Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

So sánh chế định ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và Hàn Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (907.56 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ GIANG

SO SÁNH CHẾ ĐỊNH LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ GIANG

SO SÁNH CHẾ ĐỊNH LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VĂN CỪ

HÀ NỘI - 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Giang


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ được hoàn thiện một cách hoàn chỉnh, bên cạnh sự nỗ
lực cố gắng của bản thân là sự hướng dẫn nhiệt tình của Quý Thầy Cô, cũng
như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời gian học tập
nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy Nguyễn Văn Cừ là Phó
giáo sư, Tiến sĩ đang công tác tại Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã hết
lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy, cô
trong Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt những kiến
thức quý báu cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá
trình học tập nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các

bạn đã hỗ trợ, động viên, giúp đỡ cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thiện luận văn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Giang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ....................................................................... 7
1.1.

Khái niệm ly hôn ................................................................................. 7

1.1.1. Ly hôn dưới góc độ xã hội và pháp luật.............................................. 13
1.1.2. Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp ................................. 17
1.2.

Ly hôn mang tính tích cực và tiêu cực: ........................................... 22

Kết luận Chương 1 ........................................................................................ 32
Chương 2: CĂN CỨ VÀ THỦ TỤC PHÁP LÝ GIẢI QUYẾT LY

HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
VÀ HÀN QUỐC ................................................................................ 33
2.1.

Căn cứ pháp lý giải quyết ly hôn theo pháp luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam và Hàn Quốc ...................................................... 33

2.1.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Việt Nam .............................................. 33
2.1.2. Căn cứ ly hôn theo pháp luật Hàn Quốc ............................................. 43
2.1.3. Một số kết luận cơ bản khi so sánh các căn cứ giải quyết ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc ............................................... 47
2.2.

Thủ tục và đường lối giải quyết các trường hợp ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc ................................................... 51

2.2.1. Quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn............................................. 51
2.2.2. Khuyến khích hòa giải cơ sở ............................................................... 53
2.2.3. Thụ lý đơn yêu cầu ly hôn................................................................... 55


2.2.4. Hòa giải tại Tòa án .............................................................................. 57
2.2.5. Giải quyết thuận tình ly hôn ................................................................ 59
2.2.6. Ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ hoặc chồng ............................... 60
2.2.7. Điều kiện hạn chế ly hôn..................................................................... 64
2.2.8. Thủ tục pháp lý giải quyết ly hôn ....................................................... 65
Kết luận Chương 2 ........................................................................................ 68
Chương 3: HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA LY HÔN THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC ....................................................................70
3.1.


Hậu quả của ly hôn xét dưới góc độ pháp luật ............................... 70

3.1.1. Quan hệ thân nhân giữa vợ và chồng .................................................. 70
3.1.2. Chia tài sản của vợ và chồng khi ly hôn ............................................. 72
3.1.3. Giải quyết nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn ............. 77
3.1.4. Nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con sau khi ly hôn ........................ 80
3.2.

Ảnh hưởng của ly hôn đối với gia đình và xã hội........................... 84

3.3.

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về ly hôn của Việt Nam ...... 85

Kết luận Chương 3 ........................................................................................ 89
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLDS 2015:

Bộ luật dân sự năm 2015

2. BLGL:

Bộ luật Gia Long


3. BLHĐ:

Bộ luật Hồng Đức

4. Luật HN&GĐ 2014:

Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

5. TAND:

Tòa án nhân dân

6. TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, với sự phát triển không ngừng của xã hội,
sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường, tốc độ phát triển của internet, áp lực của
cuộc sống hiện đại, tác động trực tiếp đến quan hệ gia đình. Gia đình là nền
tảng của xã hội, xã hội muốn phát triển ngày càng đi lên thì Nhà nước phải
chú trọng xây dựng, tạo môi trường hoàn hảo cho nền tảng gia đình phát triển.
Trong thời gian gần đây, tình trạng ly hôn đang có xu hướng ngày càng tăng
cao. Ly hôn là một hiện tượng xã hội mà không ai mong muốn nhưng nó vẫn
xảy ra như một tất yếu và cũng vì thế mà nó tồn tại như một trong những nội
dung quan trọng của Luật HN&GĐ. Ly hôn ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi gia
đình, có thể ảnh hưởng tiêu cực gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã
hội và những thành viên trong gia đình, nhưng cũng có mặt tích cực khi nó là

giải pháp cứu chữa những cuộc hôn nhân đã “chết”, giúp họ có cách giải
quyết vẹn toàn hơn. Chính vì vậy, hệ thống pháp luật của các quốc gia trên
thế giới đều phải đề cập và đặt ra những quy định, chế định về ly hôn.
Xã hội phát triển đòi hỏi hệ thống pháp luật cũng phải có những bước
phát triển tương ứng để đảm bảo sự phát triển của xã hội trong phạm vi pháp
luật cho phép. Đặc biệt, đối với Việt Nam và Hàn Quốc, trong những năm gần
đây có sự phát triển không ngừng trên mọi mặt của kinh tế, xã hội, công nghệ
khi tham gia hội nhập kinh tế cùng các nước trên thế giới. Sự phát triển nhanh
chóng đó có tác động không nhỏ đến các gia đình thời hiện đại. Thời đại công
nghệ, xã hội công nghệ khiến cho chúng ta bị sức ép khá nặng trong công
việc, cuộc sống, các mối quan hệ gia đình và xã hội dẫn đến tình trạng không
giữ được sự cân bằng gây ra những xích mích, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng
và gia đình dẫn đến tình trạng “Ly hôn”, “Ly thân” ngày càng tăng cao.

