các ngày từ 23 đến 25/9/1996.
II. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi

làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.
1.Khái quát Sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS trong xã
hội Việt Nam
Nghiên cứu định tính về sự kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến
HIV/AIDS do Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội (ISDS) và Trung tâm Nghiên
cứu Quốc tế về Phụ nữ (ICRW) hợp tác tiến hành với kinh phí do USAID và
Chương trình Hành động Tiến bộ GlaxoSmithKline cấp. Nghiên cứu này được
tiến hành trong thời gian từ tháng 8/2002 đến tháng 1/2004 tại các thành phố
Cần Thơ và Hải Phòng ở Việt Nam, bao gồm các cuộc phỏng vấn sâu 250 người
tham gia.
Mục đích của nghiên cứu là xác định các bối cảnh kinh tế xã hội và chính
trị phát sinh sự kỳ thị và phân biệt đối xử, và ghi chép lại các trường hợp kỳ thị
và phân biệt đối xử đối với những người bị nhiễm HIV/AIDS và các thành viên
trong gia đình họ. Nghiên cứu cũng phân tích các điểm trùng hợp giữa kỳ thị và
phân biệt đối xử liên quan đến HIV và sự kỳ thị đối với những người tiêm chích
ma tuý và người làm nghề mại dâm.Các kết luận của nghiên cứu này đã chỉ ra
rằng sự kỳ thị liên quan đến HIV/AIDS ở Việt Nam chủ yếu bao hàm hai yếu tố
chính:
 Mọi người trong cộng đồng đều có các hiểu biết chung về các con đường
lây nhiễm HIV, nhưng do còn có điểm chưa rõ nên vẫn sợ bị lây nhiễm HIV qua
tiếp xúc hàng ngày với những người bị nhiễm bệnh. Chính điều này đã khiến
10


mọi người có các hành động không cần thiết và thông thường mang tính kỳ thị
mà họ cho rằng là để ngăn ngừa sự lây nhiễm của căn bệnh này.
 Sự kỳ thị liên quan đến HIV có xuất phát từ một thực tế là trong tâm trí
của tất cả mọi người trong cộng đồng, kể cả các cán bộ lãnh đạo và cán bộ y tế,
HIV và AIDS luôn gắn liền với ma tuý và mại dâm, là các tệ nạn xã hội. Đối với
những người tiêm chích ma tuý, sự kỳ thị còn mang tính phức tạp riêng, do họ

luôn bị coi là những kẻ chỉ “ăn chơi sa đoạ” chứ không đóng góp gì cho xã hội.
Do vậy luôn có sự xét đoán đối với những người đã bị nhiễm HIV, cho rằng họ
nhiễm căn bệnh này do lối sống không lành mạnh và gây thiệt hại cho cả gia
đình và xã hội.
Nghiên cứu này đã đã đi đến kết luận rằng có thể và cần phải làm nhiều
việc để ngăn chặn và giải quyết nguồn gốc của sự kỳ thị và phân biệt đối xử
trong xã hội liên quan đến HIV và AIDS, chứ không chỉ ở các tác hại của chúng.
Như sẽ được chứng minh ở phần sau của tài liệu này, của cuộc khảo sát
KABP về sự kỳ thị và phân biệt đối xử có liên quan đến HIV/AIDS tại chỗ làm
việc đã đưa ra nhiều điểm kết luận giống với kết luận của nghiên cứu trên đây.
Các kết luận tương tự như nhau của hai cuộc nghiên cứu do vậy đã khẳng định
một loạt các nét đặc trưng cơ bản và nguồn gốc của sự kỳ thị và phân biệt đối xử
có liên quan đến HIV/AIDS ở Việt Nam. Có thể đưa ra các kết luận chung là: (i)
Sự kỳ thị và phân biệt đối xử có liên quan đến HIV/AIDS là khá phổ biến trong
xã hội và tại nơi làm việc; (ii) Việc xoá bỏ chúng cần phải được giải quyết ở
ngay chỗ làm việc và bên ngoài chỗ làm việc.
2. Mô tả vấn đề kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi
làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.
2.1. Mô tả về tỉnh Thanh hóa.
Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về
phía Nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.560km, Thanh Hoá có lãnh thổ rộng
lớn: 11.129,48 km2.Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình,
phía Nam giáp tỉnh Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân
11


