VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HOÀNG
HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ HOÀNG
HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HỒ NGỌC HIỂN
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Đề tài nghiên cứu “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt
Nam hiện nay” của luận văn này là kết quả của sự nỗ lực cố gắng, nghiêm túc tìm
tòi và sáng tạo của riêng bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn tận tình của người
hướng dẫn khoa học TS. Hồ Ngọc Hiển
Tôi xin cam đoan, kết quả nghiên cứu của công trình hoàn toàn là kết quả
nghiên cứu cá nhân mà tôi đã tiến hành trong thời gian được giao đề tài Luận văn.
Trong công trình nghiên cứu này không hề có bất kỳ sự sao chép nào mà không có
trích dẫn nguồn, tác giả.
Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin chịu
toàn bộ trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 8 năm 2019
Học viên
Vũ Hoàng
LỜI CẢM ƠN
Công trình nghiên cứu “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật
Việt Nam hiện nay” được hoàn thành, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, tôi
xin được gửi lời trân trọng cảm ơn tới thầy giáo hướng dẫn khoa học TS. Hồ Ngọc
Hiển, người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo tôi trong quá trình tôi triển khai đề tài và
viết luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong Hội đồng xét duyệt đề tài và đề
luận văn đã góp ý giúp tôi hoàn thiện tốt hơn luận văn của mình và Lãnh đạo Học
viện Khoa học xã hội, Khoa Luật Học viện khoa học xã hội vì đã tạo những điều
kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và đảm bảo chất lượng Giảng viên cho chúng tôi
trong quá trình theo học tại đây.
Học viên
Vũ Hoàng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI ....................................................................... 10
1.1. Khái quát về phán quyết trọng tài thương mại .................................. 10
1.2. Hủy phán quyết trọng tài thương mại ................................................ 19
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................................. 26
2.1. Thực trạng pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................... 26
2.2. Thực tiễn thực thi các quy định của pháp luật về hủy phán quyết
trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay ............................................... 32
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................. 46
3.1. Phương hướng hoàn thiện .................................................................. 46
3.2. Giải pháp hoàn thiện .......................................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS Bộ Luật Tố tụng dân sự
BLDS
Bộ Luật Dân sự
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TAND
Tòa án nhân dân
VIAC
VIAC là tên viết tắt tiếng Anh của cụm
từ “Vietnam International Arbitration
Centre”, tiếng Việt có nghĩa là “Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam”.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp dưới ảnh hưởng của gia đình, họ hàng, bạn bè, sử
dụng tập quán và các mối quan hệ để giảm bớt tranh chấp và hy vọng tìm ra
giải pháp khi phát sinh tranh chấp đã là hình thức quen thuộc trong xã hội
Việt Nam từ rất sớm. Tuy nhiên, trọng tài với tư cách là một thiết chế được
thừa nhận rộng rãi để giải quyết các tranh chấp cá nhân thì xuất hiện muộn
hơn nhiều vào thế kỷ XIX, bởi vì tài liệu sớm nhất được tìm thấy là một quyết
định của Toà Phúc thẩm Sài Gòn vào ngày 8/7/1889, trong đó công nhận một
thoả thuận về việc lựa chọn một người nước ngoài làm trọng tài trong một vụ
tranh chấp đất đai trong vụ Dương Thị Lành kiện Võ Văn Thụ [11].
Do những nguyên nhân của lịch sử, một số Bộ luật Dân sự và Tố tụng
dân sự đã được ban hành ở ba miền của Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và 3
thập kỷ đầu thế kỷ 20. Bên cạnh hệ thống tư pháp truyền thống, các toà án
thương mại đã được thành lập ở các thành phố lớn của Việt Nam (Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng và Sài Gòn). Các quy tắc về trọng tài đã là một phần của các
Bộ luật Tố tụng dân sự phức tạp. Tuy nhiên, các quy tắc này dường như
không mấy tác động đến xã hội Việt Nam bởi vì thực dân Pháp kiểm soát hầu
hết nền công nghiệp và thương mại, chỉ có một số ít người Trung Quốc làm
môi giới trong lĩnh vực phân phối còn đa số người Việt Nam chỉ làm việc với
tư cách là nông dân, thợ thủ công hoặc người bán hàng nhỏ ở các thành phố.
Họ không có cơ hội biết đến khái niệm trọng tài.
Trải qua nhiều thăng trầm cùng với mô hình kinh tế qua các giai đoạn
lịch sử của đất nước sau khi giành được độc lập cho đến nay, chúng ta cũng
chứng kiến sự tồn tại của Uỷ ban Trọng tài Ngoại thương và Uỷ ban Trọng tài
Hàng hải (thành lập vào năm 1963 và 1964), tiếp đó là một hệ thống “trọng
tài kinh tế”, theo mô hình pháp luật kinh tế của Liên Xô cũ đã được thành lập
1
từ quận huyện, tỉnh thành đến trung ương; mô hình Trung tâm trọng tài kinh
tế theo Nghị định 116/CP ngày 05/09/1994 của Chính phủ; Trọng tài thương
mại theo Pháp lệnh Trọng tài 2003 và Luật trọng tài thương mại 2010 (“Luật
TTTM 2010”).