1


Việt Nam và Hàn Quốc là một trong những quốc gia còn lưu giữ nhiều
nét truyền thống từ lâu đời. Trong các mối quan hệ xã hội hay bất kỳ mối
quan hệ nào, chúng ta thấy sự ảnh hưởng của quy chuẩn đạo đức, nhất là
trong lĩnh vực ly hôn bị ảnh hưởng nhiều từ quan niệm, bản sắc truyền thống
của dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề ly hôn góp phần hiểu rõ hơn
nền tảng cấu trúc xã hội, quan niệm xã hội, bản sắc văn hóa và các giá trị
truyền thống của hai nước. So sánh chế định ly hôn theo pháp luật Việt Nam
và Hàn Quốc một cách tổng thể nhằm góp phần nâng cao và tăng cường hơn
hiểu biết về các mối quan hệ gia đình, văn hóa và xã hội giữa hai quốc gia.
Tìm ra những điểm tương đồng, tiến bộ, hạn chế, thiếu sót của pháp luật trong
vấn đề “ly hôn” của hai nước. Từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm và giải pháp,
đóng góp ý kiến hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực ly hôn.
Chính vì những lý do cơ bản trên mà sau thời gian học tập và nghiên

cứu tại Khoa Luật - Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, tôi đã chọn đề tài: “So
sánh chế định ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và Hàn Quốc”
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu pháp luật về chế định ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014
là mảng đề tài được nhiều nhà nghiên cứu, thuộc nhiều lĩnh vực quan tâm,
trong khoa học luật nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng. Việc so sánh các
chế định ly hôn theo pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc là một cơ sở pháp lý
quan trọng nhằm hiểu rõ hơn về pháp luật hai quốc gia trong lĩnh vực ly hôn.
Đã có một số công trình khoa học nghiên cứu ở nhiều phạm vi và cấp
độ khác nhau, đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến các chế định ly
hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam và Hàn Quốc như sau:
Nhóm sách giáo trình, sách chuyên khảo: “Việt Nam Văn hóa sử
cương” (Đào Duy Anh, 2002, Nxb Văn hóa Thông tin); “Bản dư luận về ly

2


hôn” (C.Mác - Ph.Ăngghen, 1978, Nxb Sự thật); “Phong tục cưới gả Việt
Nam” (Hà Văn Cầu, 1992, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội); “Lịch triều hiến
chương loại chí” (Phan Huy Chú, 2014, Hình luật chí, Nxb trẻ); “Một số vấn
đề về lý luận và thực tiễn Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000” (Nguyễn
Văn Cừ, Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); “Sử Hàn
Quốc giảng thị dân, Xã hội quý tộc (giai tầng quan liêu và giai tầng trí thức)
và địa vị phụ nữ” (Han Hee Suk, 1994, Nxb II Cho Kac, Hàn Quốc); Quy
định chung của Luật Dân sự” (Kwak Yun Jik, 2013, Nxb Baek Young Sa);
Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình, (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội)…
Những công trình khoa học này chủ yếu là bình luận, giải thích Luật HN&GĐ
mà chưa nghiên cứu, so sánh chế định ly hôn giữa hai nước Việt Nam và Hàn
Quốc.

Nhóm các luận văn, luận án: “Nghiên cứu chế độ ly hôn của sơ kỳ Triều
Tiên” (Chang Beang In, 1993, Luận án tiến sĩ, Đại học Seoul); “Chế định ly
hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam” (Vũ Thị Hằng, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, 2006); “Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”
(Nguyễn Thị Tuyết Mai, Luận văn Thạc sĩ, 2015)... Các công trình này chủ
yếu nghiên cứu các vấn đề liên quan đến chế định ly hôn.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: “Ly hôn xế chiều” tăng đột
biến ở Hàn Quốc” (Hà Linh, 2015, Tạp chí Tin tức thời sự); “Ly hôn sớm ở
giới trẻ: Muôn vạn lý do” (Đức Phúc, 2016, Tạp chí Lao động thủ đô); “Tình
trạng hôn nhân trầm trọng” (Báo pháp luật TP.HCM); “Khó khăn khi thu thập
số liệu về bạo lực gia đình” ( Tuấn, 2017, Tạp chí Tuổi trẻ)… Các bài viết
này đều phản ánh một số nội dung liên quan đến vấn đề ly hôn, nhưng không
có công trình nghiên cứu hoặc bài viết so sánh các chế định ly hôn theo Luật
HN&GĐ Việt Nam và Hàn Quốc.
Hiện nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về các chế định

3


ly hôn, nhưng có rất ít công trình nghiên cứu và so sánh các chế định ly hôn
theo pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “So
sánh chế định ly hôn theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và Hàn Quốc”,
để nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc, toàn diện hơn về các chế định ly hôn theo pháp
luật của hai nước nêu trên.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
3.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu và so sánh các chế định ly hôn giữa Việt Nam và Hàn
Quốc nhằm nêu bật những ưu điểm, nhược điểm, sự tương đồng và khác nhau
giữa các quy định, chế định về ly hôn của hai nước.
3.2. Mục tiêu cụ thể