chủ nhân dân Lào), phía Đông là Vịnh Bắc Bộ. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh
hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào
và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ. Dạng địa hình núi và trung du phân bố ở
11 huyện miền núi của tỉnh; là điều kiện thuận lợi để phát triển các ngành nông lâm nghiệp với các loại cây lâm sản và các cây như đậu, chè, lạc, mía… các cây

trồng nói trên là cơ sở để phát triển ngành chế biến nông - lâm sản của Thanh
Hoá.
a.

Công nghiệp

Theo số liệu của tổng cục thống kê, trong 6 tháng đầu năm 2009, chỉ số
phát triển công nghiệp của toàn tỉnh tăng 8,2%, đây là mức tăng cao so với mức
tăng bình quân của cả nước là 4,6% (trong đó TP Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ
tăng ở mức thấp là 0,4% và 2,7%). Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Thanh Hóa xếp ở vị trí thứ
24/63 tỉnh thành. Hiện tại Thanh Hóa đang xây dựng khu kinh tế Nghi Sơn. Khu
kinh tế này được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập và ban hành quy
chế hoạt động số 102/2006/QĐ-TTg.
b.

Nông nghiệp

Thống kê đến năm 2004, toàn tỉnh có 239.842 ha đất nông nghiệp (chiếm
21,6% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh)[24] đang được sử dụng khai thác.
Năm 2013, tổng sản lượng lương thực cả tỉnh đạt 1,65 triệu tấn.
Năm 2014, tổng sản lượng nông nghiệp cả tỉnh đạt 1,737 triệu tấn.
c.

Lâm nghiệp

Theo số liệu thống kê năm 2014 toàn tỉnh Thanh Hóa có diện tích đất lâm
nghiệp 626.576,1 ha. Diện tích che phủ rừng tới năm 2013 đạt 51%. Thanh Hóa
là tỉnh có diện tích luồng lớn nhất trong cả nước với diện tích trên 71.000 ha
(chiếm 55% diện tích luồng toàn Việt Nam). Phát triển lâm nghiệp tổng hợp của

Thanh Hóa theo xu hướng kết hợp bảo tồn, nghiên cứu, giáo dục và du lịch sinh
thái. Lâm nghiệp Thanh Hóa cũng phát triển đa dạng hơn với nghề chăn nuôi
động vật hoang dã: Hươu, nai, gấu, hổ.
12


d.

Ngư nghiệp

Thanh Hóa có 102 km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km², với
những bãi cá, bãi tôm có trữ lượng lớn. Dọc bờ biển có 5 cửa lạch lớn, thuận lợi
cho tàu thuyền ra vào. Tính đến năm 2014 tỉnh Thanh Hóa có 7.308 tàu đáng bắt
cá ngoài khơi.
e.

Dịch vụ

Hiện nay, các ngân hàng đang thực hiện đổi mới và đa dạng hóa các hình
thức huy động vốn, áp dụng các công nghệ tiên tiến trong việc chuyển phát
nhanh, thanh toán liên ngân hàng, thanh toán quốc tế bảo đảm an toàn và hiệu
quả. Tổng nguồn vốn huy động tín dụng hàng năm đạt trên 3.000 tỷ đồng, tổng
dư nợ năm 2002 đạt trên 4.000 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2001.
f.Thương mại dịch vụ
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, thương mại Thanh Hóa đã có
bước phát triển quan trọng. Trên địa bàn đã hình thành hệ thống bán buôn, bán lẻ
với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo điều kiện lưu thông thuận tiện
hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Kim
ngạch xuất khẩu tăng đều qua các năm, năm 2000 đạt trên 30 triệu USD, năm
2001 đạt 43 triệu USD và năm 2002 đạt 58 triệu USD.

