Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

SKKN dạy bài chữ người tử tù của nguyễn tuân theo cấu trúc bài học mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.02 KB, 21 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY BÀI CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA
NGUYỄN TUÂN THEO CẤU TRÚC
BÀI HỌC MỚI

Quảng Bình, tháng 01 năm 2019



CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập -MỤC
Tự doLỤC
- Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY BÀI CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ CỦA
NGUYỄN TUÂN THEO CẤU TRÚC
BÀI HỌC MỚI
Họ và tên: Phan Thị Dị
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
Đơn vị công tác: Trường THPT Hoàng Hoa Thám

Quảng Bình, tháng 01 năm 2019


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết 29 – NQ/TW ngày 4/11/2013 “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp


dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy
móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự
cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng phát triển năng lực”.
Hầu hết giáo viên đã ý thức sâu sắc phải đổi mới phương pháp dạy học. Trong giảng
dạy, các thầy cô đã phát huy được tính tích cực chủ động của học sinh. Tuy nhiên, ví như
lời Leptôn – xtôi nói “Vấn đề không phải biết là quả đất tròn mà làm thế nào để biết được
quả đất tròn”. Chân lí là quý báu ? Nhưng cách tìm ra chân lí còn quý báu hơn nhiều. Vì
thế cái khó trong việc dạy văn không chỉ hiểu kiến thức cơ bản của tác phẩm mà làm sao
hướng cho học sinh thấu hiểu những trăn trở, thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm qua tác
phẩm là điều không dễ dàng.
Trên cơ sở gắn bó với nghề và bắt nguồn từ những băn khoăn, trăn trở trong quá trình
dạy học môn Ngữ văn, đặc biệt tiết giảng văn là làm thế nào có được một giờ học hiệu quả,
làm sao để học sinh có thể phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo vận dụng kiến
thức, kĩ năng của người học vào trong học tập đồng thời phát huy được năng lực vốn có
của học sinh. Điều đó đã thôi thúc tôi suy nghĩ để đưa ra phương pháp phù hợp trong quá
trình giảng dạy một số tác phẩm và có thể đáp ứng được phần nào định hướng giáo dục là
chú trọng, phát huy năng lực của học sinh. Vậy nên, tôi mạnh dạn đưa ra đề tài: Dạy bài
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân theo cấu trúc bài học mới, mong muốn tìm ra một
phương pháp cảm thụ phù hợp, đồng thời giúp học sinh có thể phát hiện những nét riêng,
những cảm xúc chân thật, sự sáng tạo của các em trong cảm nhận về một tác phẩm cụ thể.
2. Điểm mới của đề tài
Để trang bị cho học sinh một “chìa khóa” có thể “mở cửa” vào thế giới nghệ thuật
của tác phẩm Chữ người tử tù nói riêng và tác phẩm truyện ngắn hiện đại nói chung. Giáo
viên cần hình thành phương pháp phân tích, cảm thụ, khai thác các góc độ khác nhau trong
truyện để giúp học sinh đi vào khám phá tác phẩm, từ đó thấy được cái hay chiều sâu của
tác phẩm văn xuôi nói chung và thể loại truyện ngắn, đặc điểm phong cách truyện ngắn của
Nguyễn Tuân. Tìm hiểu về tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Chữ người tử tù đã có nhiều
công trình nghiên cứu, nhiều bài viết trình bày. Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ mới đề cập đến
một khía cạnh riêng lẻ về tác giả cũng như tác phẩm của ông theo nhiều phương pháp khác

nhau và có những phương pháp đã cũ. Nhận thức được điều đó, bản thân luôn mong muốn
tìm tòi để học sinh tiếp cận tác phẩm một cách hiệu quả nhất trong bài dạy Chữ người tử tù
theo cấu trúc bài học mới. Đề tài này, không phải là hướng đi mới mà chỉ là một phương
4


pháp cụ thể hóa vấn đề vào những tiết dạy cụ thể trong quá trình lên lớp hằng ngày của
giáo viên. Xuất phát từ yêu cầu mới của công việc giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm.
3. Phạm vi đề tài
Ở đề tài này, tôi cố gắng đi sâu vào phương pháp giảng dạy thiên truyện ngắn Chữ
người tử tù của Nguyễn Tuân theo cấu trúc bài học mới. Để có thể trao đổi một số kinh
nghiệm và đưa ra cách giảng dạy phù hợp. Trong quá trình soạn giảng, bản thân mong
muốn tìm ra hướng đi cụ thể để có thể định hướng cho học sinh phát huy được năng lực
sáng tạo trong việc chiếm lĩnh tri thức và kích thích hứng thú hơn trong quá trình học tập.
Theo chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo quyết định
711/QĐ - TTg ngày 13/6/2012 của thủ tướng chính phủ chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương
pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động sáng tạo và năng lực tự học của người học”. Vì vậy, giáo viên đứng lớp
không chỉ giúp học sinh nắm chắc văn bản, kiến thức mà cần có khả năng định hướng, dẫn
dắt học sinh hiểu sâu các vấn đề được giải quyết.

5


II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng việc dạy học tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân trong
nhà trường phổ thông hiện nay
Đa phần học sinh khi tiếp cận với tiết giảng văn chưa có thói quen chủ động tìm
kiếm, khám phá bài học, lười suy nghĩ. Hoặc chỉ biết suy nghĩ diễn đạt bằng những ý vay
mượn, bằng những lời có sẵn, lẽ ra phải làm chủ tri thức thì lại trở thành nô lệ của sách vở.