Trong gần một thập kỷ qua, cùng với sự mở cửa nền kinh tế, các hoạt
động thương mại ngày càng phát triển cả ở trong nước và ở phạm vi quốc tế.
Để giải quyết tranh chấp về thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam đã ngày
càng tín nhiệm trọng tài nhờ những ưu thế vượt trội của nó so với các hình
thức giải quyết tranh chấp khác. Khác với nhiều hệ thống pháp luật khác trên
thế giới, Trọng tài thương mại là một tổ chức phi chính phủ song các quyết
định và phán quyết của nó có khả năng cưỡng chế thi hành theo pháp luật về
thi hành án dân sự ở Việt Nam mà không qua trình tự công nhận và cho thi
hành của Tòa án. Sở dĩ có quy định này là do các nhà lập pháp Việt Nam đã
thiết kế một thủ tục đặc biệt trong pháp luật về trọng tài thương mại – hủy
phán quyết của Trọng tài thương mại. Theo thông lệ quốc tế, việc không công
nhận và cho thi hành hoặc hủy phán quyết của Trọng tài thương mại chỉ được
thực hiện dựa trên các căn cứ về hình thức, sự vi phạm các quy định về tố
tụng trọng tài mà không dựa trên các căn cứ về nội dung. Nếu yêu cầu này
không được đáp ứng, Tòa án sẽ trở thành cấp phúc thẩm của Trọng tài thương
mại và sẽ phá vỡ nguyên tắc cơ bản của phán quyết của Trọng tài thương mại
là chung thẩm và không thể kháng cáo.
Mặc dù được biện minh với lý do các phán quyết của Trọng tài cần được
giám sát, kiểm tra của Tòa án trước khi được thi hành, song các căn cứ để
hủy phán quyết của Trọng tài thương mại ở Việt Nam bao gồm cả các căn cứ
về hình thức lẫn nội dung. Bởi vậy, bản chất pháp lý của hủy phán quyết của
Trọng tài thương mại của Tòa án là chủ đề tiếp tục cần được nghiên cứu, thảo
luận, đánh giá… trong bối cảnh có nhận thức khác nhau từ phía các nhà lập
pháp, Thẩm phán, các nhà khoa học pháp lý và giới thương nhân.
2
Điều cần nhấn mạnh là, trong những năm gần đây, đặc biệt là kể từ khi Luật
TTTM 2010 ra đời, tình trạng hủy phán quyết trọng tài (“PQTT”) ngày càng
gia tăng. Điều này đã và đang làm xói mòn lòng tin của các thương nhân, của
các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ đối với việc
giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài thương mại mà còn ở hệ thống
tư pháp ở Việt Nam.
So với quy tắc tố tụng của các thiết chế trọng tài quốc tế, cũng như pháp
luật về trọng tài của các nước, thì quy định pháp luật về trọng tài thương mại
của Việt Nam dành một số lượng điều khoản nhiều hơn cả để quy định về vấn
đề huỷ quyết định trọng tài, từ các nguyên tắc huỷ quyết định trọng tài, cho
đến thủ tục, trình tự huỷ quyết định trọng tài. Liệu có hay không những quy
định của pháp luật Việt Nam đã và đang tạo ra sự tùy tiện trong việc hủy
PQTT? So với pháp luật về hủy PQTT của các nước khác, pháp luật Việt
Nam về vấn đề này có những bất cập như thế nào? Giải pháp nào để có thể
hạn chế và giảm thiểu tình trạng hủy PQTT trong thời gian tới, nhằm một mặt
đem lại lòng tin và sự yên tâm cho các doanh nghiệp Việt Nam khi quyết định
lựa chọn trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp về thương mại, mặt khác
tạo sự tin tưởng để các doanh nghiệp nước ngoài lựa chọn trọng tài Việt Nam
làm cơ quan giải quyết tranh chấp từ các thương vụ có đối tác Việt Nam?