+ Nêu được cơ sở, chế định pháp luật, so sánh pháp luật của hai quốc
gia Việt Nam và Hàn Quốc.
+ Nghiên cứu và làm rõ nội dung quy định pháp luật của hai quốc gia
về “Ly hôn” theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Việt Nam với chế định về ly
hôn của pháp luật Hàn Quốc.
+ Luận giải các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật trong lĩnh vực
“Ly hôn” của Việt Nam và Hàn Quốc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những mối quan hệ xã hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia
đình, tập chung chủ yếu vào các chế định pháp luật về ly hôn của Việt Nam
và Hàn Quốc.
Tìm hiểu những ảnh hưởng của phong tục, tập quán đến quy định pháp
luật về ly hôn của Việt Nam và Hàn Quốc. Nghiên cứu hệ thống pháp luật
quy định về ly hôn của hai nước.
So sánh, làm rõ các nội dung giống nhau và khác nhau trong pháp luật
của hai nước về ly hôn.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các chế định ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014
của pháp luật Việt Nam và so sánh với các chế định ly hôn theo pháp luật của
Hàn Quốc.
Nhận định, đánh giá, so sánh các quy định pháp luật về ly hôn theo
pháp luật Việt Nam và Hàn Quốc trên các góc độ tương quan về xã hội, văn
hóa mang tính giai cấp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp của triết học duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Các phương
pháp nghiên cứu khoa học cụ thể được sử dụng trong đề tài bao gồm:
phương pháp phân tích để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu trong đề tài,
đồng thời kết hợp với phương pháp so sánh, chỉ ra những yếu tố và nguyên
nhân dẫn đến ly hôn. So sánh sự phát triển xã hội và pháp luật của Việt Nam
và Hàn Quốc, tìm ra sự tương đồng hay trái ngược nhau của hai nước về vấn
đề ly hôn. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp của bộ môn khoa học như
tổng hợp, liệt kê…
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
- Luận văn phân tích khái niệm và các chế định ly hôn, giúp mọi người
có cái nhìn khái quát và tổng hợp nhất về pháp luật giữa hai nước Việt Nam
và Hàn Quốc theo nhiều góc độ khác nhau như: văn hóa, xã hội, phong tục tập
quán và pháp luật. Giúp mọi người hiểu hơn về giá trị pháp luật nói chung và
các chế định ly hôn nói riêng một cách sâu rộng.
- So sánh và đánh giá pháp luật giữa hai quốc gia, hai dân tộc theo
chiều dài lịch sử hình thành pháp luật, các giai đoạn pháp luật nổi bật, nhất
là nghiên cứu và đánh giá pháp luật hiện hành của hai nước. Tìm hiểu và
phân tích những nét tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực ly hôn của hai nước. Để

5


mọi người hiểu rõ và trân trọng những điều luật về “Ly hôn” đã giúp xã hội
cải thiện, văn minh, công bằng, nhất là đối với phụ nữ và trẻ em so với thời
kỳ phong kiến.
- Đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về ly hôn và những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng áp dụng Luật HN&GĐ năm 2014 giải quyết
các vụ việc ly hôn tại Việt Nam và Hàn Quốc.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và hệ thống tư liệu, phần
nội dung của luận văn được chia thành ba chương:

Chương 1: Lý luận chung về ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình.
Chương 2: Căn cứ và thủ tục pháp lý giải quyết ly hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam và Hàn Quốc.
Chương 3: Hậu quả pháp lý của ly hôn theo pháp luật Việt Nam và
Hàn Quốc.

6


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ LY HÔN THEO LUẬT
HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm ly hôn
Ở Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay, vấn đề ly hôn đang có xu hướng
tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của gia đình và xã hội.
Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về ly hôn một cách sâu sắc và về
những ưu điểm, nhược điểm của nó. Ly hôn không đơn giản là chấm dứt quan
hệ hôn nhân giữa hai người được cơ quan có thẩm quyền công nhận. Ly hôn
chính là một phạm trù của pháp luật được quy định trong Luật HN&GĐ, nó
có ảnh hưởng tiêu cực hoặc tích cực trực tiếp đến sự phát triển bền vững của
gia đình và xã hội. Ly hôn còn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp, phụ
thuộc vào các điều kiện kinh tế, văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc, được Nhà
nước giám sát và bảo vệ bằng các quy định của pháp luật.
Trước hết chúng ta tìm hiểu tiền đề của ly hôn chính là hôn nhân vì có
hôn nhân hình thành lên gia đình, xác lập lên mối quan hệ giữa hai cá nhân
nam và nữ, hình thành lên mối quan hệ vợ chồng. Từ mối quan hệ đó mới có
thể nảy sinh hai khả năng: Khả năng tốt đẹp chính là hôn nhân bền vững, tạo
ra một gia đình hạnh phúc; còn khả năng xấu chính là hôn nhân không bền
vững, hai bên vợ chồng không đạt được mục đích mà mình mong muốn dẫn
đến ly hôn. Vậy “Hôn nhân” là gì? Có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa

hay quan niệm về hôn nhân. Theo quan niệm của dân gian, hôn nhân chính
là kết quả của tình yêu, là sự đồng thuận của hai cá nhân muốn cùng nhau
xây dựng gia đình. Cũng có thể nói hôn nhân chính là sự kết hợp của hai cá
nhân nam nữ trên mọi phương diện dựa trên nền tảng là tình yêu giữa hai
người, được pháp luật công nhận bằng hình thức và thủ tục kết hôn. Từ
những quan niệm về hôn nhân xuất phát từ xã hội, pháp luật đã định nghĩa

