Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

SKKN sử dụng video trong lớp học tiếng anh tại trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.08 KB, 29 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG VIDEO TRONG LỚP HỌC TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Họ và tên: HÀ THỊ LAN ANH
Chức vụ:

TTCM

Đơn vị công tác: THPT PHAN ĐÌNH PHÙNG

Quảng Bình, tháng 1 năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
SỬ DỤNG VIDEO TRONG LỚP HỌC TIẾNG ANH
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Quảng Bình, tháng 1 năm 2019


MỤC LỤC
MỤC LỤC ............................................................................................................ 1
MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT ......................................................................... 4
PHẦN 1: MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1


1.1. Lý do chọn đề tài:...................................................................................... 2
1.2. Phạm vi áp dụng đề tài: ............................................................................ 3
1.3. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................. 4
PHẦN 2: NỘI DUNG .......................................................................................... 5
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu: ................................................. 5
2.1.1. Thực trạng của việc ứng dụng video trong các bài dạy tại trường. ..... 5
2.1.2. Các khía cạnh tích cực của việc sử dụng video cho giảng dạy tiếng Anh . 6
2.2. Các giải pháp: ............................................................................................... 7
2.2.1. Giáo viên phải nâng cao trình độ chuyên môn về kỷ thuật số .............. 8
2.2.2. Lựa chọn các Video mang tính giáo dục cao .......................................... 9
2.2.3. Niềm đam mê tìm hiểu về công nghệ của giáo viên Tiếng Anh .......... 10
2.2.4. Mức độ sử dụng video trong lớp ........................................................... 11
2.2.5. Mục đích sử dụng các video clip trong giảng dạy ................................ 12
2.2.6. Một số bài dạy có ứng dụng Video phù hợp với từng chủ đề ............. 12
2.3. Rút ra bài học ............................................................................................. 14
PHẦN 3 KẾT LUẬN ......................................................................................... 16
3.1. Ý nghĩa của đề tài:...................................................................................... 16
3.2. Một số hạn chế của đề tài .......................................................................... 17
3.3. Kiến nghị, đề xuất: ..................................................................................... 17
3.3.1. Kiến nghị đối với các nhà quản lý giáo dục .......................................... 18
3.3.2. Kiến nghị đối với các giáo viên trung học phổ thông........................... 19
3.3.3. Những yêu cầu đối với học sinh ............................................................. 20


MỘT SỐ CỤM TỪ VIẾT TẮT
1. EFL: English as Foreign Language
2. EFT: English as Foreign Language Teaching
3. ESL: English as a Second Language
4. NS: Native Speakers



PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Sự ra đời và phổ biến của các công nghệ mới hơn như video và máy tính
cá nhân đã cho phép các giáo viên sử dụng rộng rãi các phương tiện hướng trong
việc dẫn học sinh học tập. Mặc dù các video clip và các phương tiện đa phương
tiện khác đã xuất hiện từ cuối những năm 1960 và ngày càng có nhiều nhà giáo
dục tìm đến các công cụ này như phương tiện giảng dạy. Tuy nhiên, việc thiếu
nghiên cứu tích cực trong lĩnh vực này đã khiến các tài liệu video phần lớn chỉ
được sử dụng trong các hội thảo và các tiết dạy có người dự giờ. Các ý tưởng
giảng dạy được trao đổi trong bài viết này tác giả thực hiện trong các tiết dạy ở
hầu hết các lớp được phân công.
Sử dụng video clip trong giảng dạy không phải là mới. Nó bắt nguồn từ
thời tiền sử khi những người được hướng dẫn sử dụng máy chiếu 16mm để cho
các sinh viên xem hang động và các ví dụ về quảng cáo tiếp thị của công ty bảo
hiểm trong các khóa học kinh doanh. ậy có gì mới? Có bốn thay đổi trong bốn
lĩnh vực:
(a) sự đa dạng của các định dạng video,
(b) sự dễ dàng mà công nghệ có thể tạo điều kiện cho ứng dụng của họ trong lớp
học,
(c) số lượng kỹ thuật video mà người hướng dẫn có thể sử dụng và
(d) nghiên cứu về học tập đa phương tiện cung cấp hỗ trợ lý thuyết và thực
nghiệm cho việc sử dụng chúng như một công cụ giảng dạy hiệu quả.
Máy chiếu PC hoặc Mac và LCD có loa có thể dễ dàng nhúng các video
clip để trình bày PowerPoint về hầu hết mọi chủ đề. Đề tài này xem xét những gì
chúng ta biết và không biết về việc sử dụng các video clip trong việc dạy và học
tiếng Anh.
Các giáo viên tiếng Anh thành công điều chỉnh các kỹ thuật giảng dạy
của họ để phù hợp với nhu cầu của học sinh và nhu cầu của xã hội mà họ đang
sống. Khi các phương tiện truyền thông mới đóng một vai trò quan trọng trong
cuộc sống của các sinh viên thế kỷ 21, việc thực hiện phương tiện truyền thông

mới như video clip, mạng xã hội vào các lớp học EFL là một trong những mối
quan tâm chính của sư phạm thế kỷ 21.
Ngoài ra, trong giảng dạy ngôn ngữ giao tiếp, tính xác thực là một tính
năng rất quan trọng của các bài học khi việc sử dụng các video clip trong các lớp
1


học EFL được thúc đẩy bằng phương pháp này. Do đó, các giáo viên tiếng Anh
được cho là sử dụng nhiều chủ đề và hoạt động khác nhau trong các lớp học
EFL của họ và mục tiêu của đề tài là trình bày lại những kinh nghiệm đã được
tác giả thực hiện thành công trong các lớp học Tiếng Anh.
1.1. Lý do chọn đề tài:
Là một giáo viên dạy tiếng Anh có hơn mười lăm năm kinh nghiệm và
luôn mong muốn tìm ra cách mới để thu hút học sinh sự chú ý trong mỗi bài
học, bản thân thường xuyên sử dụng các video clip như một nguồn tài liệu và
công cụ giảng dạy. Tuy nhiên, tôi càng áp dụng những tài liệu có sẵn này, tôi
càng muốn tận dụng tối đa lợi thế của chúng trong lớp học EFL. Tuy nhiên, bất
cứ khi nào tôi đưa ra vấn đề về hiệu quả và ứng dụng của video clip, luôn có
những ý kiến tranh cãi từ các giáo viên và thậm chí các sinh viên, từ đó đặt ra
câu hỏi nghiên cứu cho đề tài này.
Nghiên cứu này được thực hiện với các giáo viên tiếng Anh và học sinh
tại một trường trung học phổ thông nằm ở địa bàn thành phố Đồng Hới để áp
dụng việc sử dụng các video clip trong giảng dạy và học tiếng Anh giúp bài học
đạt được các mục tiêu của chương trình giảng dạy tiếng Anh. Yêu cầu chính là
việc giảng dạy bằng các video clip sẽ phát triển các kỹ năng giao tiếp của học
sinh và do đó, sẽ phù hợp với phương pháp giao tiếp với ELT.
Tác giả đã sử dụng các video clip trong các bài học tiếng Anh trong
trường cấp 3 với mục đích xác định lại những nghi vấn: các video clip được sử
dụng trong ELT ở mức độ nào, nhằm mục đích giáo viên và học sinh sử dụng
video clip, kinh nghiệm của giáo viên và học sinh sử dụng các video clip và