2.2. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi
làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.
2.2.1. Thực trạng người nhiễm HIV tại tỉnh Thanh Hóa.
Từ ca nhiễm HIV đầu tiên ở huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa vào tháng
11/1995, tính đến nay, Thanh Hoá có 8.111 người nhiễm HIV, có 4.085 người
quản lý được. Đã có 2.072 bệnh nhân tử vong. Trong những năm qua, Thanh
Hoá đã tăng cường công tác truyền thông, vận động sự tham gia vào cuộc của
cấp ủy Đảng, chính quyền xã, trưởng bản... về thực hiện mục tiêu 90-90-90.
Số bệnh nhân tử vong: 2.072 bệnh nhân. Số bệnh nhân đang điều trị ARV:
3,779 bệnh nhân. 27/27 huyện thị có người bị nhiễm HIV/AIDS, có 595/635 xã
có người nhiễm HIV/AIDS.
13


Toàn tỉnh ước tính có gần 15.000 người nghiện chích ma túy , trong đó
quản lý được gần 8.000 người. So với cùng kỳ năm 2017, số người nhiễm HIV
tử vong giảm, số người nhiễm HIV phát hiện mới và điều trị ARV mới đều tăng.
Hiện nay, dịch HIV/AIDS ở Thanh Hóa vẫn trong giai đoạn tập trung
nhóm nghiện chích ma túy và mại dâm. Các ca nhiễm HIV tập trung chủ yếu ở
nhóm người nghiện chích ma túy, lây qua đường máu, phân bổ ở nam giới, và
trong độ tuổi 20-39 tuổi (88%).
2.2.2. Thực trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV trong nơi
làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.
Sự phân biệt đỗi xử liên quan đến HIV/AIDs tại nơi làm việc là một thực
tế đang diễn ra ở Việt Nam, điều đã được đề cập trong các báo cáo của Chính
phủ cũng như các nghiên cứu do các tổ chức quốc tế và các tổ chức trong nước
thực hiện. Mặc dù nhìn chung, người sử dụng lao động và người lao động có
thái độ thông cảm đối với người lao động bị nhiễm HIV/AIDS nhưng không có
bằng chứng có tính hệ thống và đáng thuyết phục để chỉ ra rằng những người bị
nhiễm căn bệnh này nhận được sự trợ giúp thích đáng và có thể tin tưởng vào

doanh nghiệp về những hỗ trợ về mặt tài chính, xã hội và tinh thần.
- Như sẽ đề cập ở dưới đây, 30% số người lao động được hỏi nhất trí với
quan điểm cho rằng những người nhiễm HIV cần phải bị cho thôi việc vì “lợi ích
của những người khác”. Một tỉ lệ lớn (85%) số lao động được hỏi cho rằng các
nhà máy nên tiến hành xét nghiệm HIV thường xuyên để xác định những người
bị nhiễm HIV. ý tưởng này thậm chí còn được sự ủng hộ của các nhân viên y tế,
những người chịu trách nhiệm đối với hoạt động phòng chống HIV/AIDS trong
những nhà máy được tiến hành điều tra. Chỉ có 9% số lao động được hỏi phản
đối ý tưởng này.
- 80% số người lao động được hỏi muốn thông tin về kết quả xét nghiệm
HIV của những người cùng làm phải được công bố để những người khác có thể
tiến hành “các biện pháp phòng chống” cần thiết. 18% số người được hỏi không
đồng ý với điều này, trong khi đó khoảng 2% số lao động được hỏi không biết
14


chắc điều này có cần thiết hay không.
- Một phần ba số lao động được hỏi muốn những người bị xác định là
nhiễm HIV phải thôi việc. Người lao động cũng có quan điểm tương tự đối với
nhóm có nguy cơ nhiễm bệnh cao, đó là những người sử dụng ma túy (80%) và
người mua dâm hoặc có cuộc sông buông thả(45%).
- Kết quả điều tra đã chỉ ra rằng 60% người lao động có quan điểm như
vậy. 69% số người được hỏi cho rằng nam giới, những người sống xa nhà, được
coi là những người rất dễ bị những điều đó cám dỗ.
- Liên quan đến sự khác biệt về giới, dường như khuôn mẫu định kiến giới
của phụ nữ sâu sắc hơn các nam đồng nghiệp. Khoảng 68,2% lao động nữ và
41,2% lao động nam cho rằng nam giới có mức độ rủi ro cao hơn phụ nữ trong
việc lây nhiễm HIV/AID. Một tỉ lệ lớn lao động nữ (75,8% so với 54,4% lao
động nam) cho rằng nam giới dễ bị lây nhiễm HIV khi họ đi xa nhà.
- Trong cuộc điều tra, 91,5% người lao động nói rằng họ thông cảm với