7


hôn nhân theo khoản 1 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau: “Hôn nhân
là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn”. Quan hệ này được pháp luật
công nhận và bảo vệ khi hai cá nhân nam nữ đăng ký kết hôn theo đúng quy
định của pháp luật. Đồng thời quan hệ vợ chồng cũng hình thành mối liên
kết và ràng buộc giữa vợ và chồng. Hai người phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ với nhau trên mọi phương diện mang tính đặc thù của gia đình, xã hội
dưới sự điều tiết của pháp luật.
Vào thời phong kiến ở Việt Nam và Hàn Quốc, do ảnh hưởng bởi quy
chuẩn đạo đức xã hội và lễ nghĩa không cho phép nam nữ được tự do yêu
đương. Hầu hết, các cuộc hôn nhân đều có sự sắp đặt của cha mẹ, của những
người lớn tuổi hay có chức sắc quyết định. Đây là tiền đề của cuộc hôn nhân
bắt buộc theo phong kiến thời xưa, họ luôn mong muốn và nghĩ rằng “môn
đăng hộ đối” mới đem lại hạnh phúc cho gia đình, cho hai bên vợ chồng hạnh
phúc với nhau cả đời. Trong giai đoạn này, việc nam nữ gặp gỡ tìm hiểu nhau
là trái với đạo đức, bởi theo giáo lý phong kiến thì:
Việc hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc
riêng của con cái. Bởi vậy định vợ gả chồng cho con là quyền của
cha mẹ, chứ con cái chỉ biết phụng mệnh mà thôi, ái tình của con
cái, cha mẹ không cần biết, chỉ cốt được nơi xứng đáng, được nơi
môn đăng hộ đối [1, tr.128].

Có thể thấy, việc kết hôn không phải việc riêng của hai cá nhân nam
nữ, nó chính là việc chung của cả dòng họ, của bậc cha mẹ. Nói cách khác,
hôn nhân thời phong kiến chính là lợi ích của hai bên gia đình, hai bên dòng
họ, có khi còn ảnh hưởng đến cả lợi ích của làng, xã. Việc hai bên đi đến hôn
nhân phải được xem xét một cách tỉ mỉ trên nhiều phương diện như: địa vị,
chức vụ, quyền lợi hai bên đạt được khi kết hôn. Những quan niệm này được
thể hiện rất rõ trong phong tục, tập quán và luật tục trong các bộ luật xưa như:

8


Hương ước, Tộc ước, Khoán ước. Ví dụ tục lệ làng La Khê (nay thuộc xã Văn
Khê thành phố Hà Đông) ghi rõ luật tục kết hôn phải nộp lan nhai: “Trong xã
người nào có con gái gả chồng cho người trong làng thì nộp cho dân một quan
hai mạch tiền, gả cho người làng khác thì nộp hai quan tiến”. Ngay cả trong
Bộ luật Hồng Đức cũng như Bộ luật Gia Long sau này cũng khái quát từ
những quan niệm và luật tục trong dân gian như vậy để luật hóa, pháp chế hóa
ban hành thành các quy định của luật pháp. Ví dụ: “Tục ta vợ chồng lấy nhau
không có hôn thú duy có lệ cheo. Nộp cheo cũng là một ý lấy làng làm bằng
chứng thì dẫu không có hôn thú mà cũng như có hôn thú” [5, tr.212]. Tục nộp
cheo hay còn gọi là “nộp tiền lan nhai” có thể là một khoản tiền hoặc bằng
hiện vật như gạch để làm đuông, xây đình miếu do làng quy định. Đây cũng
có thể coi là “lễ đen” nhà trai đưa cho làng, xã hoặc bên nhà gái để xin cưới.
Từ đó có thể thấy quan niệm kết hôn theo truyền thống dân gian thời phong
kiến thực chất là sự phân bua với làng để hợp lý hóa hành vi xây dựng gia
đình giữa đôi nam nữ nói riêng và giữa hai gia đình, hai dòng tộc trai gái nói
chung thông qua lệ nộp cheo. Mặc dù quy định này không chặt chẽ như pháp
luật chính thống nhưng trên thực tế nhà trai hoặc nhà gái không tuân thủ lệ
làng thì sẽ phải chịu những hình phạt rất nghiêm khắc của mọi người trong
cộng đồng, tùy từng quy định của mỗi làng. Nói một cách khác, những luật

tục trong xã hội phong kiến chính là cơ sở hình thành lên các quy định pháp
luật chính thống về “hôn nhân và gia đình” sau này.
Hiện nay, tư tưởng về hôn nhân ở Việt Nam và Hàn Quốc có sự tiến bộ
vượt bậc, không bị ràng buộc và “cổ hủ” như chế độ phong kiến. Hôn nhân đều
được tôn trọng và có sự tự nguyện, tìm hiểu và kết nối lẫn nhau thành một hệ
thống mang tính bản năng sinh học, đặc trưng của xã hội, có sự tham gia và
điều tiết của pháp luật. Mỗi cuộc hôn nhân đều có giai đoạn tìm hiểu, tùy từng
quan niệm mỗi vùng miền mà giai đoạn tiền hôn nhân có cách gọi khác nhau.