những gợi ý mà giáo viên khuyến nghị khi sử dụng các video clip trong giảng
dạy tiếng Anh.
Các video clip dường như có tác động tích cực đến sự phát triển của học
sinh bốn kỹ năng ngôn ngữ và tăng trưởng từ vựng, cũng như để thúc đẩy quá
trình sử dụng ngôn ngữ một cách thực tế và để dạy về văn hóa ngôn ngữ mục
tiêu. Nhìn chung, cả giáo viên và học sinh đều có thái độ tích cực với các bài
học với các video clip.
Đề tài được thực hiện một cách khoa học để tìm ra dữ liệu, và sau đó, để
kiểm tra từ đâu và làm thế nào giáo viên tiếp cận tiếng Anh. Xuất phát từ những
lý do trên tác giả đã lựa chọn đề tài "Sử Dụng Video Trong Lớp Học Tiếng
Anh Tại Trường Trung Học Phổ Thông".
2


1.2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Những đối tượng tham gia bao gồm hai nhóm: một nhóm gồm 80 học
sinh lớp 10,11 và 12 và nhóm còn lại gồm 8 giáo viên tiếng Anh tại một trường
trung học phổ thông, thành phố Đồng Hới:
Số lượng học sinh tham gia trong đề tài

120

Độ tuổi

15 - 18

Giới tính

Nữ: 67 , Nam: 53


Đã tiếp cận thời gian trong thời gian

5 - 9 năm

Trình độ nói Tiếng Anh

A1

Số lượng giáo viên tham gia trong đề tài

8

Độ tuổi

31 - 43

Giới tính

Nữ: 8 Nam: 0

Chuyên môn chính

Giáo viên Tiếng Anh

Thời gian kinh nghiệm trong lĩnh vực giảng
dạy Tiếng Anh
8 - 23 năm
Trình độ

Cử nhân sư phạm


Tất cả các học sinh được lựa chọn ngẫu nhiên của 3 lớp 12D2, 11D1, 10D1 Các
em đã học tiếng Anh ít nhất năm năm tại trường trung học cơ sở nơi dạy tiếng
Anhnhưng ít có điều kiện giao tiếp bằng Tiếng Anh. Họ không có nhiều cơ hội
để giao tiếp hoặc tương tác với nhau bằng tiếng Anh. Các công cụ và nguồn tài
liệu được sử dụng để giúp họ yêu thích và cải thiện tiếng Anh của họ ít được
khai thác và phát triển. ì vậy, họ thường cảm thấy ngại ngùng và sợ mắc lỗi vì

3


thiếu kiến thức về phát âm cũng như giọng nói của họ; hoặc thậm chí họ cảm
thấy nói là nhàm chán và không cần thiết.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Sử dụng các công nghệ mới đơn giản là vì chúng có sẵn hoặc hiệu quả
về chi phí không phải là lý do đặc biệt để kết hợp chúng làm công cụ giảng dạy.
Khi xác định có nên sử dụng video trong lớp học hay không, việc xem xét các
nguyên tắc học tập và tác động của video đối với quá trình học tập là thiết yếu.
ì vậy tác giả đã đặt ra mục tiêu của nghiên cứu này nhằm thúc đẩy học
sinh trong học tập.
Áp dụng các video vào các bài dạy cụ thể, vào các lớp học cụ thể. So
sánh kết quả đối với các tiết học không có ứng dụng ideo.

4


PHẦN 2: NỘI DUNG
2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Trong dạy học ngôn ngữ thứ hai, các tài liệu video đã được chứng minh
là đặc biệt hữu ích vì một số lý do. Chủ yếu, các tài liệu này cung cấp cho học

sinh cơ hội trải nghiệm ngôn ngữ mục tiêu trong bối cảnh tự nhiên hơn. Ngôn
ngữ được trình bày theo một cách rõ ràng ít cấu trúc hơn. Thông qua việc sử
dụng các tài liệu video, tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, học sinh có cơ hội quan
sát và tham gia trải nghiệm học tập tích cực hơn, đồng thời tối đa hóa việc sử
dụng một số kỹ năng nhận thức.
2.1.1. Thực trạng của việc ứng dụng video trong các bài dạy tại trường.
Nhìn chung, người ta nhận ra và chấp nhận rằng người học nên được
trình bày với sự đa dạng về kinh nghiệm học tập dựa trên các phương pháp khác
nhau để tối đa hóa việc tiếp thu kiến thức. Hơn nữa, người học nên được cung
cấp nhiều cơ hội để tương tác với môi trường (Nemirovsky, R, 2004). Thông
qua việc sử dụng đa phương tiện trong lớp học, đặc biệt là dưới dạng tài liệu
video, học sinh có thể trải nghiệm cùng với người bản ngữ (NS) sử dụng ngôn
ngữ ở nhiều cấp độ khác nhau mà thông thường họ có thể bị cản trở hoặc hạn
chế. Tài liệu video có thể giúp vượt qua các trở ngại để tương tác như vị trí thực
tế và thiếu cơ hội gặp NS. Các nhà giáo dục ngôn ngữ có trách nhiệm cung cấp
cho sinh viên một số kỹ năng nhất định cho phép họ thành công trong học tập,
tiếp thu các kỹ năng và kiến thức bằng tiếng Anh và có thể nói lên kiến thức đó
bằng tiếng Anh (Santagata, R, 2007).
Như vậy, các nhà giáo dục cần giúp học sinh tạo mối liên hệ giữa những
gì họ đang học trong lớp và ứng dụng vào cuộc sống thực hoặc các tình huống
trong thế giới thực. Đây là một ví dụ về cách các chương trình dựa trên đa
phương tiện có thể là một công cụ chuyển tiếp hiệu quả.
Trong thực tế để hướng học sinh của mình theo một tiết học có ý đồ thì
vẫn dễ hơn là một tiết học mà học sinh phát triển ngôn ngữ tự do. Bởi một lý do
là khả năng của học sinh về từ vựng, về kỷ năng ngôn ngữ còn quá thấp. Nhiều
học sinh nhút nhát trong giao tiếp. Trong một lớp học cũng chỉ có khoảng 5 đến
7 em có khả năng giao tiếp sơ khai về tiếng anh thì không có khả năng tự bản
thân tổ chức một phần trình bày có hiệu quả. Một số vấn đề thường gặp khi tiếp
nhận chương trình học:
5



Khó khăn

tỉ lệ

Chủ đề một số bài dạy còn chưa gần gũi và có phần gây nhàm chán đối 72%
với học sinh.
Nhiều hoạt động còn chưa phù hợp với trình độ cụ thể của học sinh.

55%

Cơ hội thực hành Tiếng Anh hạn chế

57%

Học sinh có thói quen viết ra giấy mà không nói.

38%

Một số học sinh lại giao tiếp nhiều hơn những học sinh khác.