những người bị nhiễm HIV và nhất trí rằng người bị nhiễm HIV/AIDS cần phải
nhận được sự giúp đỡ. Đối với xã hội, 72% người lao động cho rằng xã hội
không nên kỳ thị những người bị nhiễm HIV. Chỉ 21,5% cho rằng cần phải
tránh, cách ly và ghét bỏ những người lao động bị nhiễm căn bệnh này. Những
suy nghĩ này mâu thuẫn với các hình thức kỳ thị và phân biệt đối xử được tìm
thấy và đề cập ở phần trên.
3. Các chương trình và hoạt động chính nhằm giải quyết vấn đề HIV/AIDS
tại nơi làm việc tỉnh Thanh Hóa.
a) Các hoạt động chính.
Đến nay vẫn chưa có một nghiên cứu với quy mô lớn nào được thực hiện
để đưa ra đánh giá khái quát về vấn đề liên quan đến HIV/AIDS tại nơi làm việc.
Quy mô và mức độ của kỳ thị và phân biệt đối xử đối với những người nhiễm
HIV/AIDS tại nơi làm việc vẫn là một điều chưa được biết đến. Cũng cần phải
chỉ ra rằng những đặc trưng này cũng như các nguyên nhân của kỳ thị và phân
biệt đối xử được đề cập trong phần tiếp theo là rất nhất quán với những vấn đề lý
15


thuyết đã được trình bày trong phần 2 của báo cáo này. Tuy nhiên do số người
được phỏng vấn còn ít (mới có 200 công nhân), nên không thể tổng hợp để đưa
ra các kết luận.
i. Các dự án dưới sự điều phối của phòng Thương Mại và Công nghiệp tỉnh
Thanh Hóa.
Từ năm 1996, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Văn
phòng Thường trực Quốc gia Phòng chống AIDS với sự tham gia của các nhà tài
trợ và tổ chức phi chính phủ quốc tế, và tại tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành triển
khai một số dự án nhằm phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc. Dự án “Làm
việc với AIDS” (1997 - 2000) đã được Công ty Bánh kẹo Hải Hà và Công ty
giầy Ngọc Hà triển khai nhằm xây dựng chương trình hành động để phòng
chống HIV/AIDS, gồm chương trình thông tin, giáo dục và truyền thông (hội

thảo, hội thảo chuyên đề, phân phát tài liệu thông tin - giáo dục - truyền thông),
tiến hành xét nghiệm HIV một cách tự nguyện với thông tin được giữ kín, hướng
dẫn về quy tắc không phân biệt đỗi xử, tạo môi trường làm việc thuận lợi cho
những người bị nhiễm HIV, quy định trách nhiệm của những người bị nhiễm
HIV, giáo dục các biện pháp phòng tránh lây nhiễm bao gồm cả việc phân phối
miễn phí bao cao su.
Dự án cũng đã nêu bật tầm quan trọng của các bài học kinh nghiệm và
những thực tiễn tốt. Tại thời điểm kết thúc Dự án vào năm 2001, hai công ty này
đã thực hiện thành công Kế hoạch Hành động (POA) phòng chống và kiểm soát
HIV/AIDS. Kinh nghiệm của họ đã được chia sẻ với nhiều doanh nghiệp khác
và trên cơ sở đó, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đề xuất với
Chính phủ nhân rộng mô hình Dự án trên. Chính phủ sau đó đã ra chỉ thị yêu cầu
tất cả các doanh nghiệp tại Hà Nội xây dựng các POAs của riêng họ.
ii. Hoạt động của các bộ và các doanh nghiệp
Hầu hết tất cả các bộ và nhiều doanh nghiệp đã tiến hành thường xuyên các
hoạt động thông tin, giáo dục và tuyên truyền về phòng chống và kiểm soát
HIV/AIDS. Nhiều bộ ngành cũng đã tổ chức các cuộc họp để giới thiệu Pháp
16