9


Tiền hôn nhân được gọi là “tình yêu”, các đôi nam nữ được tự do tiếp cận, tìm
hiểu nhau theo đúng pháp luật và đi đến hôn nhân mà không bị sự ép buộc của
gia đình, dòng tộc. Điều đó được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 36 Hiến pháp
năm 2013 đã khẳng định: “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo
nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn
trọng lẫn nhau”. Các cá nhân nam, nữ có đủ yếu tố và quy định của pháp luật
về độ tuổi, hành vi dân sự đều có thể kết hôn, ly hôn với nhau dựa trên sự tự
nguyện của hai bên mà không chịu ảnh hưởng của bố mẹ, các bậc trưởng bối
hay bất kỳ lý do ép buộc nào. Đây là một điều thể hiện xã hội văn minh, vượt
bậc so với xã hội phong kiến và phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay.
Dựa theo phân tích ở trên, chúng ta tìm hiểu bước tiếp theo của hôn
nhân không bền chặt đó chính là ly hôn. Vào thời kỳ phong kiến, do có sự
ảnh hưởng bởi Nho giáo đã đi sâu vào quan niệm đời sống của người dân,
hình thành lên các luật tục vô cùng hà khắc, coi quy chuẩn đánh giá chuẩn
mực đạo đức xã hội làm trọng. Nên các quy chuẩn đạo đức trong xã hội
được đan xen vào luật tục, vào các văn bản bản pháp luật nói chung và trong
lĩnh vực ly hôn nói riêng. Các quy định trong thời kỳ phong kiến chủ yếu
bảo vệ các giai cấp thống trị và đại diện cho giai cấp thống trị trên vấn đề

hôn nhân chính là nam giới. Vì vậy, các điều luật hay luật tục xoay quanh
vấn đề ly hôn hầu như đứng về phía người đàn ông và người phụ nữ bao giờ
cũng là người phải chịu thiệt. Điển hình như Sắc lệnh ngày 03 tháng 10 năm
1883 ban hành quy định như sau:
Công nhận chế độ đa thê và chỉ coi sự phạm gian (tức
ngoại tình) là lý do để xin ly dị nếu người ngoại tình là người vợ.
Hai Bộ Dân luật Bắc và Trung chỉ cấm nhìn nhận con phạm gian
đối với người mẹ.
Vợ không được quyền kiện chồng. Ngay cả khi vợ muốn đi
kiện người khác thì cũng phải xin phép của chồng.

10


Qua sắc lệnh trên cho ta thấy được phần nào sự phản ánh cuộc sống và
quyền lợi của người phụ nữ thời xưa. Họ bị hạn chế quyền cá nhân của mình
trên mọi mặt, không có tiếng nói trong xã hội và gia đình. Họ không có quyền
kiện chồng dù cho người chồng có phạm phải tội gì đi chăng nữa. Còn người
chồng thì nắm trong tay mọi quyền hành trong gia đình, được phép “đa thê”,
được phép tự chủ ý chí của mình. Quyền “xin ly dị” cũng vậy, pháp luật quy
định quyền này nghiêng về người chồng, chỉ có người chồng mới có quyền ly
dị vợ khi vợ ngoại tình hoặc phạm phải các điều cấm của quy chuẩn đạo đức
xã hội. Cũng chính những quy định và quy chuẩn đạo đức xã hội như vậy nên
vào thời kỳ phong kiến các cuộc ly hôn do người vợ là đương sự rất ít, hầu
như là giấy “từ vợ” hoặc giấy ly dị do người chồng là đương sự yêu cầu. Điều
này tạo nên sự bất công trong xã hội, bất bình đẳng trong pháp luật giữa hai
vợ chồng trong lĩnh vực hôn nhân nói chung và ly hôn nói riêng.
Hiện nay, xã hội phát triển văn minh hiện đại hơn xã hội phong kiến,
địa vị của người phụ nữ được đánh giá cao hơn, mọi quan niệm về chuẩn mực
đạo đức của xã hội về người phụ nữ cũng có sự thay đổi tích cực. Pháp luật dần

bảo vệ quyền và lợi ích của người phụ nữ lên trên cả quyền lợi của người đàn
ông trong một số lĩnh vực, nhất là trong vấn đề ly hôn. Cụ thể, khi gia đình có
xảy ra mâu thuẫn, có sự bất hòa, mục đích hôn nhân của hai vợ chồng không
đạt được thì cả hai vợ chồng hoặc một bên vợ, chồng đều có quyền yêu cầu ly
hôn. Nhưng đối với người chồng sẽ bị hạn chế quyền ly hôn khi người vợ đang
có thai hoặc nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, còn người phụ nữ thì không bị
hạn chế quyền ly hôn trong những trường hợp này [33, Điều 51, Khoản 3]. Quy
định này xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ phụ nữ và trẻ em, họ là bộ phận yếu
thế trong xã hội, nên thường được pháp luật và xã hội đặc biệt quan tâm, bảo
vệ. Người phụ nữ trong thời gian mang thai, sinh con hay nuôi con nhỏ, tâm
lý họ không được ổn định, nhạy cảm, dễ xúc động.