45%

Học sinh sợ mắc lỗi trong qúa trình học (sợ không phát âm đúng từ nào 87%
đó, sợ nói sai câu…)
Học sinh có thể không hiểu sẽ làm gì trong các hoạt đông trong 1 tiết
học.

43%


ậy làm thế nào để hướng các em đến một thế giới ngôn ngữ trong
sáng.
2.1.2. Các khía cạnh tích cực của việc sử dụng video cho giảng dạy tiếng Anh
Các giáo viên, những người sử dụng video cho rằng học sinh của họ thu
được nhiều thông tin hơn, hiểu các khái niệm nhanh hơn và nhiệt tình hơn về
những gì họ đang học. ới video là một thành phần trong kế hoạch bài học chu
đáo, học sinh thường tạo ra các kết nối mới giữa các chủ đề chương trình giảng
dạy và khám phá các liên kết giữa các chủ đề này và thế giới bên ngoài lớp học.
Jaworski (1990, trang 63) lập luận rằng việc sử dụng băng video như một công
cụ giáo dục có một số vai trò tiềm năng bao gồm:
• Để bù đắp sự cô lập của những giáo viên hiếm khi nhìn thấy bên ngoài
lớp học của mình, bằng cách cung cấp cái nhìn thoáng qua của các giáo viên
khác tại nơi làm việc.
• Để cung cấp cơ hội để xem các phong cách giảng dạy khác và quan sát
chiến lược của giáo viên khác trong lớp học.
• Để cung cấp một phương tiện để ghi lại và xem xét lớp học của chính
giáo viên như một sự trợ giúp cho việc phản ánh về việc giảng dạy.

6


• Để cung cấp trải nghiệm được chia sẻ có thể tạo thành điểm bắt đầu
cho thảo luận về giảng dạy, dẫn đến việc xác định các vấn đề quan trọng và khả
năng làm việc về các vấn đề này trong lớp học.
Bằng chứng hiện tại (Borko et al., 2007) cho thấy rằng các video clip
bài học được sản xuất và sử dụng bởi các giáo viên trong trường học của họ là
phương tiện hiệu quả để khuyến khích thực hành phản xạ. Sự phát triển của một
cộng đồng trong đó giáo viên được đặt niềm tin trong thực tập sẽ cảm thấy thoải
mái và được hỗ trợ khi xem video của chính họ và đồng nghiệp của họ có thể là

một yếu tố quan trọng khác trong việc sử dụng hiệu quả video cho CPD.
McGraw (2007) lập luận rằng việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ trong giáo
dục giáo viên có thể:
• Nâng cao nội dung và kiến thức sư phạm của giáo viên thực hành.
• Thu hút giáo viên và học sinh cùng xem xét nhiều quan điểm và so
sánh các khóa học khác nhau.
Chắc chắn, dường như có một số sự đồng thuận xung quanh khái niệm
video clip về các bài học hoặc các tập giảng dạy như là phương tiện truyền
thông mạnh mẽ để kích động thảo luận và phản ánh giữa các giáo viên (Borko et
al., 2007; Sharpe et al., 2003). McGraw và cộng sự (2007, trang 118) đã kết luận
từ nghiên cứu của họ rằng: Đối với ý nghĩa đối với giáo dục và phát triển nghề
nghiệp, kết quả từ nghiên cứu này cho thấy rằng giáo viên được hưởng lợi, về cơ
hội học hỏi, từ việc tham gia thảo luận trường hợp với những người hiểu biết
hơn.
Santagata et al (2007, trang 125) cho rằng: Bởi vì video có thể được
phát đi phát lại và truy cập bằng kỹ thuật số, nó cho phép độ sâu của sự phản
chiếu và phân tích không thể thực hiện được trong quá trình quan sát trực tiếp.
Dạy học là một hoạt động văn hóa, và các thói quen văn hóa dễ dàng được tiết lộ
hơn khi quá trình giảng dạy bị chậm lại và phân tích nghiêm túc.
2.2. Các giải pháp:
Mục đích của đề tài này là ứng dụng các video clip trong các lớp học
EFL ở trường trung học phổ thông, đây không phải là vấn đề hoàn toàn mới
trong phương pháp giảng dạy tiếng Anh gần đây tuy nhiên sử phát triển về khoa
học kỷ thuật ở mức độ tối đa là một trong những yếu điểm của giáo viên. Nó đòi
hỏi giáo viên phải không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn, bên cạnh
đó là niềm đam mê với nghề nghiệp.
7


2.2.1. Giáo viên phải nâng cao trình độ chuyên môn về kỷ thuật số

Trong cuộc sống hiện đại của chúng ta, với tốc độ phát triển nhanh của
công nghệ, sẽ thật lãng phí nếu giáo viên không chú ý đến việc sử dụng các
nguồn tài liệu kỹ thuật số và công nghệ để việc giảng dạy của họ hiệu quả, ấn
tượng và thành công hơn. ideo clip đã được sử dụng trong giảng dạy tiếng Anh
bởi một số lượng lớn giáo viên trong các trường học. Tuy nhiên, người ta không
quan tâm nhiều đến việc video clip có thể được sử dụng hiệu quả như thế nào và
thậm chí mức độ thường xuyên sử dụng video clip hay để làm gì. Sau một năm
nghiên cứu, tác giả đã tìm ra rất nhiều ý tưởng thú vị về điều này.
Điều đầu tiên để điều tra là tần suất sử dụng các video clip. Như chúng
tôi đã phân tích ở trên, hầu hết các giáo viên đã có cơ hội sử dụng các video clip
trong các bài học của họ. Họ luôn nghĩ về cách mà họ có thể khai thác việc sử
dụng các phương tiện trực quan nhằm thu hút học sinh tốt hơn và tạo ra không
khí giảng dạy và học tập ấm áp hơn. 50% giáo viên đồng ý với tuyên bố rằng họ
đã sử dụng các video clip để phá băng và làm nóng lớp học. Kết quả này có ý
nghĩa rất lớn đối với các sự kiện trong lớp, trong đó có thể thấy các giáo viên
thường sử dụng công nghệ nói chung và video nói riêng trong giảng dạy của họ.
Điều này có thể hiểu được, khi chúng tôi xem xét sự phổ biến rộng rãi của các
trang web truyền thông như youtube và vimeo, và giáo viên tiếng Anh được coi
là tích cực hơn trong việc khám phá các khả năng giảng dạy của chính họ so với
các giáo viên bộ môn khác (Borg, 2014)
Các giáo viên càng dành nhiều thời gian để lựa chọn các video clip phù
hợp để sử dụng, họ càng hiểu rõ hơn về các hiệu ứng mà họ có thể mang lại.
Dạy tiếng Anh, một cách tự nhiên, là dạy một ngôn ngữ mới, trong đó chúng ta
phải tập trung nhiều vào việc thực hành các âm thanh, cách phát âm, cấu trúc
mới, v.v. Gần 60% giáo viên yêu cầu đồng ý rằng họ đã sử dụng các video clip
để giúp học sinh của mình thực hành các ngôn ngữ mới trong khi giảng dạy;
68,6% giáo viên cho rằng họ đã sử dụng các video clip để giới thiệu chủ đề mới.
Các giáo viên không chỉ sử dụng các video clip để làm cho các bài học thú vị
hơn, mà với mục đích giúp học sinh tiếp cận ngôn ngữ mới dễ dàng hơn và ghi
nhớ kiến thức mục tiêu tốt hơn.