lệnh về HIV/AIDS trong đó nêu bật các quyền và nghĩa vụ của người bị nhiễm
bệnh. Điểm tập trung của các hoạt động này là giới thiệu về các hình thức lây
truyền chính của bệnh dịch và những nguy cơ mà người lao động có thể gặp
phải. Những nguy cơ do ma túy và mại dâm gây ra luôn được nhấn mạnh. Một
số ít các doanh nghiệp đã hợp tác với các cộng đồng trong công tác thông tin,
giáo dục và truyền thông và phối hợp các hoạt động phòng chống HIV/AIDS với
các chương trình khác như kế hoạch hóa gia đình, chống lại “tệ nạn xã hội” v.v.
b) Hiệu quả và hạn chế gặp phải khi thực hiện hoạt động.
* Đến tháng 10/2002, Dự án đã thu được những kết quả sau:
Tiến hành phân tích tình hình nhiễm HIV/AIDS và các hoạt động đang diễn

ra nhằm phòng chống và kiểm soát đại dịch này;
- Tổ chức 20 hội thảo nhằm vào các đối tượng là tất cả những nhà tuyển
dụng lao động và cán bộ quản lý của các doanh nghiệp;
- Tổ chức 20 hội thảo cho lãnh đạo của 20 doanh nghiệp, tập trung vào
công tác lập chính sách và xây dựng Kế hoạch hành động để phòng chống và
kiểm soát HIV/AIDS và Kế hoạch hành động đã được xây dựng ở 20 doanh
nghiệp;
- Tổ chức đào tạo cho 600 người làm công tác thông tin, giáo dục và tuyên
truyền;
- Tổ chức các hội thảo chuyên đề về phòng chống và kiểm soát HIV/AIDS
cho 60.000 người lao động;
- Thiết lập 8 câu lạc bộ cho những người bị nhiễm HIV/AIDS và gia đình
họ với số lượng thành viên đăng ký lên đến 319 người;
- 80 nữ cán bộ xã hội đã được đào tạo về công tác chăm sóc và chữa trị
những người bị nhiễm HIV;
- Giới thiệu một số chương trình chăm sóc sức khỏe tại nhà: Tổ chức đào
tạo đối với người tiến hành công tác đào tạo cho 16 nhóm ở cấp tỉnh và cấp
huyện và 11 nhóm của Tổng công ty Than Việt Nam hiện đang làm việc về các
vấn đề HIV/AIDS;
17


* Hạn chế khi gặp phải thực hiện hoạt động.
Tuy nhiên, các hoạt động này vẫn chủ yếu mang tính hình thức và không có
hiệu quả không cao. Tại một số doanh nghiệp, ban chỉ đạo phòng chống và kiểm
soát HIV/AIDS đã được thành lập.
Việc phân phối bao cao su miễn phí thường được kết hợp với các chương
trình kế hoạch hóa gia đình trong nhiều năm qua trên toàn quốc. Tuy nhiên, hoạt
động tư vấn và xét nghiệm tự nguyện vẫn chưa được tiến hành. Việc khám và
điều trị STDs được tiến hành trên cơ sở thu phí hoặc các chương trình bảo hiểm