11


Nói tóm lại, pháp luật HN&GĐ qua mỗi thời kỳ có những quy định và
định nghĩa khác nhau về ly hôn, nhưng luôn dựa trên nền tảng các quan niệm,
tình trạng thực tế về ly hôn trong gia đình và xã hội. Chính vì vậy, có rất
nhiều định nghĩa về ly hôn. Theo quan niệm dân dã, ly hôn được xem là con
đường giải thoát cho mọi mâu thuẫn của hai vợ chồng khi không thể hòa giải
và tiếp tục sống chung với nhau. Cách hiểu và quan niệm đơn giản này phù
hợp với cuộc sống hàng ngày của người dân, nhưng chưa nói rõ được hậu
quả và thủ tục pháp lý khi ly hôn dưới sự điều tiết của pháp luật. Trong Từ
điển Luật học của Viện khoa học pháp lý định nghĩa: “Ly hôn là chấm dứt
quan hệ vợ chồng do Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ
hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng” [5, tr.460]. Đây là định nghĩa phản ánh
quan điểm chung nhất về ly hôn, thể hiện bản chất pháp lý của ly hôn. Trên
phương diện pháp luật, Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Ly hôn là việc
chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án” [33, Điều 3, Khoản 14]. Quy định này khẳng định ly hôn làm

chấm dứt quan hệ vợ, chồng chỉ khi có sự công nhận của Tòa án bằng bản án
hoặc quyết định theo đúng pháp luật. Khi đó, quan hệ vợ, chồng được chấm
dứt, họ không còn trách nhiệm phải quan tâm, yêu thương, chăm sóc lẫn nhau,
mỗi người sẽ trở thành cá thể riêng biệt, có quyền tự do kết hôn theo quy định
của pháp luật.
Qua những định nghĩa về ly hôn trên có thể thấy ly hôn là sự kiện
pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ, chồng dưới sự kiểm soát của Nhà nước.
Vợ, chồng ly hôn do cuộc hôn nhân của họ đã “chết”, không thể hàn gắn.
Việc ly hôn tiến hành theo trình tự quy định của pháp luật, giúp họ chấm
dứt những mâu thuẫn, căng thẳng không thể hòa giải trong cuộc hôn nhân
không hạnh phúc.

12


1.1.1. Ly hôn dưới góc độ xã hội và pháp luật
Pháp luật về hôn nhân nói chung và ly hôn nói riêng đều xuất phát từ
phong tục, tập quán, lệ làng, quan niệm về chuẩn mực đạo đức của xã hội
được Nhà nước khái quát chung và giám sát, quy định thành các chế định, văn
bản pháp luật. Các văn bản pháp luật lại biến đổi và dần hoàn thiện phù hợp
với quy chuẩn của xã hội. Chính vì vậy, muốn hiểu rõ hơn về ly hôn, chúng ta
cần nhìn nhận và nhận định ly hôn rõ hơn ở góc độ xã hội và pháp luật.
Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu cấu trúc xã hội dưới góc độ
HN&GĐ từ thời nguyên thủy đến nay. Vào thời nguyên thủy con người sống
theo kiểu bầy đàn, gọi chung là sống quần hôn. Sau quá trình phát triển,
bước vào giai đoạn mẫu hệ, người phụ nữ được đề cao vì là lao động chính
và duy trì lòi giống. Điều này dẫn đến quyền lợi thuộc về người phụ nữ.
Trong giai đoạn này, phụ nữ rất được coi trọng trong xã hội nguyên thủy, vai
trò người đàn ông thì mờ nhạt hơn, họ không được coi trọng. Nhưng sau khi
chuyển từ đời sống hái lượm săn bắt sang định canh định cư với nông nghiệp

làm chủ đạo, vai trò người đàn ông dần lớn lên. Nhất là thời kỳ đồ đá chuyển
sang đồ đồng, người đàn ông có sức khỏe nên họ có khả năng tạo ra vũ khí
và công cụ bằng kim loại tốt hơn phụ nữ. Những việc nặng và những công
việc quan trọng trong lao động đều được người đàn ông làm, người phụ nữ
mất dần địa vị trong gia đình. Chế độ phụ hệ đã dần thay thế mẫu hệ, lúc này
người chồng làm chủ gia đình, duy trì nếp sống độc đoán, cho phép đàn ông
được đa thê, còn người phụ nữ bị trói buộc bởi người chồng. Phụ nữ thường
bị động, không có tiếng nói trong xã hội, trong cuộc sống hôn nhân của
chính mình, dù cho cuộc sống hôn nhân có hạnh phúc hay không. Phụ nữ
Việt Nam và Hàn Quốc đều phải trải qua một thời kỳ dài chịu đựng quan
điểm và luật tục hà khắc đó.
Vào thời phong kiến, các cặp vợ chồng vẫn sống theo kiểu phụ hệ, cấu

13


trúc xã hội càng ngày càng khắt khe với người phụ nữ. Mọi quy chuẩn về đạo
đức và pháp luật đều bảo vệ người đàn ông là chủ đạo. Nhất là những người
có chức sắc, địa vị trong xã hội và dòng tộc. Họ nắm trong tay mọi quyền
hành trong xã hội, ngay cả việc kết hôn hoặc ly hôn của các cặp đôi đều phụ
thuộc vào người có quyền, chức sắc trong làng, xã hoặc phụ thuộc vào ý kiến
của người có liên quan như: cha mẹ, trưởng bối rất lớn. Các cặp vợ chồng
không được phép tùy tiện ly hôn dù cho cuộc sống hôn nhân vô cùng mâu
thuẫn, không có hạnh phúc. Vì việc ly hôn của hai người còn ảnh hưởng đến
danh dự gia đình và dòng tộc, kinh tế, huyết thống của cả một dòng tộc.
Người được phép xin ly hôn chủ yếu là người đàn ông, hoặc người có địa vị
cao trong đại gia đình yêu cầu người chồng “từ vợ” nếu như người vợ phạm
phải những tội không thể tha thứ được. Tại Điều 310 BLHĐ quy định: “Vợ,
nàng hầu đã phạm điều nghĩa tuyệt (thất xuất) mà người chồng ẩn nhẫn không
bỏ thì phải tội biếm tùy theo nặng nhẹ”. Có thể thấy việc ly hôn thời phong