Giáo viên phải là người nắm rõ các thao tác cắt, nối các file âm thanh,
file hình ảnh, làm rõ thêm âm thanh, che các phụ đề. Nhằm mục đích lựa chọn
các clip cần thiết cho 1 bài dạy và giới hạn thời gian cho 1 Video.
8


Một vấn đề khác cần xem xét khi sử dụng các video clip cũng như khai
thác các nguồn nguyên liệu công nghệ là cơ sở đủ chính xác. May mắn thay,
không có nhiều giáo viên trong trường trung học ở thành phố Đồng Hới nơi
chúng tôi thực hiện đề tài cho thấy những ý tưởng tiêu cực của họ về việc thiếu
cơ sở vật chất trong trường của họ. Tuy nhiên, trong số này họ vẫn cảm thấy
không chắc chắn về việc liệu thiết bị của trường có thể được coi là hiệu quả hay
không. Điều này đặt ra một câu hỏi liệu chính các giáo viên có biết cách sử dụng
tốt nhất phương tiện này không.
Đa số các giáo viên được hỏi đồng ý rằng các video clip nên ngắn và
đơn giản, bao gồm 58,3% và 33,3% cho thấy sự không chắc chắn. Chỉ có 8,3
phần trăm không đồng ý với ý kiến đó. Điều này có thể được giải thích rằng các
giáo viên quan tâm đến việc tiết kiệm thời gian và giữ cho các video clip ấn
tượng mà không hiển thị dài dòng.
Mặc dù các video clip có thể được sử dụng như một công cụ hiệu quả
trong giảng dạy EFL, nhưng điều đó không có nghĩa là giáo viên có thể sử dụng
chúng một cách dễ dàng. Ngược lại, việc lạm dụng các video clip có thể mang
lại các tác dụng phụ như các hoạt động tiêu tốn thời gian, các tác động không có
tác dụng hoặc thậm chí gây khó chịu cho người học. Xin lưu ý rằng, 50% giáo
viên đồng ý rằng giáo viên nên xem xét các tác dụng phụ của việc sử dụng các
video clip trong các bài học của họ. Tuy nhiên, bản thân họ vẫn thấy khó có
cách khai thác tốt nguồn video clip trong giảng dạy. Do đó, nhiều người trong số
họ, với điểm trung bình dương là 3,8 (SD 0,9), đề xuất rằng các giáo viên nên
được đào tạo cẩn thận để áp dụng các video clip trong giảng dạy của họ.
2.2.2. Lựa chọn các Video mang tính giáo dục cao

Các video clip dần dần được coi là không chỉ hỗ trợ trực quan trong
giảng dạy, mà còn là một nguồn tài liệu tham khảo đạo đức. Theo chúng tôi,
giảng dạy không chỉ là công việc cung cấp cho sinh viên kiến thức ngôn ngữ, mà
còn là quá trình giáo dục.
Giúp học sinh cải thiện tư duy phê phán và cải thiện tính cách của chính
họ dường như là vai trò quan trọng nhất của giáo viên. Trong nghiên cứu này,
67% giáo viên được hỏi nói rằng học sinh của họ nhận thức được kiến thức cũng
như cải thiện tư duy phản biện thông qua việc xem các video clip giáo dục. Để
có cái nhìn khách quan về việc sử dụng các video clip trong giảng dạy, bản thân
tôi đã có một quan sát lớp trong đó các video clip được sử dụng.
9


Điều này giúp chứng minh rằng sự phát triển cảm xúc của học sinh nên
được cải thiện trong quá trình giảng dạy chỉ đơn giản với việc hỗ trợ sử dụng các
video clip tiết lộ các bài học đạo đức hoặc các đặc điểm văn hóa. Ngoài ra, với
sự trợ giúp của các video clip trong việc dạy tiếng Anh, giáo viên chúng tôi có
thể nhạy cảm hơn về nhận thức và hiểu biết của học sinh, để chúng tôi có thể
điều chỉnh các kỹ thuật giảng dạy của mình để đáp ứng nhu cầu của thanh thiếu
niên và tâm lý sâu sắc hơn hiểu về những thay đổi trong tâm trạng, cảm xúc của
họ hoặc thậm chí nắm bắt phản ứng của họ đối với các hoạt động học tập. Do
đó, chúng ta có thể tận dụng các video clip trong việc giáo dục giới trẻ tự trọng,
tình cảm, tình cảm và có trách nhiệm.
2.2.3. Niềm đam mê tìm hiểu về công nghệ của giáo viên Tiếng Anh
Giáo viên nhiệt tình mãi mãi là nhân tố chính giúp cho việc dạy và học
thành công. Thật lạc quan khi một số lượng lớn giáo viên sẵn sàng thử công
nghệ mới và sẵn sàng cải thiện chất lượng giảng dạy của họ. Tuy nhiên, áp dụng
các phương pháp giảng dạy mới không chỉ đòi hỏi thời gian và công sức mà còn
phải đúng cách. Đó là lý do tại sao nhiều giáo viên đồng ý rằng họ cần được đào
tạo tốt để có thể đáp ứng nhu cầu công việc giảng dạy, ngày càng trở nên khắt

khe hơn.
Để khai thác nguồn video clip, bản thân giáo viên gặp rất nhiều khó
khăn trong cách chọn video clip hay, cách sử dụng nội dung của video, cách thu
hút học sinh, chú ý, làm thế nào để không lãng phí thời gian sử dụng . iệc
không có đủ cơ sở vật chất hoặc trang thiết bị trong trường ngăn giáo viên thực
hiện công việc giảng dạy của họ một cách hiệu quả nhất. Hơn 86 phần trăm giáo
viên cảm thấy tiếc vì thiếu cơ sở vật chất trong trường khiến họ gặp khó khăn
trong việc áp dụng các phương tiện trực quan trong giảng dạy tiếng Anh.
Phát hiện quan trọng nhất là hầu hết các giáo viên đều ủng hộ và nhiệt
tình sử dụng các video clip. Mặc dù họ vẫn không chắc chắn về một số mục đích
hoặc một số tác dụng phụ trong việc sử dụng các video clip, họ đã gặp khó khăn
để tìm hiểu và cải thiện bản thân.
Không chỉ các giáo viên chủ yếu chấp thuận sử dụng các video clip,
nguồn tài liệu này được các sinh viên hoan nghênh và yêu thích mạnh mẽ, bởi vì
họ thực sự đánh giá cao cách giáo viên chuẩn bị và họ hiểu mục đích của việc sử
dụng các video clip không phải là để giải trí hoặc để thư giãn, nhưng để giới