y tế. Thuốc chữa HIV đã được cung cấp qua các chương trình bảo hiểm y tế
nhưng chủ yếu chỉ dành cho phụ nữ mang thai do thiếu thuốc.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động.
Bất chấp những nỗ lực đáng kể, nhưng kết quả đánh giá cho thấy rõ là các
hoạt động phòng chống HIV/AIDS tại nơi làm việc chủ yếu chỉ tập trung nâng
cao nhận thức mà bản thân chất lượng của các hoạt động này còn cần phải được
xem lại. Các can thiệp khác vẫn chưa đáng kể. Thực trạng này là do các yếu tố
chính sau:
- Các văn bản pháp luật về HIV/AIDS quá chung chung, không có sự
hướng dẫn chi tiết về cách thức phòng chống và kiểm soát dịch bệnh. Do dịch
bệnh trong những năm 90 tập trung chủ yếu trong nhóm nghiện chích ma tuý và
gái mại dâm nên tất cả các nỗ lực của những chương trình quốc gia đều được
định hướng vào hai nhóm này, rất nhiều trong số đó chỉ mang tính thử nghiệm
mà không được tiếp tục thực hiện sau đó. Các hoạt động phòng chống
HIV/AIDS nhằm vào lực lượng lao động không nhận được sự quan tâm đáng kể
của Chính phủ.
- Cả người sử dụng lao động và người lao động đều thiếu những hiểu biết
về HIV/AIDS. Một điều có thể nhận thấy ở các doanh nghiệp là HIV/AIDS
không được coi là một vấn đề ở nơi làm việc.
- Các khoản phân bổ ngân sách cho các hoạt động phòng chống và kiểm
soát HIV/AIDS tại nơi làm việc còn rất hạn chế, một số các cơ quan và doanh
18


nghiệp thậm chí còn không được cân nhắc đến. Kết quả là các doanh nghiệp nói
chung không được chuẩn bị để giải quyết các vấn đề liên quan đến phòng chống
và kiểm soát HIV/AIDS và đặc biệt là việc giảm thiểu kỳ thị và phân biệt đối
xử. Hầu hết các doanh nghiệp không có các chính sách cũng như kế hoạch hành
động của riêng mình về HIV/AIDS. Người sử dụng lao động thường cảm thấy
bối rối về cách thức áp dụng các chính sách của Chính phủ vào trong các kế

hoạch và hoạt động của họ. Một quan niệm phổ biến đó là yêu cầu những người
bị nhiễm bệnh phải nghỉ ốm (điều này có thể dễ dàng dẫn đến bị thôi việc) hoặc
thay đổi để làm công việc phù hợp hơn (không được quy định rõ) vì lợi ích của
họ nhưng hơn thế là vì lợi ích của các doanh nghiệp.
- Giữa các doanh nghiệp nhận được lợi ích từ các dự án hỗ trợ quốc tế về
HIV/AIDS và những doanh nghiệp còn lại cũng có một khoảng cách. Trong các
doanh nghiệp thứ nhất, sự hiểu biết về các vấn đề liên quan đến HIV/AIDS được
nâng cao đáng kể do thường xuyên được thảo luận trong các cuộc họp của doanh
nghiệp và chương trình thông tin, giáo dục và truyền thông được thiết kế và thực
hiện tốt hơn. Trong các doanh nghiệp còn lại, hoạt động của họ được thiết kế
kém, rời rạc, không có sự hợp tác chặt chẽ và vẫn mang tính hình thức. Thậm
chí trong một số doanh nghiệp, không có bất cứ một hoạt động nào được tiến
hành.
- Các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân hầu như đều không tiến hành các
hoạt động phòng chống HIV/AIDS ngoại trừ một số các doanh nghiệp nước
ngoài. Các doanh nghiệp này kết hợp công tác phòng chống và kiểm soát
HIV/AIDS với các chương trình sức khỏe sinh sản.
- Thêm vào đó, hiện nay có một suy nghĩ khá phổ biến nhưng hết sức nguy
hiểm rằng HIV/AIDS không phải là một vấn đề ở nơi làm việc. Niềm tin sâu sắc
rằng chỉ tiêm chích ma túy hoặc mại dâm mới có thể lây nhiễm HIV/AIDS đã
dẫn tới việc đánh giá thấp khả năng HIV/AIDS có thể là một nguy cơ ở nơi làm
việc. Vì cả người sử dụng lao động và người lao động đều cho rằng họ không có
thời gian và tiền bạc để tham gia vào các hành vi “tệ nạn xã hội” và rất tự tin
19


tưởng họ miễn dịch đối với căn bệnh do vậy đó không phải là vấn đề mà họ cần
quan tâm. Niềm tin đó đặc biệt sâu sắc trong số phụ nữ ít có hành vi nguy cơ và
trong nhóm nam và nữ có trình độ học vấn thấp. Lối sống “đạo đức” được coi là
biện pháp an toàn nhất để tránh bị lây nhiễm loại virus chết người này.