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về hủy phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay là có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Từ các vấn đề phân tích nêu trên, tác giả
chọn “Hủy phán quyết Trọng tài thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở nước ngoài, trong số các các công trình nghiên cứu về trọng tài, giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng
3
tài và hủy PQTT, tiêu biểu có công trình của tác giả sau đây:
- Công trình của tác giả Allan H. Goodman - Luật sư, Thẩm phán Cục
Dịch vụ Chung của Hoa Kỳ, Ban Kháng án Hợp đồng – có tên gọi: “Kỹ năng
cơ bản cho trọng tài viên mới” (NXB Solomon Publications 1975, tái bản
năm 1985);
- Công trình có tên gọi: “Law and Practice of International
Commercial Arbitration” của 04 tác giả là Alan Redfern, Martin Hunter,
Nigel Blackgary và Constantine Partasides (do NXB Sweet & Maxwell tại
London xuất bản năm 1986, tái bản lần thứ 4 năm 2004);
- Công trình nghiên cứu có tên gọi: “Choice of law in international
commecial arbitration” của tác giả Okezi Chukwumerjie (NXB Quorum
Books, Westport 1994); công trình của các tác giả Mark Huleatt-James,
Nicolas Gould, Phillip Capper có tên gọi: “International Commercial
Arbitration: a handbook” (NXB LLP London 1996); năm 2009,
-Công trình của tác giả Gary B. Born có nhan đề: “International
commercial arbitration”, bao gồm 02 phần: Phần thứ nhất nghiên cứu về lịch
sử hình thành trọng tài TMQT và phần thứ hai phân tích về hoạt động giải
quyết các tranh chấp về hợp đồng quốc tế của trọng tài quốc tế, trong đó nhấn
mạnh về thủ tục tố tụng khi tranh tụng tại các tổ chức trọng tài TMQT.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu kể trên, còn có rất nhiều tác giả, nhà
nghiên cứu pháp luật đã có những bài viết đăng trên các tạp chí liên quan đến
vấn đề hủy PQTT. Có thể kể đến công trình: “Trọng tài và Toà án quốc gia –
Xung đột và hợp tác: Mối quan hệ đang thay đổi giữa Toà án quốc gia và
trọng tài thương mại quốc tế” (Arbitration and National Courrts: Conflict
and Cooperation: The Changing Relation of National Courrts and
International Commercial Arbitration) của 02 tác giả W. Michael Reisman
và Heide Iravani đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài quốc tế (The
American Review of International Arbitration) năm 2010; Công trình: Nơi
4
giao nhau giữa tính hợp pháp và quyền năng trọng tài (At the crossroads of
ligitimacy and arbitral autonnomy) đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài
quốc tế (The American Review of International Arbitration) năm 2005 của tác
giả Thomas E. Carbonneau; liên quan đến pháp luật Châu Á về vấn đề hủy
PQTT, năm 2001, tác giả Li Hu có bài viết với nhan đề “Hủy phán quyết
trọng tài ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” (Setting Aside an Arbitral Award
in the People's Republic of China) đăng trên Tạp chí Hoa Kỳ về Trọng tài
quốc tế (The American Review of International Arbitration)…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu kể trên đã phân tích một cách
tổng quan về hoạt động tố tụng trọng tài, hủy PQTT cũng như công nhận và
thi hành PQTT. Tuy nhiên, các bài viết này chỉ nghiên cứu hủy PQTT như
một bộ phận trong các công trình nghiên cứu chung về trọng tài mà chưa
nghiên cứu vấn đề này một cách độc lập cũng như chưa đề ra được cách giải
quyết cụ thể trong trường hợp một bên không thiện chí thi hành PQTT, cố tìm
cách yêu cầu hủy phán quyết. Mặc dù vậy, đây là các tài liệu rất quý, giúp
cho tác giả Luận văn có cơ sở tham khảo để nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về hủy PQTT, cũng như các quy định của pháp luật về hủy PQTT
nhằm thực hiện Luận văn này.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về hủy PQTT không có nhiều.
Tuy vậy, có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Bài viết của tác giả Dương Thanh Mai “Mối quan hệ giữa Tòa án và
Trọng tài trong giải quyết tranh chấp kinh tế bằng Trọng tài” đăng trên Tạp
chí Nhà nước và pháp luật số 12 năm 1997; bài viết của tác giả Dương Đăng
Huệ “Trọng tài kinh tế phi chính phủ ở Việt Nam: Thực trạng và những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó” đăng trên Thông tin
Khoa học pháp lý (Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp) số 5 năm
1999; bài viết của tác giả Nguyễn Am Hiểu có nhan đề “Một số đặc điểm của
5
pháp luật Trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam hiện nay” đăng trên Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 5 năm 1997… Các bài viết của tác giả Đỗ Văn Đại,
cụ thể: bài viết tham luận Hội thảo “Hủy phán quyết trọng tài ở Việt Nam”
vào năm 2015; bài viết “Hủy phán quyết trọng tài ở việt Nam: bất cập và
hướng hoàn thiện”, trình bày trong Kỷ yếu tọa đàm “Hủy phán quyết trọng
tài” ngày 20 tháng 01 năm 2015 do Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh
phối hợp tổ chức cùng Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam và TAND Tp.
Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó, đáng lưu ý có Luận án tiến sĩ của Phan Thông Anh, “Hủy
phán quyết Trọng tài”, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, 2016.
Trong công trình này, tác giả cũng đã có nhiều nỗ lực nhằm làm rõ những vấn
đề lý luận và thực tiễn về hủy PQTT và nêu ra những bất cập trong các quy
định của pháp luật Việt Nam về hủy PQTT cùng những vướng mắc trong quá
trình áp dụng, Luận án đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy PQTT
và đưa ra những kiến nghị nhằm hạn chế và giảm thiểu tình trạng hủy PQTT
tại Việt Nam trong thời gian tới.