10


thiệu kiến thức mới và thông tin mục tiêu cũng như giáo dục giới trẻ những bài
học đạo đức hoặc các kỹ năng xã hội thiết yếu.
Gần 60% học sinh tham gia đề tài đồng ý rằng giáo viên tiếng Anh của
họ có xu hướng sử dụng các video clip bất cứ khi nào họ có cơ hội và 74 phần
trăm cho rằng họ không chỉ học tiếng Anh mà cả các bài học đạo đức và thông
tin giáo dục từ các video clip, trong đó nhấn mạnh mạnh mẽ hiệu quả của việc
sử dụng các video clip cho cả việc giảng dạy và giáo dục học sinh.
Miễn là giáo viên và học sinh không ngần ngại áp dụng các video clip,
họ chắc chắn sẽ sử dụng nhiều hơn công cụ giáo dục và hữu ích này.
Không nhiều người đã chú ý nghiên cứu về việc sử dụng các video clip

trong giảng dạy tiếng Anh như một ngôn ngữ nước ngoài, và một số giáo viên
khi sử dụng vấp phải một số vấn đề về kỷ thuật. Là một giáo viên dạy tiếng Anh
đã giảng dạy tại một trường trung học phổ thông trong hơn mười năm, người
viết đã nghiêm túc nỗ lực tìm hiểu sự thật của việc sử dụng các video clip trong
trường học, với hy vọng sẽ sử dụng tốt hơn các phương tiện trực quan này, và
giúp các đồng nghiệp cũng như các nhà giáo dục có cái nhìn sâu sắc hơn về hiệu
quả của việc sử dụng nguồn tài liệu tham khảo này trong công việc giảng dạy.
2.2.4. Mức độ sử dụng video trong lớp
Sẽ rất bất lợi cho giáo viên nếu không biết lựa chọn thời điểm đúng đề
sử dụng ideo, vậy việc lựa chọn và tần xuất sử dụng cũng rất quan trọng để tạo
nên sự thành công cho bài học.
Như có thể thấy qua điều tra hơn 41% giáo viên được hỏi cho rằng họ
đã sử dụng các video clip để giảng dạy ít nhất một lần một tuần; hơn 60% đồng
ý hoặc đồng ý mạnh mẽ rằng họ có xu hướng nghĩ đến việc áp dụng các video
clip khi họ chuẩn bị cho các bài học và họ luôn nắm bắt mọi cơ hội sử dụng các
video clip như một công cụ hiệu quả trong công việc giảng dạy của mình. Chỉ có
hai giáo viên không đồng ý rằng họ sử dụng các video clip mỗi tuần một lần số
còn lại cho rằng việc sử dụng ideo thường xuyên giúp học sinh phát triển tốt
kỷ năng Nghe- Nói tốt.
Theo các học sinh, điểm trung bình của giáo viên của họ tần suất sử
dụng video clip là dương tính (4.3 với SD 0.8 cho lựa chọn rằng giáo viên của
họ đã sử dụng các video clip ít nhất một lần một tuần và 3.7 với SD 0.9 cho xu
hướng giáo viên của họ sử dụng các video clip bất cứ khi nào giáo viên có cơ

11


hội). Điều này cho thấy thái độ lạc quan của giáo viên cũng như học sinh đối với
việc sử dụng các video clip trong lớp học tiếng Anh.
2.2.5. Mục đích sử dụng các video clip trong giảng dạy

Giáo viên cần nắm rõ nguyên tắc trong việc lựa chọn ideo phù hợp với
chủ đề bài dạy. Nếu chọn 1 clip không liên quan đến bài dạy dẫn đến việc học
sinh không hiểu nội dung trọng tâm là gì? Mục đích của cô giáo khi cho học
sinh xem clip là như thế nào? Thậm chí một số em còn cho đây là hành động câu
giờ của giáo viên.
Trước khi cho học sinh xem 1 đoạn phim giáo viên cần nêu rõ mục đích
yêu cầu của mình là gì? Các em xem xong sẽ phải nắm bắt được điều gì qua
đoạn băng.
33% giáo viên hỏi không chắc họ có sử dụng các video clip trong các
bài học tiếng Anh để giới thiệu các ngôn ngữ hữu ích hay không: từ, cụm từ,
thành ngữ, cấu trúc, v.v., trong khi chỉ có 11,5% học sinh không chắc về điều
đó; 37,9% đồng ý mạnh mẽ và 42,5% đồng ý. Điều này tạo ấn tượng rằng các
học sinh đánh giá cao cách giáo viên của họ sử dụng các video clip trong việc
dạy họ kiến thức mới.
Một sự khác biệt đáng chú ý giữa thái độ và ý tưởng của hai nhóm là
trong khi 50% giáo viên không đồng ý rằng họ sử dụng video clip chỉ để giải trí,
10,3% học sinh đồng ý với điều đó và hơn 40% không chắc chắn về điều đó.
Điều này dường như có nghĩa là việc giáo viên sử dụng các video clip không
thực sự hiệu quả hoặc đơn giản là không tạo ấn tượng về những gì họ sử dụng
các video clip để làm.
2.2.6. Một số bài dạy có ứng dụng Video phù hợp với từng chủ đề
Chủ đề bài học là cuộc sống dưới đại dương, Unit 9 English 10
Undersea World. Lesson Reading, Speaking. Giáo viên đã lựa chọn những
thước phim về cuộc sống dưới đáy đại dương (5-8 phút), về những tác động gây
ảnh hưởng đến môi trường sống dưới đáy đại dương, về những khái quát sơ bộ
của sự hình thành và phát triển về đại dương. Học sinh đã rất thích thú và chăm
chú quan sát. Sau khi xem xong những thước phim về việc săn bắn các heo, các
voi, cá mập của người dân ở các vùng biển học sinh đã nêu lên được một số ý
tưởng để bảo vệ loài động vật quý hiếm này.
Chủ đề bài học là giới thiệu về một số công viên quốc gia trên thế giới,

công viên quốc gia của iệt Nam. Unit 11 English 10 National Park. Lesson
12


Reading. Giáo viên đã lựa chọn một số clip hay về các công viên quốc gia lớn
trên thế giới và ở iệt Nam, nơi bảo vệ và bảo tồn nhiều loài động vật, thực vật
quý hiếm (5-8 phút). Clip đã thu sút được sự chú ý của học sinh bằng hình ảnh,
âm thanh của thiên nhiên. Qua bài học, học sinh yêu thích quan sát, tìm hiểu về
thiên nhiên. Học sinh đưa ra được các ý tưởng về bảo vệ, xây dựng các công
viên quốc gia nơi môi trường sống của các loài động vật và thực vật hoàn toàn
giống với môi trường tự nhiên của chúng.
Chủ đề bài học là nói về các hoạt động thường ngày của em. Unit 1
English 10. A day in the life of... Giáo viên thực hiện trong 8- 10 phút (có kết
hợp cả phần before you speak); chia lớp thành 4 nhóm, yêu cầu học sinh chú ý
xem đoạn video clip về các hoạt động hàng ngày, có minh hoạ bằng hình ảnh
trên nền một bài hát nhẹ nhàng, đồng thời phải viết được các hoạt động nhìn
thấy trên màn hình theo thứ tự xuất hiện.
Sau đó, gọi đại diện của 4 nhóm công bố đáp án của họ trước lớp (dưới
dạng trò chơi). Tiếp theo, chiếu lại đoạn video clip, và cùng cả lớp kiểm tra lại
đáp án. Bằng cách này, người dạy không chỉ thu hút sự chú ý của học sinh ngay
từ đầu mà còn cung cấp cho người học một số cấu trúc hay dùng để nói về hoạt
động hàng ngày của mình bằng tiếng Anh. Từ đó, học sinh có thể bắt chước và
thực hành dễ dàng hơn.
Chủ đề bài học là tìm hiểu về tiểu sử của một nhân vật nổi tiếng. Unit 3
English 10 People's Background. Phần này thực hiện trong vòng 7 - 8 phút
gồm cả phần before you read. Giáo viên yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm 4
người, theo dõi đoạn video và kể lại về cuộc đời của Marie Curie. Giáo viên tạo
một video clip về Marie Curie dưới dạng một câu chuyện kể bằng tranh trên nền
nhạc nhẹ nhàng. Sau đó, gọi một học sinh đại diện lên kể về cuộc đời của Marie
Curie trước lớp theo trí nhớ của họ sau khi xem đoạn video và dẫn vào bài học.