Cuối cùng, nhận thức như vậy về sự lây truyền của căn bệnh và thái độ kỳ
thị cũng như các khuôn mẫu về những người bị nhiễm HIV đã dẫn tới quan niệm
sai lệch và đơn giản về cách phòng chống dịch bệnh chỉ đơn giản là không quan
hệ tình dục với gái mại dâm, chung thủy với vợ chồng và tránh xa khỏi ma túy –
và những thái độ/hành vi làm tăng sự kỳ thị và phân biệt đối xử như tránh tiếp
xúc thường xuyên với những người bị nhiễm HIV, cho thôi việc hoặc cách ly
như là một cách thức để bảo vệ doanh nghiệp và người lao động.
3. Giải pháp hỗ trợ giảm kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV
trong nơi làm việc tại tỉnh Thanh Hóa.
Sự kỳ thị đối với người nhiễm HIV đem lại nhiều ảnh hưởng tới cả cá
nhân , gia đình và cả cộng đồng nơi làm việc và sinh sống. Do đó cần có các
biện pháp hố trợ giảm kỳ thị đối với người nhiễm HIV tại làm việc.
* Về truyền thông giáo dục giảm kỳ thị tại nơi làm việc tại tỉnh Thanh
Hóa.
Đầu tiên, cần đẩy mạnh truyền thông giáo dục phòng chống HIV/AIDS và
chống kỳ thị nhằm nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi của mỗi
người trong nơi công tác làm việc theo hướng tích cực trong phòng chống lây
nhiễm và chống kỳ thị người nhiễm HIV/AIDS.
Truyền thông phòng chống HIV/AIDS và kỳ thị đối với người nhiễm HIV
tại nơi làm việc thường có các mục tiêu chính, cụ thể:
- Thay đổi nhận thức: Để hỗ trợ thay đổi nhận thức cần đẩy mạnh và tăng
cường hơn nữa cung cấp thông tin, chia sẻ kiến thức giúp cho mọi người hiểu và
nhận thức được các vấn đề liên quan đến HIV/AIDS từ đó góp phần làm giảm
kỳ thị tại nơi làm việc.
- Thay đổi thái độ: người nhiễm HIV luôn xuất hiện những cá nhân có
20


những tâm lý, suy nghĩ và thái độ chưa chính xác. Cần phối hợp vơi các sở, ban,
ngành để nỗ lực thực hiện tuyên truyền về thay đổi thái độ cho mọi người.

Thông qua đó mọi người có thái độ quan tâm, có quan điểm đồng tình với các
vấn đề trong truyền thông, góp phần giảm kỳ thị.
- Thay đổi hành vi: Hầu hết kỳ thị nơi làm việc biểu hiện rõ rệt nhất ở
hành vi của từng thành viên. Nơi công tác, làm việc tuyên truyền thay đổi hành
vi của mỗi người là đem lại hiệu quả của giảm kỳ thị rõ rệt nhất.
Bên cạnh đó, các hoạt động truyền thông cần thay đổi phù hợp, đổi mới
luân phiên để mọi người dễ tiếp thu cũng như dễ hiểu. Các thông điệp giảm kỳ
thị cần ngắn gọn những sung tích, dễ đi vào lòng người nghe từ đó bổ sung thêm
kiến thức cho mọi người. Các phương pháp truyền thông cần phong phú hơn.
Ngoài phát tờ rơi, truyền thông qua văn bản cần bổ sung thêm những buổi trò
chuyện về HIV và giảm kỳ thị với người nhiễm HIV, hay tổ chức những cuộc thi
tìm hiểu về HIV/AIDS.
* Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các ban ngành đoàn thể thuộc các
cấp, giám sát việc thực thi chính sách hiệu quả
Nhà nước đã ban hành các chính sách, luật pháp về HIV và phòng chống
lây nhiễm cũng như không kỳ thị với những người nhiễm HIV, đặc biệt là nhóm
làm việc còn công tác trên cả nước. Tuy nhiên các chính sách còn chưa được
thực hiện nghiêm túc và đầy đủ dẫn đến những thiếu sót trong việc thực hiện,
cũng như việc kỳ thị còn tồn tại khá nhiều tại các cở sở làm và trong toàn cộng
đồng.
Các cấp ban ngành đoàn thể cần nâng cao hơn nữa vai trò trách nhiệm của
bản thân. Đánh giá đúng năng lực từng cá nhân để thực hiện trách nhiệm của
mình hiệu quả nhất. Qua đó góp phần giảm thiểu kỳ thị đối với người nhiễm
HIV trong cộng đồng nói chung và tại nơi làm việc nói riêng.
Các hoạt động nhằm giảm thiểu phân biệt đối xử về việc làm liên quan
đến HIV/AIDS đến nay hầu như vẫn chỉ giới hạn trong các chương trình thông
tin, giáo dục và truyền thông. Mặt dù một số các hoạt động khác (phân phát bao
21