Tuy nhiên, cần nhấn mạnh là, từ việc khảo sát các công trình kể trên vẫn
còn khoảng trống trong nghiên cứu về hoàn thiện khung pháp luật về Trọng
tài thương mại nói chung, về hủy PQTT thương mại nói riêng trong bối cảnh:
xu thế đẩy mạnh sự phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam, Trọng tài
chiếm một tỷ lệ cao trong số các phương thức giải quyết tranh chấp song số
vụ việc giải quyết ở trọng tài không hiệu quả, kéo dài hơn so với Tòa án, tỷ lệ
hủy PQTT thương mại ngày càng tăng và do đó dần làm mất niềm tin trong
mắt khách hàng [45].
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
về hủy phán quyết trọng tài thương mại; phân tích, đánh giá thực trạng các
6
quy định pháp luật và thực tiễn hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt
Nam hiện nay và để từ đó đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về hủy phán quyết trọng tại thường mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng
tài thương mại;
- Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
thương mại ở Việt Nam hiện nay;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thực thi pháp luật về hủy phán quyết
trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy phán
quyết trọng tài thường mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến hủy
PQTT, đặc biệt là nguyên nhân thực trạng các quy định của pháp luật Việt
Nam về căn cứ hủy PQTT, trình tự, thủ tục hủy PQTT và hệ quả pháp lý của
việc hủy PQTT. Luận văn cũng phân tích các quy định của pháp luật quốc tế
và pháp luật một số quốc gia khác về hủy PQTT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của luận văn, nội dung nghiên cứu của đề tài tập trung
phân tích các vấn đề sau đây: (i). Khái niệm, đặc điểm, nguyên nhân hủy
PQTT; (ii). Căn cứ hủy PQTT; (iii). Trình tự, thủ tục hủy PQTT; 3 (iv). Hệ
quả pháp lý của việc hủy PQTT.
Về không gian, Luận án tìm hiểu các quy định của pháp luật một số nước
theo Common Law và Civil Law về hủy PQTT và các tài liệu của Ủy ban
pháp luật thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL)
7
Về thời gian, khi đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về hủy PQTT, Luận
án lấy mốc từ năm 2010 - năm Việt Nam ban hành Luật trọng tài thương mại
cho đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn dựa theo quan điểm biện chứng và duy vật
của chủ nghĩa Mác-Lênin, quan điểm của Đảng, của Nhà nước và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp như: phương pháp phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê. Tùy từng chương, mỗi phương pháp sẽ được sử dụng kết
hợp với các phương pháp khác hoặc được sử dụng với vai trò chủ đạo phù
hợp nội dung nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Luận văn góp phần hoàn thiện hơn về nhận thức và pháp luật về hủy
phán quyết trọng tài thương mại. Đồng thời là tài liệu tham khảo cho giới luật
học, doanh nghiệp, phục vụ và đáp ứng nhu cầu hiểu biết pháp luật về trọng
tài cho các nhà kinh doanh, giúp họ tin tưởng và sử dụng một cách thường
xuyên phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn giúp cho việc học tập, nghiên cứu
và giảng dạy pháp luật về Trọng tài thương mại tại các cơ sở đào tạo khoa học
pháp lý tại Việt Nam. Các kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học cho việc xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại trong
thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hủy phán quyết trọng tài thương mại
8
Chương 2: Thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi
pháp luật về hủy phán quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hủy phán
quyết trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
Kết Luận
Danh mục tài liệu tham khảo
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỦY PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về phán quyết trọng tài thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của phán quyết trọng tài thương mại
Khái niệm phán quyết trọng tài thương mại
Hơn lúc nào hết, tranh chấp và giải quyết tranh chấp đang là vấn đề “nổi
cộm” của nền kinh tế thế giới hiện nay. Có thể khẳng định như vậy bởi lẽ quá
trình hội nhập quốc tế hiện nay đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, trong điều kiện
đó mỗi quốc gia không thể đứng ngoài, tự tách mình khỏi quá trình hội nhập
quốc tế. Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia, sản phẩm làm ra của mỗi tập
đoàn không còn bó buộc trong một phạm vi và lãnh thổ nhất định, mà được
gắn kết với nền kinh tế toàn cầu. Quá trình toàn cầu hoá và khu vực hóa diễn
ra ngày càng mạnh mẽ cùng với đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng,
buộc các nhà sản xuất, kinh doanh không những nâng cao chất lượng sản
phẩm, khả năng phục vụ, mà còn mở rộng hợp đồng với rất nhiều đối tác. Quá
trình liên doanh, liên kết, mở rộng hợp đồng, sự phát sinh ngày càng nhiều
các quan hệ tư tất yếu sẽ nảy sinh những vấn đề tranh chấp. Sự ra đời của
trọng tài như là một hệ quả tất yếu trong việc đa dạng hoá các cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Pháp luật hoàn toàn cho phép các
nhà kinh doanh, các cá nhân, tổ chức có quyền được lựa chọn mô hình mà
mình yêu thích để giải quyết những tranh chấp phát sinh. Chính điều này đã
tạo cơ sở cho sự ra đời của các phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn
(ADR), mà phương thức có vị trí quan trọng nhất trong số đó là giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, ở các nước trên thế giới, ngoài toà án, đều
có một cơ quan tài phán khác là trọng tài.