Với phần này, học sinh sẽ tâp trung tới nội dung của bài học hơn. Không
những thế, còn có cơ hội mở rộng kiến thức về những người nổi tiếng của Việt
Nam và thế giới và cả cách nói về tiểu sử của người nào đó.
Chủ đề bài học là nói về tình bạn. Unit 1 English 11. Friendship. Với
thời gian 8 - 9 phút, gồm cả phần before you read, giáo viên yêu cầu học sinh
xem đoạn video clip của bài hát Friends are quiet angels và liệt kê những điều
tốt đẹp nhận được từ bạn bè thể hiện trong bài hát này. Sau đó, chiếu đoạn
video; gọi học sinh trả lời câu hỏi; dẫn vào bài học.

13


Chủ đề bài học là nói về cuộc sống trong tương lai. Unit 8 English 12.
Life in the Future. Giáo viên chiếu một đoạn phim khoa học viễn tưởng về
cuộc sống tương lai và yêu cầu các học sinh bày tỏ tình cảm của mình về tương
lai. Sau đó, gọi học sinh trả lời; giáo viên dẫn vào bài học. (Reading)
Chủ đề của bài học đó là cuộc sống gia đình. Unit 1 English 12 Home
Life. (Reading) Trong bài học, cô giáo dạy về sự hy sinh của cha mẹ. Cô ấy đã
sử dụng một video clip về câu chuyện Người mẹ một mắt. Đó là về một người
mẹ dành riêng con mắt của mình cho con trai mình khi anh gặp tai nạn khi còn
nhỏ. Nhiều sinh viên đã rơi nước mắt khi xem các video clip. Sau đó, khi giáo
viên hỏi họ về những gì cha mẹ đã hy sinh cho họ, rất nhiều học sinh có thể
thích hợp với sự tận tâm mà cha mẹ họ đã dành cho họ. Họ đã bị ảnh hưởng sâu
sắc bởi bài học đạo đức trong các video clip mà họ đã nói một cách xúc động về
cha mẹ tình yêu của họ và sự hy sinh cho con cái vào cuối bài học.
2.3. Rút ra bài học
Trang bị cho HS một khả năng Tiếng Anh tốt là một vấn đề cấp thiết
đối với đội ngũ G hiện nay. HS có khả năng Tiếng Anh tốt, trước hết đòi hỏi
HS phải qua một quá trình tiếp thu chủ động, có động cơ đúng, thái độ học tập
nghiêm túc và phương pháp phù hợp. Khả năng giao tiếp Tiếng Anh chính là

thước đo năng lực Tiếng Anh đang cần được nhìn nhận một cách khách quan
hơn.Trong thực tiễn giảng dạy bộ môn tại một trường THPT với đa số là học
sinh năng lực trung bình, để HS giao tiếp được bằng Tiếng Anh trong những
tình huống nhất định là điều không dễ. Tuy nhiên, với những giải pháp tích cực
được áp dụng một cách linh hoạt và có hệ thống đã mang lại những giá trị nhất
định trong việc nâng cao khả năng giao tiếp Tiếng Anh cho HS. Song song với
hoạt động giao tiếp, cần thiết phải trang bị cho HS những kiến thức cơ bản như:
Ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp........ cũng như chú trọng rèn luyện các kĩ năng khác
như: Nghe, đọc, viết.
Để hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục, đào tạo con người mới của thời đại
công nghiệp hoá, giáo viên phải đổi mới tư duy từ phương pháp giảng dạy đến
cách thức tổ chức giờ dạy cho có hiệu quả, đồng thời phải đáp ứng đúng mục
tiêu giảng dạy theo phương pháp giao tiếp. Đặc biệt hơn với môn ngoại ngữ,
một trong những môn học chính yếu sẽ cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội hiện
đại hóa, mang con người chúng ta tiếp cận với môi trường, cuộc sống văn minh
ngày càng tốt đep hơn, giúp con người ngày càng hoà nhập vào thế giới hiện đại
14


để nâng cao kiến thức và sự hiểu biết có ích cho công cuộc xây dựng xã hội
hiện đại văn minh. Trên hết , với sự thông thạo Tiếng Anh ở mức độ cơ bản
trong trường cũng sẽ góp phần cho học sinh học lên tốt hơn hay có thể tìm được
một công việc tốt sau này. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều khía cạnh cần phải bàn
tiếp để tìm được nhiều biện pháp khả thi hơn trên cơ sở lý luận cũng như kinh
nghiệm thực tiễn để thực hiện công tác giảng dạy tốt hơn, có hiệu quả hơn.
So với những năm trước đây, rõ ràng chất lượng bộ môn Tiếng Anh có
chiều hướng khả quan ở cả 4 kỹ năng “ Nghe- Nói - Đọc - Viết” . Trong đó kỹ
năng nghe- nói được đặc biệt chú trọng hơn so với trước đây nên học sinh chúng
ta có tiến bộ ở kỹ năng này dù còn chậm . Vì thế trong thời gian tới tất cả giáo
viên chúng ta phải tiếp tục học tập phương pháp và biết vận dụng phù hợp vào

bài dạy với từng lớp từng đối tượng học sinh; đồng thời học nâng cao trình độ
chuyên môn, tích luỹ kinh nghiệm riêng của mỗi giáo viên…. Tất cả không
ngoài mục đích nâng cao chất lượng dạy và học.
Những nội dung mà tôi trình bày trên đây chỉ là sư tập hợp, đúc kết kinh
nghiệm của bản thân, phạm vi nghiên cứu hẹp, thời gian ngắn, tư liệu ít, do đó
còn nhiều thiếu sót. Song với mục đích nâng cao chất lượng giáo dục, tôi hy
vọng đề tài nhỏ này có thể góp một phần nâng cao kỹ năng nói cho học sinh. Rất
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp qúy báu từ thầy cô và các bạn đồng
nghiệp.