Học sinh chưa có hào hứng và chưa quen bộc lộ những suy nghĩ tình cảm của mình trước
tập thể, cho nên khi diễn đạt lời văn, học sinh cảm thấy khá khó khăn. Hơn nữa trong
chương trình, nội dung với nhiều bài không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại, xa lạ với
học sinh, gây khó hiểu.
Để phát triển năng lực của học sinh trong giờ Ngữ văn, cần đổi mới mạnh mẽ việc
thiết kế bài học từ phía giáo viên. Trong thiết kế, giáo viên phải cho thấy rõ các hoạt động
của học sinh chiếm vị trí chủ yếu. Với giáo viên, phương pháp thuyết trình nên giảm thiểu
tới mức tối đa, thay vào đó là tổ chức hoạt động cho học sinh. Vì vậy, giáo viên cần trăn
trở, tìm phương pháp đổi mới phù hợp với năng lực, lứa tuổi của học sinh để học sinh dưới
sự tổ chức, gợi mở dẫn dắt của giáo viên tự mình chiếm lĩnh văn bản, tự rút ra những kết
luận, những bài học cần thiết cho mình với sự chủ động tối đa. Có như vậy, học sinh mới
có hứng thú và cảm thấy mình cũng là người “đồng sáng tạo” với tác giả. Đặc biệt, khi tiếp
cận tác phẩm Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân, giáo viên cần giúp học sinh hiểu được
những nỗi niềm mà tác giả gửi gắm qua từng con chữ. Tác giả sinh ra và lớn lên đúng cái
thời thực dân đặt ách đô hộ lên đất nước ta, xã hội phong kiến đã suy tàn, những nho sĩ
cuối mùa trở thành lạc lõng. Gặp lúc Hán học suy vi, sống giữa buổi “Tây Tàu nhố nhăng”
những con người này mặc dù buông xuôi bất lực nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội
đương thời. Họ không chịu a dua theo thời, chạy theo danh lợi mà vẫn cố giữ “thiên lương”
và “sự trong sạch của tâm hồn”. Nguyễn Tuân gửi nỗi niềm tâm sự, sự bất mãn thời cuộc
vào trong các nhân vật của mình. Khi nhà văn sáng tạo nên tác phẩm cụ thể, bao giờ cũng
gửi gắm “tâm sự” và những đánh giá về “thế sự” của mình. Trên con đường đi tới ý đồ tư
tưởng nghệ thuật của tác phẩm, tác giả đã tốn bao nhiêu tâm huyết để tạo ra nội dung có
sức rung động và cảm hóa lòng người mà ta gọi là “nội dung biểu hiện” thường ẩn kín ở
tầng sâu ý nghĩa tác phẩm. Bởi vậy, khi dạy tác phẩm văn chương giáo viên cần chú ý tìm
lại những rung động sâu xa này của tác giả và hướng học sinh quan tâm tới thái độ, cảm
hứng sáng tạo, sự bình giá và tâm huyết nhà văn về cuộc sống. Nhưng để học sinh hiểu
được vấn đề mà tác giả trăn trở gửi gắm ở tác phẩm là điều không thể dễ dàng, hơn thế nữa
với một truyện ngắn Chữ người tử tù vừa mang âm hưởng cổ kính và vừa xen lẫn yếu tố
hiện đại, học sinh rất khó cảm nhận. Từ thực tế cho thấy, cách cảm nhận về tác phẩm của
các em vẫn đang ở độ khái quát ý chưa có chiều sâu vấn đề.

Trong quá trình giảng dạy tại lớp và qua khảo sát bài viết của học sinh tôi dẫn ra số
liệu lớp có chất lượng học như nhau:
6


Lớp
11E

Sĩ số
40

Tốt
2(5%)

Năng lực cảm thụ
Khá
Trung bình
9(22.5%) 15(37.5%)

Yếu
14(35%)

Bảng 1. Thống kê năng lực cảm thụ bài Chữ người tử tù năm học 2016 – 2017
Lớp
11E

Sĩ số
40

Tốt

2(5%)

Năng lực cảm thụ
Khá
Trung bình
11(27.5%) 16(40%)

Yếu
11(27.5%
)

Bảng 2. Thống kê năng lực cảm thụ bài Chữ người tử tù năm học 2017 - 2018
Với chỉ số như vậy, bản thân người dạy chắc hẳn ai cũng trăn trở, băn khăn và luôn
mong muốn tìm ra cách định hướng, dẫn dắt phương pháp phù hợp nhất để học sinh có thể
cảm thụ tác phẩm một cách sâu sắc và đạt hiệu quả hơn.
2. Dạy bài Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân theo cấu trúc bài học mới
Bằng kinh nghiệm rút ra từ quy trình giảng dạy tác phẩm ở đơn vị, người viết mạnh
dạn đưa ra những phương pháp mà mình cho là khả thi nhất để bổ trợ cho việc giảng dạy
thiên truyện Chữ người tử tù được tốt hơn.
2.1. Hoạt động khởi động
Hoạt động trải nghiệm giúp học sinh huy động vốn kiến thức và kỹ năng để chuẩn bị
tiếp nhận kiến thức và kỹ năng mới, tạo hứng thú để bước vào bài học mới. Giúp giáo viên
tìm hiểu xem học sinh có hiểu biết như thế nào về những vấn đề trong cuộc sống liên quan
đến nội dung bài học.
Trước khi vào bài học giáo viên tổ chức học sinh khởi động bằng cách giáo viên yêu
cầu học sinh nghiên cứu và chuẩn bị trước những hiểu biết về chữ Hán và thú chơi chữ
Hán của người xưa, mục đích vừa để kiểm tra lại kiến thức mà các em đã tích lũy được
trong cuộc sống vừa để các em bước đầu làm quen và chuẩn bị tâm thế sẵn sàng khám phá
tri thức mới của bài học.
Giáo viên giao nhiệm vụ (học sinh chuẩn bị trước) qua câu hỏi 1: Trình bày hiểu biết

của các em về chữ Hán và thú chơi chữ của người xưa ?
Học sinh trả lới trên các Sile, có hình ảnh minh họa.
Câu hỏi 2: Chọn đáp án và lí giải sự lựa chọn. Truyện Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân viết về:
- Chữ Hán và thú chơi chữ Hán của người xưa.
- Người tử tù Huấn Cao.
- Chữ của người tử tù Huấn Cao.
- Ý kiến khác
Yêu cầu: Câu trả lời ngắn gọn, được trình bày trên giấy A4.
GV nhận xét, đánh giá tinh thần, thái độ, kết quả thực hiện nhiệm vụ của HS.
7


Nối tiếp hoạt động của phần khởi động giáo viên dẫn dắt vào bài mới: Bài học hôm
nay, chúng ta sẽ cùng nhau tìm câu trả lời cho câu hỏi truyện Chữ người tử tù của Nguyễn
Tuân viết về vấn đề gì ? Từ đó các em sẽ hiểu thêm về một thú chơi tao nhã của người xưa
và đặc điểm phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân.
2.2. Hoạt động hình thành kiến thức
Hoạt động này giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua nhiệm vụ học tập
được giao.
2.2.1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần tác giả, tác phẩm
Thời đại tác phẩm ra đời, nhà văn sinh sống sẽ chi phối cái nhìn của nhà văn trong tác
phẩm, là tiền đề tạo nên chiều sâu trong nội dung nghệ thuật của tác phẩm. Kiến thức về
bối cảnh xã hội và văn hóa cũng như những hiểu biết về tác giả với nét tiểu sử, đặc trưng
tư duy và phong cách nghệ thuật là những thông tin vô cùng quan trọng hỗ trợ quá trình
tiếp cận và khám phá nghệ thuật trong tác phẩm. Giáo sư Phan Trọng Luận cho rằng “Tất
cả những gì nhà văn sáng tác đều có cội nguồn trực tiếp ở những sự kiện trong cuộc sống
riêng tư của anh ta, ở tâm tư tình cảm của nhà văn đó”. Những thông tin về cuộc đời tác giả
như năm sinh, quê quán, gia đình, việc học hành, tình cảm những thăng trầm trong cuộc
đời là điều kiện cần thiết để hiểu cặn kẽ thấu đáo về văn bản sẽ học. Không biết về tác giả