kiến không chỉ phụ thuộc vào ý chí của vợ chồng, mà phụ thuộc vào phong
tục tập quán, quy chuẩn của xã hội nhiều hơn. Mọi người rất đề cao luật tục,
nếu phạm phải những quy định thì dù người chồng muốn bỏ vợ hay không
cũng không có quyền quyết định, nếu trái luật còn bị xử phạt thêm.
Ở Hàn Quốc vào thời kỳ Triều Tiên (thế kỷ XVII) tình trạng hôn nhân
và gia đình cũng tương tự hôn nhân và gia đình ở Việt Nam vào thời kỳ
phong kiến, do cả hai nước đều chịu ảnh hưởng văn hóa Nho giáo của Trung
Quốc. Hôn nhân của các đôi trai gái hầu hết đều do trưởng bối hoặc hai bên
dòng họ quyết định, các cặp trai gái có trường hợp còn không biết mặt nhau
cho đến khi cưới hỏi. Chính điểm xuất phát của hôn nhân không tình cảm, nên
mâu thuẫn gia đình hay xảy ra, nhưng phụ nữ thường cam chịu vì việc ly hôn
của các cặp vợ chồng cũng không do họ quyết định. Việc ly hôn giữa hai vợ
chồng không chỉ là vấn đề giữa hai người mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến

14


kinh tế, ngoại giao, thể diện của hai dòng tộc, quan niệm này cũng giống như
ở Việt Nam. Việc ly hôn chủ yếu là trưởng bối, đại diện của dòng họ hai bên
hoặc người có tiếng nói trong xã hội quyết định ly hôn giữa hai vợ chồng,
người chồng cũng có tiếng nói nhưng không có nhiều trọng lượng.
Khác với quan niệm và cái nhìn hà khắc về ly hôn ở thời kỳ phong kiến
xưa, theo pháp luật Việt Nam hiện nay, ly hôn đã được Nhà nước ta hiện đại
hóa phù hợp với xã hội khi mối quan hệ của vợ chồng muốn được chấm dứt
không còn quan hệ và trách nhiệm gì với nhau thì phải có quyết định hay bản
án của Tòa án [33, Điều 3, Khoản 14]. Khi vợ chồng không còn sống chung
và không có sự liên hệ hay trách nhiệm với nhau trong thời gian dài nhưng
chưa có quyết định ly hôn của Tòa án, họ vẫn là vợ chồng hợp pháp trên pháp
luật. Họ phải có bản án và quyết định của Tòa án mới được công nhận cuộc
hôn nhân giữa hai người đã chấm dứt. Định nghĩa “Ly hôn” của pháp luật

Việt Nam khá rõ ràng và có sự tương đồng với nhiều quốc gia khác. Ly hôn là
sự thể hiện ý chí và mong muốn của một trong hai vợ chồng hoặc cũng có thể
từ cả hai phía vợ chồng. Ly hôn cũng có thể là ý chí của bên thứ ba, nhưng
người đó phải là “cha, mẹ, người thân thích khác có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ” [33, Điều 51, Khoản 2]. Ly
hôn là quyền lợi của mỗi cá nhân, ngay cả quyền lực Nhà nước cũng không
thể can thiệp. Nhà nước không thể dùng pháp luật hay bất kỳ biện pháp cưỡng
chế để bắt các cặp vợ chồng ly hôn. Pháp luật Nhà nước chỉ được can thiệp
khi có ý chí, mong muốn của một trong hai hay cả hai cùng muốn ly hôn.
Chính vì vậy mỗi quốc gia lại đưa ra những chế định ly hôn để điều tiết tình
trạng ly hôn đúng với sự phát triển của xã hội và kiểm soát được tình trạng ly

15


hôn dưới sự giám sát của pháp luật. Hệ thống pháp luật về HN&GĐ nói
chung và ly hôn nói riêng luôn tôn trọng, bảo vệ quyền lợi của từng cá nhân,
đồng thời phải giữ được thuần phong mỹ tục, bản sắc dân tộc, phù hợp với
đạo đức xã hội, quan trọng nhất đó chính là sự tôn trọng ý chí, mong muốn
của vợ hoặc chồng trong ly hôn. Đối với Việt Nam hay Hàn Quốc cũng vậy,
tuy ly hôn được Nhà nước giám sát và thể chế, luật định hóa thành chuẩn mực
pháp luật nhưng luôn tôn trọng ý chí của cả hai cá nhân vợ và chồng, luôn
công bằng, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, nhất là trong vấn đề ly hôn. Vì họ là
những người chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề nhất cả về kinh tế và tinh thần
trong mỗi cuộc ly hôn.
Ngoài những quan niệm về ly hôn của hai nước nói trên, theo nhận định
của Lênin về ly hôn cho ta thấy ly hôn là một điều đặc biệt và cần thiết của