15


PHẦN 3 KẾT LUẬN
3.1. Ý nghĩa của đề tài:
Sau khi thực nghiệm đề tài: “Sử dụng Video trong dạy và học Tiếng
Anh ở trường trung học phổ thông” tôi thấy khả năng tiếp thu và thực hành
tiếng anh của học sinh trong lớp có tiến bộ rõ rệt. Các em không còn e ngại khi
sử dụng tiếng anh ngay cả trong giờ ra chơi. Nhiều em đã đạt kết quả cao trong
cuộc thi hùng biện tiếng anh của trường. Đặc biệt học sinh của tôi bắt đầu có
những đam mê trong việc học tiếng anh.
Lớp

12D2

11D1

10D1

Xếp loại


Khả năng tiếp thu và thực hành Tiếng Anh
Trước

Sau khi áp dụng thường xuyên

Giỏi

6.81%

19.68%

Khá

40.90%

58.27%

TB

50%

22.05%

Yếu

2.27%

0%


Kém

0%

0%

Giỏi

10.81%

29.88%

Khá

30.90%

54.22%

TB

50%

15.90%

Yếu

2.29%

0%


Kém

0%

0%

Giỏi

8.9%

15.9%

Khá

25.6%

35.8%

TB

55%

65%

Yếu

8%

0%


Kém

2.5%

0%

* Ngoài ra kỹ năng nói cũng được đánh giá trong suốt quá trình học tập
của học sinh. Chúng tôi ghi điểm cộng nhằm khuyến khích các em có ý kiến
hay, tích cực thảo luận nhóm và tích cực trả lời những câu hỏi gợi mở của giáo
viên. Điểm nói cũng có thể được ghi ở cột kiểm tra miệng (KTTX) .
Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng dạy bằng video clip có thể thúc
đẩy hiệu quả việc dạy ngôn ngữ giao tiếp, mang lại sự đa dạng trong các lớp học
ELT, thúc đẩy học sinh học ngoại ngữ, có lợi cho sự phát triển của bốn kỹ năng
16


ngôn ngữ và tăng trưởng từ vựng, bổ sung văn bản trong sách giáo khoa và tiếp
cận các chủ đề chương trình giảng dạy thông qua một phương tiện khác nhau.
3.2. Một số hạn chế của đề tài
Mặc dù nghiên cứu đã hoàn thành các mục tiêu đặt ra lúc đầu, nhưng nó
không thể tránh được một số hạn chế.
Đầu tiên, một hạn chế chính liên quan đến thời gian điều trị. Yếu tố thời
gian là rất quan trọng trong nghiên cứu hiện tại bởi vì dữ liệu hoàn toàn chính
xác sẽ không đạt được trong một thời gian ngắn.
Hạn chế thứ hai là quy mô của thí nghiệm còn nhỏ, nghiên cứu chỉ liên
quan đến hai nhóm 128 người tham gia. Mặc dù bảng câu hỏi đã được đặt và
thực hiện cẩn thận, không thể khẳng định rằng dữ liệu thu thập được có thể được
xem là câu trả lời điển hình trong phạm vi rộng
3.3. Kiến nghị, đề xuất:
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu về cách sử dụng các video clip trong

bối cảnh nghiên cứu, một trường trung học phổ thông ở thành phố Đồng Hới. Có
bốn câu hỏi nghiên cứu được đưa ra khi bắt đầu nghiên cứu, trong đó tập trung
vào mức độ video clip, được sử dụng; mục đích video clip đã được sử dụng cho
mục đích gì; làm thế nào các giáo viên và học sinh trải nghiệm các bài học bằng
cách sử dụng các video clip; và những gì giáo viên đề xuất về việc sử dụng các
video clip, dựa trên kinh nghiệm của chính họ.
Đầu tiên, nhà nghiên cứu nhận thấy rằng có một xu hướng tích cực của
việc sử dụng video clip trong việc dạy tiếng Anh. Cụ thể, phần lớn các giáo viên
và học sinh được hỏi đã xác nhận rằng các video clip thường được sử dụng trong
các bài học tiếng Anh, ít nhất một lần một tuần. Hơn nữa, giáo viên cũng có xu
hướng sử dụng các video clip như một công cụ giảng dạy hiệu quả bất cứ khi
nào có thể.
Thứ hai, giáo viên đã thiết kế các hoạt động để sử dụng các video clip
một cách có chủ ý và chủ yếu là để giới thiệu ngôn ngữ mới như từ vựng, cấu
trúc, sự kiện, chủ đề, v.v. Họ đã có ý định ngụ ý vào các bài học giáo dục và
đạo đức thông qua các video clip. Mặc dù nhiều người trong số họ vẫn còn bối
rối về mục đích chính xác của việc sử dụng các video clip, nhưng hầu như
không có giáo viên hay học sinh nào nghĩ rằng các video clip chỉ được sử dụng
chỉ để giải trí hoặc cho mục đích giải trí.

17


Thứ ba, cả giáo viên và học sinh đều đưa ra những tuyên bố tích cực về
tính hữu ích của các video clip. Họ chủ yếu chọn cách mạnh mẽ - đồng ý các câu
trả lời cho các câu hỏi về việc học bài học với các video clip thú vị như thế nào,
các bài học trở nên ấn tượng và đáng nhớ như thế nào khi được dạy bằng các
video clip, v.v.
Càng nhiều giáo viên cố gắng điều chỉnh một video clip trong bài học
của họ, họ càng hiểu rõ hơn về hiệu quả của sự lựa chọn của họ.

Tuy nhiên, sử dụng các video clip dường như không dễ dàng cho cả học
sinh và giáo viên. Mặc dù nhiều video clip đã ở đây, nhưng chúng không phải
lúc nào cũng phù hợp và đủ ngắn hoặc đơn giản để giáo viên tải xuống và áp
dụng mà không cần bất kỳ sự điều chỉnh nào. Điều này đòi hỏi không chỉ những
nỗ lực mà cả kinh nghiệm và kỹ năng. Do đó, nhiều giáo viên tuyên bố rằng họ
cần được đào tạo để sử dụng tốt nhất các video clip trong việc dạy ngôn ngữ như
tiếng Anh.
3.3.1. Kiến nghị đối với các nhà quản lý giáo dục
Các cấp quản lý giáo dục đóng một vai trò quan trọng trong việc làm
cho việc áp dụng các video clip cũng như các công cụ hỗ trợ giảng dạy khác
trong các lớp học tiếng Anh ở trường trung học hiệu quả hơn. Để giúp giáo viên
và học sinh thành công trong giảng dạy và thực hiện các phương pháp giảng dạy
mới, các quản trị viên nên xem xét những điều sau đây.
Đầu tiên, Bộ Giáo dục và Đào tạo nên tổ chức các hội thảo, hội nghị,
diễn đàn, các khóa đào tạo hoặc thậm chí các chuyến thăm tới các quốc gia và
tỉnh tiên tiến để giúp giáo viên nâng cao hiểu biết và kỹ năng khám phá các
nguồn tài liệu tham khảo và tài liệu cũng như cách áp dụng phương tiện dạy học
công nghệ trong giảng dạy của họ.
Thứ hai, các nhà quản lý giáo dục cấp tỉnh đã cung cấp một môi trường
phù hợp cho giáo viên và học sinh. Quy mô lớp học, lịch trình và khuyến khích
phải phù hợp (Quy mô phù hợp cho 1 lớp học Tiếng Anh có hiệu quả là từ 30-35
học sinh, giảm chuẩn cho giáo viên để học có thời gian nghiên cứu cho bài học).
Chính quyền tỉnh và Sở Giáo dục và Đào tạo nên đầu tư và trang bị cho các lớp
học các phương tiện cần thiết như máy tính, máy chiếu, bảng thông minh, bàn
ghế di động để phù hợp với quá trình dạy và học. Hơn nữa, các quản trị viên này
phải linh hoạt cho phép giáo viên thực hiện các thay đổi trong nội dung hoặc
hình thức hoạt động để dễ hiểu hơn và phù hợp hơn với sinh viên của họ. Các
18