10
Bản chất phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài là nhanh gọn,
bảo mật, phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm... Giám đốc Phòng
Thương mại Quốc tế (ICC) khu vực châu Á khuyến cáo: Trong điều kiện hiện
nay, khi Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ làm ăn với các nước trên thế
giới, là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), một sân chơi
mà vấn đề tranh chấp thương mại diễn ra thường xuyên thì ngay từ lúc này,
các doanh nghiệp Việt Nam cần có một cái nhìn nghiêm túc về những ưu thế
của trọng tài thương mại.
Theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật TTTM 2010, một quyết định
của Hội đồng trọng tài chỉ được coi là phán quyết trọng tài (PQTT) khi nó
chứa đựng hai yếu tố: (1) Quyết định của Hội đồng trọng tài giải quyết toàn
bộ nội dung vụ tranh chấp; và (2) Quyết định này dẫn đến chấm dứt tố tụng
trọng tài.
Bên cạnh đó, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên là một
trường hợp đặc biệt cần lưu ý. Theo điều 58 Luật TTTM 2010, trong quá trình
tố tụng trọng tài, các bên vẫn được quyền yêu cầu HĐTT tiến hành hòa giải
để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Một thỏa thuận
như vậy sẽ được ghi nhận bằng biên bản hòa giải thành của các bên là chung
thẩm và có giá trị như PQTT. Như vậy, phán quyết trọng tài bao gồm quyết
định công nhận sự thỏa thuận của các bên của Hội đồng trọng tài và phán
quyết trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Tổng hợp những phân tích trên, có thể định nghĩa: “PQTT là quyết định
cuối cùng của HĐTT giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong
đơn kiện, làm chấm dứt tố tụng trọng tài, và có giá trị chung thẩm ràng buộc
đối với các bên theo luật định”
Đặc điểm của phán quyết trọng tài thương mại
Thứ nhất, PQTT giải quyết toàn bộ nội dung tranh chấp được nêu trong
đơn kiện (bao gồm đơm kiện của nguyên đơn và đơn kiện lại của bị đơn).
11
Theo khoản 2, Điều 30 của Luật TTTM, nội dung của một đơn khởi kiện
tại Trọng tài thương mại bao gồm:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
b) Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
c) Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp;
d) Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có;
đ) Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;
e) Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề
nghị chỉ định Trọng tài viên.
Cũng cần nhấn mạnh là, bên cạnh việc gửi bản tự bảo vệ theo Điều 35, bị
đơn của vụ kiện cũng có quyền khởi kiện lại nguyên đơn về những vấn đề liên
quan đến vụ tranh chấp theo Điều 36 Luật TTTM 2010. Điều đó có nghĩa là,
khi ra PQTT, HĐTT phải giải quyết đầy đủ, đúng yêu cầu của các bên.
Trong trường hợp HĐTT ra PQTT vượt quá yêu cầu của các bên thì sẽ
khiến cho phán quyết có nguy cơ bị hủy do HĐTT đã vượt quá thẩm
quyền hoặc bỏ sót một hoặc một số yêu cầu của các bên trong phán quyết thì
các bên có thể yêu cầu HĐTT ra phán quyết bổ sung (theo quy định tại khoản
4 điều 63 LuậtTTTM 2010).
Thứ hai, PQTT là kết quả của tố tụng trọng tài và là cơ sở pháp lý chấm
dứt tố tụng trọng tài
Sau khi PQTT được tuyên thì HĐTT hoàn thành nhiệm vụ giải quyết
tranh chấp của mình theo luật định và tố tụng trọng tài chấm dứt. Theo đó,
ngoài việc sửa những lỗi kỹ thuật (chính tả, số liệu…), HĐTT không thể thay
đổi nội dung quyết định của họ trong PQTT. Những vấn đề đã được quyết
định bởi PQTTsẽ không trở thành đối tượng xét xử của bất kỳ cơ quan tài
phán nào, trừ trường hợp PQTT bị hủy bởi Tòa án theo luật định;
Thứ ba, PQTT là chung thẩm, có hiệu lực kể từ ngày ban hành và có giá
trị bắt buộc với các bên.
12
Điều 61 khoản 5 Luật TTTM 2010 quy định “PQTT là chung thẩm và có
hiệu lực kể từ ngày ban hành”. Điều đó có nghĩa là PQTT có giá trị hiệu lực
thi hành ngay và không thể xem xét lại theo các thủ tục phúc thẩm, giám đốc
thẩm, tái thẩm như các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân.
PQTT có giá trị pháp lý bắt buộc với các bên. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản
chất của hoạt động Trọng tài là nhân danh ý chí tối cao và quyền lực các bên
trao cho để giải quyết tranh chấp. Nguyên tắc này chỉ được thể hiện bằng quy
định: Tố tụng trọng tài là tố tụng một cấp, phán quyết là chung thẩm, các bên
không có quyền kháng cáo. Các bên chỉ có quyền yêu cầu Toà án huỷ quyết
định trọng tài trong những trường hợp rất hạn chế và Toà án trong trường hợp
này không được quyền xét xử lại vụ tranh chấp mà chỉ kiểm tra tính hợp pháp
của quyết định Trọng tài.