cũng như nét phong cách nghệ thuật của nhà văn thì khó lí giải được nội dung văn bản một
cách sâu sắc. Hiểu được thời đại ra đời của văn bản văn học, thời đại nhà văn sinh sống sẽ
là cơ sở nhìn nhận đánh giá quan niệm nghệ thuật về con người nhà văn.
Vì thế, để có cái nhìn bao quát về cuộc đời, phong cách, sự nghiệp sáng tác và vị trí
của nhà văn, yêu cầu học sinh không chỉ nghiên cứu kĩ phần tiểu dẫn trong sách giáo khoa
mà còn tìm đọc các tài liệu viết về nhà văn Nguyễn Tuân, sau đó soạn thành một bài tập có
thể trình chiếu được trên Powpoint. Lên lớp giáo viên yêu cầu một nhóm trình chiếu bài
tập, các nhóm khác nhận xét, thảo luận, rút ra kiến thức cơ bản cần nắm:
- Tác giả Nguyễn Tuân (1910 – 1987) sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học
đã tàn.
Là một tác gia lớn trong dòng văn học hiện đại của Việt Nam. Trước Cách mạng tháng
Tám, ông xoay quanh ba đề tài (chủ nghĩa xê dịch, quá khứ, trụy lạc) và sau cách mạng
tháng Tám dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
Là một phong cách viết văn tài hoa uyên bác, nét phong cách ấy thống nhất trong cả
hai giai đoạn sáng tác trước và sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Nguyễn Tuân thường
quan sát sự vật ở góc độ thẫm mĩ và miêu tả con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ.
Là một nhà văn “Suốt đời đi tìm cái Đẹp, cái Thật” (Nguyễn Đình Thi), tự nhận mình
là người “sinh ra để thờ nghệ thuật với hai chữ viết hoa”.
- Tác phẩm: Truyện ngắn Chữ người tử tù (ban đầu có tên là Dòng chữ cuối cùng) in
năm 1939 trên tạp chí Tao Đàn, sau đó được in trong tập truyện Vang bóng một thời đổi tên
thành Chữ người tử tù (1940). Vang bóng một thời gồm 11 truyện ngắn viết về “một thời”
đã qua nay chỉ còn “vang bóng”, là tác phẩm kết tinh tài năng của Nguyễn Tuân trước Cách
8


mạng, được nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét là “ một văn phẩm đạt gần tới sự toàn
thiện, toàn mĩ”, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền
của dân tộc.
Trên cơ sở đã dặn các tổ, nhóm học sinh chuẩn bị trước tìm đọc Vang bóng một thời,
lên mạng tìm thêm các tri thức về tác giả, giáo viên gọi đại diện các nhóm bổ sung thêm

một số tri thức. Sau đó giáo viên kể một, hai câu chuyện trong Vang bóng một thời để cả
lớp hiểu rõ hơn về tập truyện ngắn này nói chung và có thêm cơ sở để phân tích Chữ người
tử tù nói riêng.
2.2.2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản
Đọc là hoạt động quan trọng và là bước đi đầu tiên khi tiếp xúc với tác phẩm, cũng là
khâu đầu tiên trong quá trình đọc - hiểu tác phẩm. Phương tiện biểu đạt của tác phẩm là
ngôn ngữ, do vậy đọc văn bản là quá trình làm sống động thế giới ngôn từ của tác phẩm.
2.2.2.1. Hướng dẫn học sinh đọc văn bản
Bước này yêu cầu học sinh đọc văn bản và chú thích. Giáo viên có thể giao nhiệm vụ
cho học sinh đọc trước ở nhà. Đến lớp chỉ đọc một đoạn hoặc diễn kịch một đoạn trong tác
phẩm và một vài lưu ý trong chú thích. Cần kiểm tra một số em xem ở nhà đã đọc chưa, vì
tác phẩm mà không tiếp cận thì rất khó mà cảm thụ.
Mục đích của việc đọc là người giáo viên hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh được tinh
thần của tác phẩm. Ở Chữ người tử tù đó là nắm bắt tình huống truyện, vẻ đẹp hình tượng
Huấn Cao, viên quản ngục và hội tụ cảnh cho chữ, nắm bút pháp miêu tả của Nguyễn Tuân
từ đó định hướng cho việc cảm thụ tác phẩm sâu và rõ.
2.2.2.2. Hướng dẫn học sinh tóm tắt văn bản
Giáo viên nên dành một khoảng thời gian ngắn cho học sinh tóm tắt văn bản để biết
các em có nắm được cốt truyện tác phẩm hay không, từ đó có cách định hướng phù hợp.
Huấn Cao là người cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình nên bị kết án tử hình.
Trước khi chịu án chém, ông bị đưa đến giam tại một nhà tù, biết trong danh sách có Huấn
Cao, người nổi tiếng viết chữ đẹp, viên quản ngục đã cho thầy thơ lại bảo người quét dọn
phòng giam nơi Huấn Cao và những người tử tù sẽ ở. Trong những ngày Huấn Cao ở tù,
viên quản ngục đã biệt đãi ông và những người đồng chí của ông. Sở nguyện của viên quản
ngục là xin được chữ viết của Huấn Cao. Lúc đầu Huấn Cao tỏ ý khinh miệt viên quản
ngục nhưng khi hiểu được tấm lòng viên quản ngục, ông đã quyết định cho chữ vào cái
đêm trước khi ông bị xử chém. Trong đêm cho chữ, ông Huấn tay viết như rồng bay
phượng múa trên tấm lụa bạch còn viên quản ngục và thầy thơ lại thì khúm núm bên cạnh.
Sau khi cho chữ, ông Huấn Cao khuyên viên quản ngục về quê để giữ cho “thiên lương”
trong sáng. Viên quản ngục nghe lời khuyên của ông Huấn Cao một cách kính cẩn “Kẻ mê

muội này xin bái lĩnh”.

9


2.2.2.3. Hướng dẫn học sinh phân tích văn bản
Giáo viên định hướng cho học sinh tìm hiểu, phân tích tác phẩm nhưng nhiều khi phải
khuyến khích các em tinh thần phản biện tìm tòi phát hiện những cái đẹp, cái hay (và cả cái
khiếm khuyết của tác phẩm) nghĩa là phát huy tinh thần dân chủ trong giờ học. Đồng thời
giáo viên phải sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học: khi thì phát vấn (có nhiều loại câu
hỏi: câu hỏi tìm hiểu, câu hỏi phát hiện, câu hỏi phân tích, câu hỏi bình giá, câu hỏi gợi
cảm xúc, câu hỏi khái quát và tổng hợp…); khi phân tích tổng hợp, khi diễn giải (học sinh
rất thích những lời diễn giải hay); có khi tạo ra những “khoảng lặng nghệ thuật” để học
sinh thẩm thấu tác phẩm.
Để dạy bài Chữ người tử tù, giáo viên phải định hướng giúp học sinh chủ động nắm
bắt những giá trị nội dung và nghệ thuật cơ bản sau đây:
a.Tình huống truyện
Một trong những khâu quan trọng nhất của nghệ thuật truyện ngắn là sáng tạo tình
huống truyện độc đáo. Giáo viên định hướng cho học sinh hiểu về tình huống truyện trong
truyện ngắn nói chung từ đó gợi ý học sinh thảo luận, trao đổi chỉ rõ trong truyện ngắn
Chữ người tử tù.
Giáo viên đặt câu hỏi: Tình huống truyện là gì ? Vai trò tình huống truyện đối với tác
phẩm tự sự ?
Nội dung cần đạt: Tình huống là “cái tình thế xảy ra truyện”, là khoảnh khắc mà trong
đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là cái“khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người” (Nguyễn
Minh Châu). Tình huống truyện còn được hiểu là mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật này
với nhân vật khác, giữa nhân vật và hoàn cảnh và môi trường sống, qua đó nhân vật bộc lộ
rõ tâm trạng, tính cách hay thân phận của nó, góp phần thể hiện sâu sắc tư tưởng của tác
phẩm.
Trên cơ sở học sinh đã đọc tác phẩm và chuẩn bị bài ở nhà, giáo viên yêu cầu học sinh