mỗi xã hội văn minh: “Thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm tan rã
những mối liên hệ gia đình mà ngược lại nó củng cố những mối quan hệ đó
trên những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong
một xã hội văn minh” [22, tr.335]. Chúng ta cũng phải công nhận ly hôn thể
hiện sự nhận thức vô cùng tiến bộ của xã hội. Mặt khác, quan niệm của Các
Mác và Lênin đối với vấn đề ly hôn tuy tiến bộ, nhưng không có nghĩa là cổ
động hay khuyến khích các gia đình ly hôn và phá vỡ hôn nhân đang hạnh
phúc. Chúng ta có thể hiểu quan điểm của Các Mác và Lênin là sự cổ động
xác lập quan hệ mới trên nền tảng một mối quan hệ không hạnh phúc, hai bên
không đạt được những mục đích mong muốn cần thiết xác lập và tạo một mối
quan hệ mới, không làm ảnh hưởng lẫn nhau bởi mối quan hệ không đạt được
đó. Cuộc hôn nhân giữa các cặp vợ chồng đã không hạnh phúc, không có
tiếng nói chung, có nghĩa tế bào xã hội đã có vấn đề, không thể gắn kết vấn
nhau được nữa. Từ đó, dựa trên ý chí và quyết định của vợ chồng, tế bào xã
hội đó được tách thành hai cá thể riêng biệt mới, để tìm hạnh phúc và có mối

16


quan hệ riêng, không làm ảnh hưởng đến những tế bào xã hội khác. Qua đó, ly
hôn giúp mọi người có cái nhìn tích cực và văn minh hơn về hôn nhân, giải cứu
những mâu thuẫn không thể hòa giải, những cuộc hôn nhân đã chết, không còn
tình cảm và sự quan tâm đến nhau nữa. Giải cứu những người phụ nữ thoát
khỏi cuộc hôn nhân không hạnh phúc, bị ngược đãi, bạo lực trong gia đình.
Qua tìm hiểm về khái niệm ly hôn trên rất nhiều góc độ và cách nhìn
nhận khác nhau về ly hôn theo thời gian và không gian. Chúng ta có thể nhận
thấy rằng giữa Việt Nam và Hàn Quốc có rất nhiều điểm tương đồng về quan
niệm ly hôn dưới góc độ xã hội và pháp luật. Ly hôn là một hiện tượng xã hội,
chính vì vậy tạo nên sức ép cho xã hội, cho pháp luật của mỗi quốc gia, làm
sao để có thể đưa ra các văn bản pháp luật phù hợp nhất với biến đổi của xã

hội trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung, ly hôn nói riêng.
1.1.2. Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin đã định nghĩa giai cấp như sau:
Giai cấp là những tập đoàn người to lớn khác nhau về địa vị
của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử,
khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò
của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về
cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có
thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn có
địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định.
Theo định nghĩa về giai cấp, Lênin đã chỉ ra rất rõ nét về việc tại sao có
sự phân biệt giai cấp và giai cấp thống trị có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác. Từ xưa đến nay chúng ta đều có thể thấy rõ sự phân biệt giai cấp
thông qua từng mốc lịch sử: “chủ nô và nô lệ trong lịch sử thời cổ đại, chúa

17


đất và nông nô thời trung cổ, tư sản và vô sản từ thời cận đại đến nay”. Giai
cấp thống trị bao giờ cũng nắm trong tay những tư liệu sản xuất chính và là
người chủ chốt quản lý xã hội, ban hành pháp luật. Pháp luật là do giai cấp
thống trị đặt ra để bảo vệ giai cấp thống trị của mình. Giai cấp thống trị là giai
cấp có quyền hành được gọi là chính quyền, đặt ra pháp luật để bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trị đó, vì vậy pháp luật bao giờ cũng mang tính giai cấp,
đa số quần chúng phải bắt buộc tuân theo pháp luật đó gọi là giai cấp bị trị,
tức là người dân. Nhà nước luôn đặt ra hệ thống pháp luật bao hàm tất cả các
cấp độ từ trên xuống dưới, từ các văn bản pháp luật chính thống chung hòa
với bản sắc dân tộc, thuần phong mỹ tục, các quy định của dân gian để thâu

tóm quyền lực, quản lý, điều hành, giám sát tất cả mọi mặt của xã hội như: an
ninh, kinh tế, đời sống xã hội. Trong đó hôn nhân và gia đình nói chung và ly
hôn nói riêng cũng được Nhà nước ban hành luật để giám sát và điều tiết cho
phù hợp với xã hội. Tức là giai cấp thống trị dùng sức mạnh quyền lực của
mình thông qua bộ máy Nhà nước ban hành luật chính thống, các quy định
của pháp luật và các văn bản dưới luật nhằm giám sát và đặt ra các điều kiện
xác lập quan hệ vợ chồng, đồng thời đặt ra những điều kiện căn cứ nhất định
mới được phép chấm dứt quan hệ hôn nhân, đây chính là các căn cứ khi ly
hôn. Các công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật chính thống, đan
xen những luật tục ở từng vùng. Pháp luật đan xen xuyên suốt quá trình hôn
nhân và cả ly hôn của mỗi cá nhân, của cả xã hội trong cả thời kỳ phong kiến
và hiện tại. Chính vì vậy, ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp vô
cùng sâu sắc. Điển hình ở Việt Nam và Hàn Quốc vào thời kỳ phong kiến, các
quy định pháp luật mang tính luật tục như: “Hương ước, Tộc ước” và một số
luật tục khác đều mang nặng bản chất của giai cấp phong kiến. Các luật tục
đều có xu hướng và quan niệm: “trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp giàu
nghèo, phân biệt địa vị, chức sắc trong xã hội”. Nhất là trong vấn đề ly hôn,

18


×