hội thảo cấp tỉnh và các khóa đào tạo cũng nên được tổ chức để giúp giáo viên
sử dụng các video clip cũng như các nguồn công cụ giảng dạy khác một cách
hiệu quả trong lớp học của họ.
Cuối cùng, ban giám hiệu nhà trường phải cung cấp cho học sinh và
giáo viên những điều kiện học tập và giảng dạy phù hợp. Họ nên cho giáo viên
nhiều thời gian hơn để chuẩn bị kế hoạch và hướng dẫn học sinh tiếp cận những
bức ảnh, clip hoặc phim hoạt hình thú vị sau giờ học. Hơn nữa, hội đồng nhà
trường nên khuyến khích giáo viên tham gia các khóa đào tạo và hội thảo để họ
có thể nâng cao kiến thức về phương pháp và cách tốt hơn để áp dụng các video
clip trong các lớp học tiếng Anh của họ.
3.3.2. Kiến nghị đối với các giáo viên trung học phổ thông
Trong các lớp học tiếng Anh nơi có thể áp dụng các video clip, giáo
viên đóng vai trò là người hướng dẫn, cố vấn, điều phối viên và người hướng
dẫn. Do đó, họ đóng một phần quan trọng trong việc thực hiện thành công tài
liệu giảng dạy trực tuyến này.
Đầu tiên, giáo viên nên đặt mục tiêu tiếp tục học về công nghệ để có thể
khai thác các nguồn của video clip và các tài liệu khác một cách trôi chảy và
hiệu quả.
Thứ hai, giáo viên phải tham dự các khóa đào tạo và hội nghị của Bộ
Giáo dục và Đào tạo và Sở Giáo dục và Đào tạo để chia sẻ và nâng cao kiến
thức và kỹ năng khám phá và sử dụng các video clip cũng như các công cụ hỗ
trợ công nghệ khác. Các giảng viên sẽ giúp họ hiểu tất cả các tính năng và khía
cạnh quan trọng của các ứng dụng.
Ngoài ra, giáo viên nên quản lý thời gian để giúp mọi nhóm học sinh
trong quá trình học tiếng Anh. Học sinh phải được dành đủ thời gian để xem các
video clip, khoan các từ và cấu trúc, tiếp thu ngôn ngữ mới và hiểu các bài học
giáo dục ngụ ý trong mỗi video clip được sử dụng.
Hơn nữa, giáo viên nên áp dụng và điều chỉnh các video clip một cách
cẩn thận và đúng cách vì nếu họ không thể áp dụng hiệu quả sự trợ giúp này,
học sinh có thể thất vọng và chán với bài học, hoặc các hoạt động nên tốn thời

gian và các bài học sẽ không thành công.
Bên cạnh đó, giáo viên phải làm cho học sinh rõ ràng về mục đích sử
dụng video clip thông qua hướng dẫn, phiếu tự đánh giá và danh sách kiểm tra

19


để đảm bảo rằng việc sử dụng video clip trong các bài học của họ là cần thiết và
không chỉ để giải trí.
Cuối cùng, các tiêu chí đánh giá cần được làm rõ trước khi học sinh xem
các video clip cho bất kỳ mục đích nào. Được sử dụng làm công cụ hỗ trợ giảng
dạy, các video clip cần cải thiện rõ ràng không chỉ các phát âm, từ vựng và kiến
thức nền tảng liên quan đến các chủ đề hạn chế, mà còn cả tư duy phê phán của
họ và kỹ năng ngôn ngữ của họ là tốt. Điểm kiểm tra của học sinh không thể là
tiêu chí duy nhất để đánh giá, thay vào đó, tất cả các khả năng của học sinh nên
được xem xét. Mục đích cuối cùng của việc áp dụng các video clip là phản ánh
hiệu quả của việc dạy và học hơn là xếp hạng học sinh. Do đó, đánh giá truyền
thống chỉ nhấn mạnh điểm trong kỳ thi là không phù hợp nữa. Trong các trường
học, việc đánh giá không chỉ bao gồm điểm kiểm tra mà còn bao gồm các loại
đánh giá khác như quan sát trong lớp, học sinh biểu diễn và trả lời hàng ngày,
phỏng vấn, phản hồi từ giáo viên khác, phụ huynh, học sinh và thậm chí là bạn
cùng lớp. Theo cách này, học sinh được khuyến khích thể hiện thành tích của
mình trong bài tập về nhà hàng ngày, biểu diễn trên lớp, tạp chí và bài kiểm tra
và sẽ được thư giãn để làm bài kiểm tra cuối cùng và do đó học hiệu quả hơn
3.3.3. Những yêu cầu đối với học sinh
Học sinh đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của việc thực hiện
các video clip cũng như bất kỳ phương tiện dạy học nào khác. Để vượt qua
những khó khăn khi thực hiện các hoạt động và học tập hiệu quả hơn trong
tương lai, điều quan trọng là học sinh phải xem xét các đề xuất sau đây.
Trước hết, học sinh cần phải nhiệt tình, chăm chỉ, tích cực và có thái độ

tích cực trong quá trình xem video clip cho bất kỳ mục đích nào và thực hiện các
nhiệm vụ sau đó. Học sinh phải chú ý cẩn thận đến các video clip để sử dụng
chúng trong mỗi hoạt động được thiết kế. Ngoài ra, học sinh nên dành thời gian
để xem và chọn thông tin phù hợp nhất từ các video clip, hoặc để thực hành các
kỹ năng và kiến thức mà giáo viên yêu cầu họ thông qua việc sử dụng các video
clip.
Thứ hai, học sinh phải cố gắng tự cải thiện một số kỹ năng thiết yếu
như: kỹ năng khoan, diễn tập và trình bày.
Hơn nữa, dựa trên khuyến nghị của giáo viên, học sinh nên dành nhiều
thời gian để xem lại từ vựng, điểm ngữ pháp và cấu trúc câu được hiển thị trên
các video clip để có kết quả tốt hơn về quy trình dạy và học.
20


Cuối cùng, học sinh nên cởi mở hơn để lắng nghe giáo viên, bạn bè và
bạn cùng lớp nhận xét để họ có thể giảm thiểu điểm yếu và thành công trong các
bài học tiếng Anh.

21


×