phát hiện tình huống truyện Chữ người tử tù là gì ? (học sinh trình bày bằng sơ đồ). Tác
dụng ?
Tình huống truyện Chữ người tử tù

Viết chữ đẹp
Huấn Cao

Không gian: ngục tù
Bình diện nghệ thuật
Tri âm, tri kỉ

Thích chữ đẹp
Viên quản ngục

Bình diện xã hội
Tử tù

Kẻ thù
Thời gian: Những ngày cuối của tử tù
10

Quản tù


Bằng sơ đồ cần dẫn dắt được: Tác giả đặt hai nhân vật (Huấn Cao – viên quản ngục)
trong mối quan hệ đầy éo le, trớ trêu: Hai người đối lập nhau về địa vị xã hội (Huấn Cao bị
xem là tên đại nghịch của triều đình - còn quản ngục là đại diện cho trật tự xã hội đương
thời) lại có điểm gặp gỡ chung đều là những con người có tâm hồn nghệ sĩ (Huấn Cao là
người sáng tạo ra cái đẹp – quản ngục là người biết trân trọng và thưởng thức cái đẹp). Nơi
mà hai tâm hồn tri kỉ gặp nhau lại là chốn tù ngục tăm tối, nhơ bẩn. Tác giả đã đặt hai nhân

vật trong tình thế đối nghịch nhau: người cho chữ là một tử tù, còn người xin chữ là một
quản ngục.
Chính tình huống độc đáo này đã làm nổi bật vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, làm
sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục, đồng thời cũng thể hiện sâu sắc chủ
đề của tác phẩm.
b. Nhân vật Huấn Cao
Giáo viên tổ chức học sinh cảm nhận về vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao.
Giáo viên đặt câu hỏi khái quát: Thông qua việc chuẩn bị bài, em có cảm nhận đầu tiên
như thế nào về nhân vật Huấn Cao. Học sinh trả lời.
Giáo viên dẫn dắt ý và gợi mở vấn đề: là nhân vật trung tâm của tác phẩm, Huấn Cao
hội tụ những nét đẹp rực rỡ nhất và cũng nơi nhà văn gửi gắm thông điệp nghệ thuật sâu xa
của mình. Tất cả được chạm khắc qua ngòi bút tài hoa, điêu luyện mà thấm màu sắc lãng
mạn của Nguyễn Tuân.
Giáo viên đặt ra câu hỏi: Tìm những chi tiết thể hiện về tài viết chữ của Huấn Cao ?
Nội dung cần đạt:
- Qua lời nói:
+ của quản ngục với thơ lại: người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất
nhanh và rất đẹp đó không ?
+ Chữ ông Huấn đẹp lắm, vuông lắm
+ Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu ở trên đời.
+ Nét chữ vuông tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con
người”.
- Qua thái độ và hành động: quản ngục liều chết để biệt nhỡn Huấn Cao (nói năng lễ
phép, đãi Huấn Cao rượu thịt), từng bước bày tỏ khát vọng xin chữ.
Giáo viên đưa ra câu hỏi: Nhận xét gì sự ngưỡng mộ về của quản ngục đối với Huấn
Cao, qua đó thể hiện quan niệm của Nguyễn Tuân ?
Nội dung cần đạt: Thái độ lời nói của quản ngục là phép đòn bẩy Nguyễn Tuân ca
ngợi vẻ đẹp tài hoa của Huấn Cao – một nghệ sĩ thư pháp. Nét chữ của Huấn Cao đẹp đến
nỗi làm người ta có thể đặt cao hơn sinh mạng và danh dự. Nét đẹp trong chữ viết của
Huấn Cao là nét đẹp có ý nghĩa lớn với cuộc đời, tồn tại vì con người.

Giáo viên có thể dùng tranh, ảnh, hoặc sử dụng máy chiếu giúp học sinh hiểu rõ hơn
về tài năng của Huấn Cao và một vài nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
11


Giáo viên mở rộng: Với Chữ người tử tù, ta có cơ hội hiểu thêm về một nghệ thuật cổ
truyền của người phương Đông nói chung và của dân tộc nói riêng qua tài năng của Huấn
Cao: nghệ thuật thư pháp (nghệ thuật viết chữ đẹp). Chữ ở đây là chữ Hán – thứ chữ khối
vuông, được viết bằng bút lông, nên có nét đậm, nét nhạt, vừa mềm mại, vừa sắc sảo, rắn
rỏi, chẳng những có tính chất tạo hình mà còn ít nhiều mang dấu ấn cá nhân. Người viết
chữ đẹp trở thành nghệ sĩ và viết chữ là một hành vi sáng tạo nghệ thuật. Hơn nữa, thư
pháp còn là ngành nghệ thuật của nhân cách, của tinh thần. Người viết chữ đẹp còn là
người có trình độ uyên bác, học vấn uyên thâm, có cốt cách thanh cao đáng kính trọng.Có
vốn hiểu biết về môn nghệ thuật thư pháp càng hiểu hơn về tài hoa và nhân cách của nhân
vật Huấn Cao.
Giáo viên cần định hướng để học sinh tìm tòi và cảm nhận: Khi vừa vào nhà giam
Huấn Cao đã có hành động gì ? Trong khi bị giam cầm, Huấn Cao đã đối xử lại sự dịu dàng
của quản ngục như thế nào ? Nhận xét về hành động và thái độ đó của Huấn Cao ?
Nội dung cần đạt:
- Lý tưởng sống cao cả: Huấn Cao dám chống lại triều đình mà ông căm ghét, hi sinh
hạnh phúc riêng vì sự nghiệp lớn -> đi tù và chịu án tử hình.
- Tư thế và hành động: có tài bẻ khóa vượt ngục-> vào tù ra tội, từng trải.
+ Hành động “rỗ gông” của Huấn Cao và thái độ “không thèm chấp” lời dọa dẫm của
tên lính áp giải -> Hành động ấy bộc lộ sức mạnh phi phàm, làm toát ra tư thế hiên ngang,
tinh thần bất khuất ngạo nghễ trước lao lung. Hình bóng Huấn Cao trở nên lồng lộng trong
thế giới tăm tối chốn ngục tù.
+ “Thản nhiên nhận rượu thịt” như “việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình” -> đó là
một phong thái tự do ung dung, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.
+ Dưới mắt Huấn Cao, việc những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chỉ là
“những trò tiểu nhân thị oai”. Ông trả lời quản ngục một cách khinh bạc đến điều. Đó là