cao su, khám và điều trị STD) đã bắt đầu được tiến hành nhưng chủ yếu chỉ
được thực hiện trong các dự án thử nghiệm do các tổ chức quốc tế tài trợ. Tuy
nhiên, vẫn có nhiều câu hỏi được đặt ra về tính bền vững của các hoạt động này
sau khi dự án kết thúc.

22


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết Luận
Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người có HIV/AIDS hiện
nay tuy có giảm nhưng vẫn còn ở mức khá cao. Tự kỳ thị của bản thân và thái
độ kỳ thị của cộng đồng và gia đình ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của trẻ
nhiễm HIV. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử ngăn cản các em được đến trường,
được chăm sóc sức khỏe, và ảnh hưởng đến các sinh hoạt và vui chơi của trẻ. Do
đó, cho đến nay đa số người trả lời vẫn còn lựa chọn phương án che giấu thông
tin, hay là đi theo mô thức NÉ TRÁNH sự kỳ thị.
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng việc che giấu thông tin theo mô thức né
tránh hay di chuyển hoàn toàn không có lợi cho bé, cho gia đình và cho xã hội.
Do đó, Nhà nước nên khuyến khích người nhiễm HIV lựa chọn các mô thức
khác. Để giúp người nhiễm HIV/AIDS và gia đình họ trong việc lựa chọn một
mô thức hợp lý, các điểm chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV cần có bác sĩ
tâm lý xã hội trợ giúp. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy vai trò của chính
quyền, các tổ chức đoàn thể địa phương, và tính chủ động của các nhóm người
nhiễm HIV/AIDS là rất quan trọng. Điều này được thể hiện qua mô thức ĐỐI
ĐẦU và mô thức VƯỢT QUA SỰ KỲ THỊ. Kết quả cũng cho thấy: tuyên
truyền viên khi kết hợp được với chính quyền và đoàn thể địa phương thì sẽ tạo
ra sự thay đổi về thái độ kỳ thị rất nhanh. Do đó, việc thông tin và tuyên truyền
cần phải cụ thể hơn cho từng nhóm đối tượng/chủ thể khác nhau trong việc giảm
kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDS. Tuy sự kỳ thị đối với trẻ

nhiễm HIV hiện nay vẫn còn khá lớn, nhưng các thành viên trong gia đình đều
đã tỏ ra cảm thông và thương trẻ hơn. Họ tìm mọi cách để trẻ không chịu sự kỳ
thị của cộng đồng. Còn trong gia đình thì hầu như không có sự kỳ thị nào, mọi
sinh hoạt hay đồ dùng của trẻ có HIV đều được chia sẻ với các thành viên khác
trong gia đình.
Cuối cùng, chúng tôi cho rằng để giảm được sự kỳ thị của cộng đồng và
gia đình đối với trẻ có HIV/AIDS, cần có sự can thiệp của các cơ quan Nhà
23


×