1.1.2 Nội dung, hình thức, thời hạn thi hành phán quyết trọng tài
thương mại
Theo thông lệ trọng tài quốc tế, khi đưa tranh chấp ra trọng tài, các bên cam
kết thi hành phán quyết không chậm trễ và được xem như đã từ bỏ quyền kháng
cáo của mình dưới bất kỳ hình thức nào. Mọi phán quyết là chung thẩm, tức
phán quyết đã giải quyết chung cuộc các vấn đề và ràng buộc các bên.
Tất cả phán quyết đều là chung thẩm và ràng buộc nếu không có yêu cầu
hủy phán quyết. Tuy nhiên, thuật ngữ phán quyết chung thẩm thường được sử
dụng chỉ những phán quyết mà ở đó, nhiệm vụ của hội đồng trọng tài đã hoàn
thành. Tùy thuộc vào một số trường hợp ngoại lệ nhất định, bằng việc ra phán
quyết chung thẩm, hội đồng trọng tài đã hết trách nhiệm. Điều này sẽ dẫn đến
những hệ quả quan trọng.
Sự phân biệt giữa một “Phán quyết” và “Lệnh” có lẽ không đơn giản như
việc đọc tiêu đề mà HĐTT gán cho văn bản đó. Tòa án phúc thẩm Paris và tòa
án Liên bang Mỹ đã phân loại một số quyết định trọng tài mà HĐTT đặt tiêu
13
đề là “Lệnh” vào nhóm “Phán quyết”. Điều này có thể gây ảnh hưởng đến các
phán quyết trong quá trình hủy hoặc công nhận và cho thi hành tại các tòa án
quốc gia [2]
Không hội đồng trọng tài nào được trông đợi là có thể đảm bảo phán
quyết của mình sẽ được thi hành tại bất kỳ quốc gia nào thắng kiện lựa chọn
để thi hành phán quyết. Tuy nhiên, hội đồng trọng tài phải nỗ lực hết sức để
phán quyết có thể thi hành được. Để hội đồng trọng tài đạt được tiêu chuẩn
hành động, ban hành một phán quyết trọng tài có thể được thi hành trên phạm
vi quốc tế, hội đồng trọng tài phải đảm bảo rằng mình có thẩm quyền đối với
tất cả các vấn đề được đệ trình tới mình.
Hội đồng trọng tài cũng phải tuân thủ mọi quy tắc tố tụng điều chỉnh quá
trình tố tụng trọng tài. Những quy tắc này thường bao gồm quy định về phân
bổ phí trọng tài, xác định địa điểm trọng tài, thủ tục phê chuẩn chính thức
phán quyết của một trung tâm trọng tài… Hội đồng trọng tài cũng phải ký và
đề ngày tháng tại phán quyết, sắp xếp gửi phán quyết cho các bên theo quy
định pháp luật. Việc công nhận và cho thi hành một phán quyết trọng tài có
thể bị từ chối nếu cơ quan có thẩm quyền “tại quốc gia nơi công nhận” cho
rằng, việc công nhận và cho thi hành phán quyết có thể vi phạm trật tự công
của quốc gia đó [2].
Căn cứ vào nội dung và hình thức của PQTT, trên thế giới, người ta phân
loại các PQTT thành các loại sau:
Phán quyết chung thẩm
Phán quyết chung thẩm thường là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài
được tiến hành từ đầu đến cuối. Tuy nhiên, phán quyết có thể là thỏa thuận
hòa giải giữa các bên. Trong trường hợp này, phán quyết đó thường được biết
đến như là một phán quyết đồng thuận hoặc phán quyết dựa trên những điều
khoản thỏa thuận.
14
Thời hạn phản đối phán quyết bắt đầu được tính kể từ ngày phán quyết
được ban hành. Khi phán quyết chung thẩm đã được lập, không bên nào có
thể phản đối bất kỳ nội dung nào trong phán quyết này, nếu nội dung lập được
dựa trên một phán quyết từng phần không bị phản đối trước đó. Hơn nữa, chỉ
có một phán quyết mới thỏa mãn điều kiện để được công nhận và cho thi hành
theo các công ước quốc tế có liên quan, bao gồm Công ước New York.
Phán quyết từng phần
Hội đồng trọng tài không nên ban hành phán quyết chung thẩm cho đến
khi cảm thấy hài lòng để thực sự hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nếu vẫn còn
các vấn đề chưa được giải quyết, thì nên ban hành một phán quyết biểu thị rõ
ràng rằng, đây là một phán quyết từng phần. Loại phán quyết này là một cách
thức hiệu quả nhằm quyết định các vấn đề có thể giải quyết dễ dàng trong quá
trình tố tụng trọng tài, tiết kiệm thời gian và chi phí cho các bên. Thẩm quyền
ban hành phán quyết từng phần của hội đồng trọng tài có thể xuất phát từ thỏa
thuận trọng tài hoặc từ pháp luật áp dụng. Trên thực tế, phán quyết từng phần
thường xuyên được lập trong các vụ việc tại ICC (Quy tắc của Phòng Thương
mại Quốc tế), đặc biệt trong trường hợp thẩm quyền bị phản đối hoặc hội
đồng trọng tài phải xác định pháp luật phù hợp.