một bản lĩnh cứng cỏi, khẳng khái, một khí phách hiên ngang.
Giáo viên đặt thêm câu hỏi: Tại sao viên quản ngục tỏ ra sợ sệt và khúm núm trước
Huấn Cao ? Thái độ đó cho thấy Huấn Cao là người như thế nào ?
+ Thái độ “lễ phép”, “xin lĩnh ý” và sự thừa nhận của ngục quan: Huấn Cao là “người
chọc trời quấy nước”, “đến trên đầu…còn chẳng biết có ai nữa”.
Giáo viên khái quát ý: Những chi tiết trên cho ta thấy Huấn Cao có nhân cách phi
thường, người quân tử anh hùng dũng liệt “bần tiện bất năng di, phú quý bất năng dâm, uy
vũ bất năng khuất”, một người văn võ song toàn, từ đó hiểu được quan niệm thẩm mĩ và
tấm lòng yêu nước thầm kín của nhà văn.
Giáo viên mở rộng: Trên cơ sở giáo viên gợi dẫn cho học sinh nhận biết nguyên mẫu
Huấn Cao là nhân vật nào trong lịch sử ? Nhân vật được sáng tạo từ nguyên mẫu Cao Bá
Quát – người đã đứng về phía nhân dân nghèo khổ, nổi dậy khởi nghĩa chống lại triều đình
mục nát. Huấn Cao có lẽ sống lớn cao đẹp. Sự nghiệp không thành, ông bị khép vào tội
phản nghịch và phải chịu án tử hình song ông không hề sợ hãi hay hối tiếc.
12


Giáo viên dẫn và chuyển ý: Thiết tưởng chỉ với hai nét đẹp trên, Huấn Cao đã đủ tạo
nên ấn tượng sâu đậm, bất tử trong lòng độc giả. Nhưng Nguyễn Tuân chưa dừng lại ở đó.
Ông tiếp tục hoàn thiện bức tranh chân dung về nhân vật của mình.
Giáo viên hỏi: Tại sao Huấn Cao lại nhận lời cho chữ viên quản ngục ? Học sinh cắt
nghĩa hành động đó.
Nội dung cần đạt:
+ Trước đó, Huấn Cao tỏ rõ thái độ lạnh lùng, kiêu bạc, thậm chí coi thường những trò
“tiểu nhân thị oai” của bọn lính lệ cũng như hành động kì lạ của viên quản ngục.
+ Sau hiểu tấm lòng của viên quản ngục: mỉm cười với thầy thơ lại -> chân thành, cởi
mở. Do cảm “tấm lòng biệt nhỡn liên tài” và hiểu ra “sở thích cao quý” của quản ngục,
Huấn Cao đã nhận lời cho chữ, chỉ cho những người biết trân trọng cái tài và yêu quý cái
đẹp.
Giáo viên gợi dẫn: Anh/chị cảm nhận như thế nào về câu nói của Huấn Cao với quản

ngục: “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” ?
Nội dung cần đạt: Bộc lộ lẽ sống của Huấn Cao: sống là phải xứng đáng với những
tấm lòng. Phụ tấm lòng cao đẹp của người khác là không thể tha thứ.
Giáo viên bình: Câu nói vừa thoáng một chút ân hận vì đã đối xử khinh bạc với quản
ngục, lại vừa rưng rưng niềm cảm động. Đó là một cách ứng xử đầy tôn trọng và trân trọng
của một tấm lòng, của một thiên lương trước một thiên lương. Là một người tài hoa, độc
đáo, sống mạnh mẽ, phóng khoáng vậy mà ông Huấn lại dành cho “kẻ thù” của mình
những lời tri ân cảm động như thế, quả là hiếm và đáng quý.
Giáo viên hỏi tiếp: Về việc cho chữ của mình, Huấn Cao đã tâm sự ra sao ? Từ đó,
nhận xét về nhân cách của Huấn Cao ?
Về việc cho chữ Huấn Cao tâm sự: Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà
ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường
cho ba người bạn thân của ta thôi. Huấn Cao vì chữ tình, chữ nghĩa, chứ không vì tiền bạc
hay uy quyền, cách xử sự này bộc lộ tính cách cương trực, trọng nghĩa, khinh tài. Cuộc
sống không hề gợn một chút cặn bã của danh lợi, nên ở ông còn có một tâm hồn cao
thượng.
Nói như Cao Bá Quát “Nhất sinh đê thủ bái hoa mai” (Cả cuộc đời chỉ cúi đầu trước
hoa mai), ở đây Huấn Cao cũng đã “cúi đầu” trước nhân cách và sở thích cao quý của quản
ngục và thơ lại. Cái cúi đầu ấy làm cho con người trở nên lớn lao hơn, đẹp đẽ, giàu chất
nhân văn hơn.
Giáo viên định hướng câu hỏi khái quát và mở rộng: Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp
của nhân vật Huấn Cao ? Quan niệm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân qua nhân vật này ?
Nội dung cần đạt: Bằng bút pháp lãng mạn, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng
Huấn Cao với vẻ đẹp hoàn hảo, hội tụ cả tài hoa, dũng khí và thiên lương. Qua đó, tác giả
thể hiện quan điểm thẩm mĩ về cái đẹp: cái đẹp phải là sự thống nhất giữa cái tâm và cái
13


tài, cái đẹp phải gắn liền với cái thiện “Bản thân cái đẹp chính là đạo đức” như cách nói
của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.

Đây là một quan niệm thẫm mĩ tiến bộ.
Giáo viên nâng cao: Huấn Cao là nghệ sĩ thư pháp tức là người “kết tinh”, lưu giữ vẻ
đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Qua đó, anh (chị) sẽ suy luận được điều gì ?
Nội dung cần đạt: Tình cảm yêu nước thầm kín của nhà văn: Yêu mến, ca ngợi Huấn
Cao, tiếc nuối những người như ông Huấn – mà Huấn Cao lại là người kết tinh, lưu giữ vẻ
đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc. Nhà văn kín đáo thể hiện tình cảm yêu mến, trân
trọng đối với những giá trị văn hóa truyền thống, tinh thần dân tộc, lòng yêu nước kín đáo
của nhà văn.
c. Nhân vật viên quản ngục
Giáo viên dẫn: Là nhân vật phụ của truyện ngắn, nhưng nhân vật quản ngục lại có sứ
mệnh nghệ thuật không nhỏ. Xuất hiện ngay từ những dòng đầu của tác phẩm, nhân vật
quản ngục đã mang đến cho người đọc ấn tượng về những điều khác lạ.
Giáo viên đặt câu hỏi: Đó là những điều khác lạ nào ? Nhân vật quản ngục được
NguyễnTuân xây dựng là con người như thế nào ?
Nội dung cần đạt:
- Cảnh ngộ: cai tù, chứng kiến bao điều “tàn nhẫn, lừa lọc… giữa một đóng cặn bả”,
cuộc sống này dễ đẩy con người vào chốn bùn nhơ.
- Thú chơi chữ, “sở nguyện cao quý” là được treo ở nhà riêng một đôi câu đối do tay
ông Huấn viết. Quản ngục có một tâm hồn nghệ sĩ, say mê và quý trọng cái đẹp.
+ Có tấm lòng “biết giá người, biết trọng người ngay”, cảm phục tài năng và nhân
cách Huấn Cao: thái độ cung kính, “biệt nhỡn liên tài” đối với ông Huấn.
+ Cái cúi đầu của quản ngục: tôn vinh một nhân cách, một tấm lòng, một sở thích. Tất
cả đều cao quý.
Đấy chính là phẩm chất khiến Huấn Cao cảm kích coi là “một tấm lòng trong thiên hạ”
và tác giả thì xem ngục quan là “một âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà
nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
Giáo viên hỏi: Theo anh(chị) qua nhân vật quản ngục, Nguyễn Tuân muốn thể hiện
những suy nghiệm nào về con người và cái đẹp ? Học sinh thảo luận, trả lời.
Giáo viên bình: Quan niệm nghệ thuật của nhà văn:
Trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa tâm hồn yêu cái đẹp, cái

tài. Không phải ai cũng xấu hết, bên cạnh những cái chưa tốt – phần “ác quỷ”, mỗi người
còn có “thiên lương”, có phần “thiên thần”. Có khi, có lúc, cái đẹp tồn tại ở trong môi
trường của cái ác, cái xấu, nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại, nó càng mạnh mẽ và
bền bỉ. Nó như hoa sen mộc trên đầm lầy.

14


d. Cảnh cho chữ
Giáo viên cho học sinh diễn kịch lại đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ, tạo thêm không
khí và ấn tượng cho học sinh về đoạn tả cảnh, tả người đặc sắc. Sau đó, giáo viên định
hướng học sinh cảm nhận .
Giáo viên hỏi: Nhà văn đã gọi cảnh cho chữ là gì ? Vì sao ? Học sinh phân tích.
Nội dung cần đạt: Hình ảnh cảnh cho chữ hiện lên ở cuối tác phẩm dường như là cảnh
tượng khó quên nhất trong tác phẩm. Một cảnh tượng khiến cho người đọc nhớ mãi. Hoàn
cảnh, địa điểm cho chữ “xưa nay chưa từng có”: việc cho chữ thường chỉ diễn ra ở những
nơi thư phòng, còn ở đây nó diễn ra giữa nhà tù – nơi ngự trị của bóng tối, cái ác, những
thứ thù địch với cái đẹp.
Tư thế của những người cho chữ, nhận chữ “xưa nay chưa từng có”: kẻ có quyền hành
thì không có “quyền uy”. “Uy quyền” thuộc về Huấn Cao – kẻ bị tước đi mọi thứ quyền.
Người nắm quyền sinh quyền sát thì khúm núm, sợ sệt trong khi kẻ tử tù thì ung dung,
đường bệ. Kẻ có chức năng giáo dục tội phạm thì đang được tội phạm “giáo dục”.
Giáo viên yêu cầu: Để khắc họa cảnh cho chữ, Nguyễn Tuân đã chủ yếu sử dụng thủ
pháp nghệ thuật nào ? Tác dụng của nó ? Học sinh phát hiện, phân tích hiệu quả nghệ thuật
của thủ pháp tương phản.
Nội dung cần đạt: Nghệ thuật tả cảnh, tả người: Thủ pháp tương phản: Sự đối lập giữa
ánh sánh và bóng tối: cái hỗn độn, xô bồ, nhơ bẩn của cảnh nhà giam và cái thanh khiết,
cao cả của nền lụa trắng, nét chữ đẹp đẽ; giữa kẻ tử tù đang ban phát cái đẹp và cái thiện
với viên quan coi ngục đang khúm núm, lĩnh hội, vái lạy. Làm nổi bật hình ảnh Huấn Cao,
tô đậm sự vươn lên, thắng thế của ánh sáng đối với bóng tối, cái đẹp đối với cái xấu xa,

nhơ bẩn, cái thiện đối với cái ác.
Giáo viên yêu cầu: Đọc đoạn văn tả cảnh ông Huấn Cao cho chữ, có người liên tưởng
đến một đoạn phim quay chậm. Anh(chị) nghĩ thế nào về ý kiến này (chú ý nhịp điệu câu
văn, chất tạo hình trong ngôn ngữ) và có nhận xét gì về chiều hướng vận động của đoạn
phim ? Học sinh phân tích nhịp điệu câu văn và giá trị tạo hình của ngôn ngữ.
Nội dung cần đạt: Nhịp điệu chậm rãi câu văn giàu hình ảnh:
Nhịp điệu câu văn chậm rãi gợi liên tưởng đến một đoạn phim quay chậm, từng hình
ảnh, từng động tác hiện dần lên dưới ngòi bút “đậm chất điện ảnh” của nhà văn:
“Một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân
gián”
“Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc
tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch…”
“Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng
tinh căng trên mảnh ván”
Từ bóng tối đến ánh sáng: Cảnh cho chữ bắt đầu được đặc tả bởi sự bao phủ của bóng
tối nhà lao… rồi dần dần nhen lên và rực rỡ ánh sáng.
15


Từ hôi hám, nhơ bẩn đến cái đẹp: Cảnh Huấn Cao cho chữ hiện dần lên trên ánh sáng
của bó đuốc tẩm dầu. Mỗi nét chữ hiện hình là cái đẹp nảy sinh.
Giáo viên có thể bình thêm: Nhịp điệu câu văn chậm rãi liên tưởng đến một đoạn phim
quay chậm, từ đó tạc vào vĩnh hằng cái đẹp. Thời gian sống của Huấn Cao không còn
nhưng cái đẹp mà ông sáng tạo nên đang đi vào cõi bất tử.
Giáo viên hỏi: Đến đây, ai có thể chỉ ra dụng ý tư tưởng của nhà văn ? (Nguyễn Tuân
muốn nhấn mạnh, khẳng định điều gì ?). Học sinh rút ra nhận xét về chủ đề tư tưởng của
tác phẩm.
Nội dung cần đạt: Niềm tin và sự khẳng định của nhà văn về sự chiến thắng của ánh
sáng đối với bóng tối, của cái đẹp đối với cái xấu xa, của cái thiện đối với cái ác.
Giáo viên hỏi: Sau khi viết xong bức châm, Huấn Cao đã khuyên quản ngục điều gì ?