Một ví dụ về trường hợp mà phán quyết từng phần có thể hữu ích, chẳng
hạn như khi có tranh chấp giữa các bên về luật áp dụng cho nội dung tranh
chấp. Nếu tranh chấp này không được giải quyết dứt điểm ở giai đoạn đầu của
quá trình tố tụng, các bên có thể tìm căn cứ cho vụ việc của mình bằng cách
dẫn chiếu đến các hệ thống pháp luật khác nhau. Thậm chí các bên có thể phải
đưa ra chứng cứ là lời giải thích của các luật sư có kinh nghiệm. Trong các
trường hợp này, hội đồng trọng tài thường nhận thấy việc đưa ra quyết định
sơ bộ về luật áp dụng là cần thiết.
15
Tuy nhiên, sẽ xuất hiện những rủi ro trên thực tế khi cố gắng phân tách
các vấn đề cần quyết định vào giai đoạn đầu của quá trình tố tụng trọng tài.
Bản chất của vụ tranh chấp và cách thức các bên trình bày vụ việc có thể thay
đổi trong quá trình tố tụng trọng tài.
Nhiều quy tắc trọng tài quy định rõ ràng về phán quyết bổ sung. Ngay cả
khi phán quyết bổ sung không được quy định rõ ràng tại các quy tắc trọng tài,
vẫn thường tồn tại một công cụ tố tụng, thông qua đó phán quyết bổ sung vẫn
có thể thực hiện được. Quy tắc của ICC là một ngoại lệ. Quy tắc này có quy
định cả về việc sửa lỗi văn thư hoặc đánh máy cũng như giải thích phán
quyết, nhưng lại không quy định về việc lập một phán quyết dựa trên phản đối
của một bên rằng, hội đồng trọng tài đã không xem xét một vấn đề đã được
trình bày. Điều này rõ ràng là kết quả của thủ tục rà soát của tòa án ICC [2].
Phán quyết mà một bên không tham dự hoặc từ chối tham dự
Một loại phán quyết khác là phán quyết của quá trình tố tụng mà một bên
không tham dự hoặc từ chối tham dự. Trường hợp này, phán quyết đó được
gọi là phán quyết với một bên vắng mặt.
Tính huống này có thể là hoàn toàn không tham gia, nghĩa là ngay từ lúc
bắt đầu tố tụng hoặc có thể xảy ra giữa chừng trong quá trình tố tụng, là kết
quả của việc thay đổi ý kiến hoặc chiến thuật của bên không tham gia. Hội
đồng trọng tài buộc phải giữ vai trò chủ động hơn trong những trường hợp
như thế này, khiến cho nhiệm vụ của hội đồng trọng tài khó khăn hơn. Nếu
hội đồng trọng tài ra phán quyết có lợi cho bên tham gia tố tụng trọng tài, hội
đồng trọng tài sẽ nỗ lực hết sức để đảm bảo rằng phán quyết có hiệu lực.
Thêm nữa, hội đồng trọng tài phải giải quyết mọi vấn đề về thẩm quyền có
liên quan và nêu rõ trong phán quyết, cho dù các vấn đề đó có được một trong
các bên đưa ra hay không.
16
Phán quyết trong nước và nước ngoài
Sự khác biệt giữa hai phán quyết này có ý nghĩa trong bối cảnh yêu cầu
hủy và cho thi hành phán quyết tại tòa án quốc gia. Tại Ấn Độ, đạo luật phán
quyết nước ngoài năm 1961, định nghĩa phán quyết nước ngoài là phán quyết
được lập tại quốc gia khác nhằm giải quyết bất đồng giữa các bên xuất phát từ
các quan hệ pháp luật. Được hiểu là quan hệ thương mại theo pháp luật, có
hiệu lực tại Ấn Độ dù có hay không có hợp đồng. Tòa án Tối cao Ấn Độ đã
xem xét thuật ngữ “Phán quyết nước ngoài” và quyết định rằng, một vụ kiện
chỉ có thể diễn ra khi tòa án cho rằng, quan hệ giữa các bên có thỏa thuận
trọng tài được xem là mối quan hệ “thương mại”. Thuật ngữ này nên được
quy định với ý nghĩa thuật ngữ bao quát. Ngược lại, Tòa án Tối cao Ấn Độ
quyết định rằng, thuật ngữ “Phán quyết trong nước” có nghĩa là phán quyết
được lập tại Ấn Độ, dù thuộc bối cảnh trong nước thuần túy hay không. Do
đó, định nghĩa này cũng bao hàm một phán quyết “được lập trong nước” dù
quá trình tố tụng trọng tài là ở trong nước hay quốc tế.
Ở Việt Nam, theo khoản 1, Điều 61 Luật TTTM 2010 quy định về nội
dung, hình thức của PQTT như sau:
1. Phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các nội dung
chủ yếu sau đây:
a) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết;
b) Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
c) Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên;
d) Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp;
đ) Căn cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thoả thuận không cần nêu
căn cứ trong phán quyết;
e) Kết quả giải quyết tranh chấp;
g) Thời hạn thi hành phán quyết;
17
h) Phân bổ chi phí trọng tài và các chi phí khác có liên quan;
i) Chữ ký của Trọng tài viên
1.1.3. Hiệu lực của phán quyết trọng tài thương mại
Hiệu lực chung thẩm (Res judicata or res iudicata) đối với các bên
Res judicata or res iudicata là thuật ngữ Latin được đề cập đầu tiên trong
tác phẩm “De re iudicata” của Angelo Gambiglioni năm 1579 và sau này
được phổ biến rộng rãi trong hệ thống pháp luật Civil Law và Common Law
như một nguyên tắc pháp luật. Điều này cho thấy, một vụ kiện đã được xét xử
dựa trên quy định của pháp luật thì không thể bị kiện một lần nữa bởi cùng
các bên.
Do được các bên trao thẩm quyền xét xử bằng thỏa ước trọng tài có hiệu
lực, PQTT thương mại là chung thẩm và có giá trị bắt buộc với các bên tham
gia tranh chấp và không thể là đối tượng kháng cáo để xem xét ở một phiên
xét xử khác của Trọng tài hoặc Tòa án. Điều này có nghĩa là, Tòa án sẽ phải
từ chối thụ lý vì vấn đề đã được giải quyết nếu một bên kiện bên kia về cùng
vụ tranh chấp và có cùng yêu cầu như trong tố tụng trọng tài.
Tuy vậy, phán quyết này không thể ràng buộc các bên trong bất kỳ quá
trình tố tụng nào tiếp đó nếu PQTT thuộc một trong những trường hợp bị hủy
bởi Tòa án có thẩm quyền.
Hiệu lực của phán quyết trọng tài thương mại với bên thứ ba
Có thể khẳng định rằng, PQTT không có tính ràng buộc trực tiếp đối với
bên thứ ba. Tuy nhiên, vấn đề gây tranh cãi là PQTT có ảnh hưởng đến bên
thứ ba như thế nào? Thực tiễn cho thấy, PQTT có ảnh hưởng gián tiếp đến
bên thứ ba nếu trong trường hợp bên thứ ba có quyền, nghĩa vụ liên quan hoặc
cùng cùng chịu trách nhiệm với một bên tham gia tố tụng trọng tài.
18
1.2. Hủy phán quyết trọng tài thương mại
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của hủy phán quyết trọng tài thương mại
Theo thông lệ quốc tế, hủy quyết định trọng tài là một thủ tục pháp lý do
Tòa án tiến hành nhằm xem xét lại PQTT thương mại được ban hành có tuân
thủ đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục xét xử của TTTM theo luật định.
Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các bên, hạn chế sự tuỳ tiện của
Trọng tài viên, pháp luật quy định sau khi vụ tranh chấp được giải quyết bởi
Trọng tài, nếu một bên không đồng ý sẽ có quyền yêu cầu Toà án nơi Hội
đồng Trọng tài ra quyết định để yêu cầu được huỷ quyết định đó. Tòa án
không xét xử lại việc tranh chấp khi giải quyết vì Tòa án không phải cấp xét
xử thứ hai của Trọng tài, cũng không có quyền kết luận đúng sai về nội dung
phán quyết về việc xác định quyền và nghĩa vụ các bên tham gia tranh chấp,
Tòa án chỉ có quyền xem xét căn cứ ra quyết định hủy hoặc giữ phán quyết
trọng tài. Nếu phán quyết Trọng tài bị hủy thì tranh chấp chưa được giải
quyết, khi đó thì các bên có quyền khởi kiện tại Tòa án.
Hủy PQTT là một chế định của pháp luật TTTM, theo đó, một trong các
bên tranh chấp được quyền yêu cầu tòa án bác PQTT nếu có đủ căn cứ chứng
minh rằng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong những trường hợp bị
hủy theo quy định của pháp luật.
Việc hủy PQTT phải tuân theo một trình tự và thủ tục chặt chẽ do pháp
luật quy định.
1.2.2 Bản chất, cơ sở pháp lý của hủy phán quyết trọng tài thương
mại
Một yếu tố đảm bảo cho tính khả thi trong phán quyết của trọng tài là
các quy định về hủy phán quyết trọng tài phải hợp lý và chặt chẽ, tránh trường
hợp quyết định trọng tài có thể bị bên thua kiện yêu cầu hủy một cách tùy
tiện. Tố tụng trọng tài không có nhiều giai đoạn xét xử, không có thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Vì vậy, không ai có thể đảm bảo rằng quyết
19