Học sinh tái hiện và khám phá quan niệm thẩm mĩ của nhà văn.
Nội dung cần đạt: Huấn Cao khuyên quản ngục từ bỏ chốn ngục tù nhơ bẩn, tìm về
chốn thanh tao để có thể tiếp tục sở nguyện cao quý và giữ thiên lương cho lành vững.
Giáo viên bình: Di huấn của người tử tù và cũng chính là lời người nghệ sĩ Nguyễn
Tuân muốn nhắn tới người đọc lúc bấy giờ: Muốn chơi chữ phải giữ lấy thiên lương. Trong
môi trường của cái ác, cái đẹp khó có thể tồn tại vững bền. Chữ nghĩa và thiên lương
không thể chung sống với lũ người quay quắt nơi chốn ngục tù đen tối, tàn bạo. Lời nói của
Huấn Cao đầy ngụ ý, đầy sức gợi. Mấy người thưởng thức được mùi thơm của mực ? Hãy
biết tìm trong mực, trong chữ hương vị của thiên lương. Cái gốc của chữ chính là thiên
lương đó thôi. Chơi chữ đâu chỉ là chuyện chữ nghĩa. Đó là chuyện cách sống, chuyện văn
hóa.
Giáo viên hỏi: Ngục quan đã đáp lại lời khuyên chân tình của Huấn cao thế nào ?
Những biểu hiện đó ở ngục quan gợi lên trong lòng anh(chị) những suy nghĩ gì ? (Giáo
viên có thể gợi ý: về sức mạnh tác động của cái đẹp, cái thiện; về bản tính tự nhiên của con
người). Học sinh tái hiện và phân tích.
Nội dung cần đạt: Hành động bái lĩnh của ngục quan: “Ngục quan cảm động, vái
người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn
ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh””.
Cái đẹp, cái thiện có sức mạnh cảm hóa con người. Bằng con đường của trái tim, sức
mạnh ấy càng được nhân lên gấp bội.
Qua chi tiết này, Nguyễn Tuân thể hiện niềm tin vững chắc vào con người. Nhà văn
khẳng định: thiên lương là bản tính tự nhiên của con người. Dù trong hoàn cảnh nào, con
người vẫn luôn khát khao hướng tới chân – thiện – mĩ. Đây chính là chiều sâu giá trị nhân
văn của tác phẩm.
Giáo viên mở rộng: Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân vừa hiện thực vừa lãng mạn đã
dựng lên sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái thiện và cái ác, giữa cái cao cả và
thấp hèn. Đây không phải là cảnh cho chữ, viết chữ, mà là cảnh truyền ngôi thọ giáo, trao
chúc thư hay một mật ước thiêng liêng nhất. Ranh giới tội phạm - cai ngục đã bị xoá bỏ,
16



chỉ còn lại những người bạn tri âm tri kỷ đang quây quần xung quanh cái đẹp của tình đời
và tình người.
Để thấy được sự độc đáo trong bút pháp lãng mạn của Nguyễn Tuân, anh/ chị có nhận
xét gì về bút pháp xây dựng nhân vật, bút pháp miêu tả cảnh vật và nghệ thuật sử dụng
ngôn ngữ trong truyện ngắn Chữ người tử tù ?
Nội dung cần đạt: Tác phẩm Chữ người tử tù đã thể hiện được tài năng nghệ thuật của
Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo và sáng tạo (như đã nêu ở
mục a); bút pháp xây dựng nhân vật: tính cách và phẩm chất nhân vật được bộc lộ qua tình
huống truyện và thủ pháp tương phản, tâm lí nhân vật được khắc họa tinh vi qua những ý
nghị và hành động sử dụng triệt để thủ pháp tương phản đối lập, cách khắc họa nhân vật
theo bút pháp lãng mạn, làm nổi bật gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, lí
tưởng và hiện thực; bút pháp miêu tả cảnh vật: tạo không khí thiêng liêng cổ kính gợi lại
niềm đam mê của người xưa (nghệ thuật thư pháp); nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ: Sử dụng
ngôn ngữ giàu giá trị tạo hình (thể hiện rõ nhất trong đoạn văn tả cảnh, tả người ở cuối tác
phẩm), sử dụng nhiều từ Hán Việt trang trọng để tạo không khí thiêng liêng cổ kính (phiến
trát, thầy bát, thầy thơ lại, viên quản ngục, thiên lương, án thư, pháp trường, bộ tứ bình,
bức trung đường, bái lĩnh…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng.
2.3. Hoạt động luyện tập
Mục đích của hoạt động này là yêu cầu học sinh phải vận dụng những kiến thức vừa
học được ở hoạt động hình thành kiến thức mới để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể.
Thông qua đó giáo viên xem học sinh đã nắm được kiến thức hay chưa và nắm được ở mức
độ nào. Các bài tập/nhiệm vụ trong hoạt động thực hành tập trung hướng đến việc hình
thành các kỹ năng cho học sinh, khác với bài tập trong hoạt động hình thành kiến thức mới
chủ yếu hướng tới việc khám phá tri thức.
Câu hỏi 1: Viết một đoạn văn trình bày giá trị nội dung và nghệ thuật của thiên truyện
Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân.
Gợi ý: Bài tập yêu cầu học sinh cảm nhận khái quát về giá trị nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm, đồng thời chú ý đến kĩ năng xây dựng đoạn văn.
Đoạn văn tham khảo:

Chữ người tử tù trở thành bài ca về cái đẹp, về những con người tài hoa sống đẹp
và sáng tạo ra cái đẹp; là bài ca về lòng quý trọng cái đẹp cái tài; bài ca về sự gặp gỡ giữa
những tấm lòng đối với cái đẹp với nhân cách đẹp và những tấm lòng thiên lương với
nhau. Qua đó tác phẩm đã thể hiện được quan điểm thẩm mĩ của Nguyễn Tuân. Nhà văn
khẳng định cái đẹp phải gắn với cái thiện, cái đẹp phải có sức mạnh cảm hóa cái xấu, cái
ác; cái đẹp luôn chiến thắng và trở thành bất tử. Tác phẩm là một áng văn yêu nước, mang
tinh thần dân tộc đậm đà. Lòng yêu nước thầm kín nhưng thiết tha còn được thể hiện trong
hình tượng nhân vật Huấn Cao. Tác phẩm thể hiện tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân
trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo; trong nghệ thuật dựng cảnh, khắc họa tính
17


cách nhân vật, tạo không khí cổ kính trang trọng, trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và
ngôn ngữ giàu tính tạo hình.
Câu hỏi 2: Anh (chị)rút ra được bài học gì cho mình sau khi học xong tác phẩm.
Nội dung cần đạt: Tấm lòng yêu quý truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc.“Nhân
chi sơ tính bản thiện”. Hướng thiện, trọng chân, tìm mĩ là bản tính tự nhiên của con
người.Chữ người tử tù là bài ca bi tráng về sự bất diệt thiên lương, của tài năng và nhân
cách cao cả ở con người. Tài phải gắn với tâm. Chữ nghĩa đâu phải là chuyện chữ nghĩa.
Đó là chuyện của nhân cách, của thiên lương, của lối sống văn hóa.
Chữ người tử tù nêu lên bài học về thái độ tôn trọng tài năng, phẩm giá con người và
vẻ đẹp của một tấm lòng trọng nghĩa, một cách ứng xử cao thượng, đầy tinh thần văn hóa.
2.4. Hoạt động vận dụng – mở rộng, nâng cao (Chuẩn bị ở nhà trình bày vào tiết
sau)
Mục đích của hoạt động: Hoạt động này giúp học sinh sử dụng kiến thức, kỹ năng đã
học để giải quyết các vấn đề, nhiệm vụ trong thực tế. “Thực tế” ở đây được hiểu là thực tế
trong nhà trường, trong gia đình và trong cuộc sống của học sinh. Hoạt động này sẽ khuyến
khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của mình; tìm phương
pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những các giải quyết vấn đề khác nhau; góp phần hình
thành năng lực học tập với gia đình và cộng đồng.

Bài tập 1: Nhân vật Huấn Cao có gì giống và khác so với những hình tượng nho sĩ
trong tập Vang bóng một thời ? (Tìm đọc thêm các thiên truyện trong tập Vang bóng một
thời).
Bài tập 2: Suy nghĩ của anh/ chị về tâm và chữ tài trong con người và sáng tác của
Nguyễn Tuân.
3. Kết quả thực hiện
- Đối với giáo viên: Hình thành được một phương pháp phù hợp để đi vào khám phá
tác phẩm, từ đó thấy được cái hay chiều sâu của truyện ngắn nói chung và phong cách
truyện ngắn Nguyễn Tuân nói riêng. Là cơ sở khoa học để soạn giảng giáo án và lên lớp
một cách hợp lí.
- Đối với học sinh: Cảm thụ chiều sâu tác phẩm một cách sâu sắc qua một cấu trúc bài
học hợp lí, khuyến khích học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ học tập của mình, gây kích thích
vấn đề học sinh tò mò tìm hiểu.
Vận dụng những kinh nghiệm, phương pháp của bản thân dạy tác phẩm Chữ người tử
tù theo cấu trúc bài học mới vào lớp dạy cụ thể năm học 2018- 2019. Chúng tôi đã thu
được kết quả như sau:
Lớp Sĩ số
Năng lực cảm thụ
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
11C 37
5(13.5% 15(40.5%) 14(37.8%)
3(8.2%)
)
11E 38
5(13.2% 15(39.4%) 15(39.4%)
3(7.8%)
18



)
Bảng 3. Thống kê năng lực cảm thụ bài Chữ người tử tù năm học 2018 - 2019
So sánh với số liệu thống kê đã nêu ở phần thực trạng thì áp dụng các lớp theo phương
pháp cấu trúc bài học mới có nhiều tiến triển hơn.Tuy nhiên, việc tìm ra một phương pháp
tốt nhất và cho thực sự phù hợp với trình độ của người học không phải là việc làm tức thời,
đó là hành trình tìm tòi của cả một đời giảng dạy của người giáo viên.

19


III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài sáng kiến
Phân tích và khám phá tác phẩm văn chương là công việc vất vả của người giáo viên.
Làm sao để các em cảm thụ và yêu quý tác tác phẩm, rung động trước tác phẩm không phải
là điều dễ dàng. Nó đòi hỏi giáo viên không chỉ có tài mà còn phải có cái tâm. Trong bài
viết này tôi mới chỉ nêu ra hiểu biết của mình về việc cảm thụ một tác phẩm theo đúng cấu
trúc bài học mới và định hướng truyện ngắn Chữ người tử tù – khai thác theo con đường đi
tìm cái đẹp của nhân vật. Phân tích tác phẩm cũng không phải chỉ để hiểu rõ về tình huống,
nhân vật,… nội dung và nghệ thuật của tác phẩm mà còn thấy được bóng dáng của nhà văn
ở trong đó. Mục đích của tôi là đưa các em học sinh cảm nhận bằng tấm lòng vẻ đẹp của
nhân vật theo con đường tìm đến cái đẹp, nhờ đó các em sống lành mạnh, tốt đẹp hơn.

Trong quá trình thực hiện đề tài này, do điều kiện khách quan và chủ quan nên
bản thân chỉ mới thể hiện được một mức độ nhất định, hi vọng thắp lên một tia lửa nhỏ
khi tiếp cận với tác phẩm văn học theo cấu trúc bài học mới. Tôi rất mong nhận được
những lời trao đổi, góp ý chân thành của bạn bè đồng nghiệp để tiếp tục tìm tòi
nghiên cứu một phương pháp dạy học tối ưu nhất phù hợp yêu cầu đổi mới của xu
thế thời đạivà giúp các em tiếp cận đọc hiểu văn bản đạt kết quả tốt nhất.

2. Kiến nghị, đề xuất
Đối với Sở giáo dục: Duy trì thường xuyên tổ chức các hội thảo, chuyên đề vềphương
pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Đặc biệt trong tiết dạy cụ
thể của bài học nhằm giúp giáo viên học hỏi, trao đổi, thảo luận rút ra được những kinh
nghiệm bổ ích trong công tác giảng dạy của mình.
Đối với nhà trường và tổ chuyên môn: Nhà trường tạo điều kiện trang bị nhiều cuốn
sách mới về các phương pháp dạy học theo cấu trúc bài học mới, cách ứng dụng công nghệ
thông tin phù hợp của bài học. Trong các tiết sinh hoạt tổ chuyên môn cần đầu tư nhiều
thời gian về trao đổi, nhận xét về nghiên cứu bài học cụ thể để giáo viên có cơ hội học hỏi
thêm.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách Ngữ Văn 11 , tập một, Nxb. Giáo dục, H- 2007, tr.107.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức , kỹ năng môn ngữ văn 11, Nxb. Giáo dục, H,
2010, tr.47.
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Đại học Quốc Gia, Hà Nội, năm 1997.
4. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Giáo trình lí luận văn học – tập 2, NXB Đại học Sư
phạm Hà Nội.
5. Phan Trọng Luận :Thiết kế giáo án ngữ văn 11, Nxb. Giáo dục,2011,tr 52.
6. Nguyễn Quôc Siêu, Kỹ năng làm văn nghị luận phổ thông, Nxb giáo dục, H.2001.
7. Phan Trọng Luận( chủ biên),Phương pháp dạy học làm văn,Nxb giáo dục, H.1999.
8.Nguyễn Đăng Mạnh, Những bài giảng về tác gia văn học tập 2, NXB ĐHQG,H.1999.
9. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Phân tích bình giảng tác phẩm văn học lớp 11 nâng
cao, NXBGD, H.2007.
10. Tài liệu tập huấn: “Phương pháp và kĩ thuật tổ chức dạy học… môn Ngữ văn” của
Bộ giáo dục và đào tạo năm 2017.


21



×