Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.83 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG TUẤN ANH

CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TUNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG TUẤN ANH

CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tung hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN VĂN ĐỘ

HÀ NỘI, 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Lương Tuấn Anh, Học viên cao học đợt 2 -2017 chuyên ngành
Luật Hình sự và Tố tụng hình sự tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan
luận văn “Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hà Nội ” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện.
Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác
được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn
gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam
đoan ở trên.
Tác giả luận văn

Lương Tuấn Anh


MỤC LỤC
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
........................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm ............................................................ 7
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm ....................... 14
1.3. Đường lối xử lý các hành vi về mại dâm ........................................ 29
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH CÁC TỘI PHẠM34
VỀ MẠI DÂM............................................................................................... 34
2.1. Khái quát lịch sử các tội phạm về mại dâm ........................................ 34
2.2. Quy định về tội phạm mại dâm trong bộ luật hình sự 2015 ................ 43
Chương 3 THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM MẠI DÂM Ở HÀ
NỘI VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM XÉT XỬ CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI
DÂM ............................................................................................................... 51
3.1. Thực tiễn xét xử các tội phạm mại dâm ở Hà Nội ............................... 51

3.2. Các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm..................... 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiện hình sự

VNĐ

Việt nam đồng


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm tội phạm về mại dâm tại
Hà Nội (2014-2018) ................................................................................. 53
Bảng 3.2 Kết quả xét xử tội chứa mại dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội
trong thời gian (2014-2018) ..................................................................... 55
Bảng 3.3 Kết quả xét xử tội môi giới mại dâm trên địa bàn thành phố Hà

Nội trong thời gian (2014-2018) .............................................................. 56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mại dâm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, xuất hiện trong mọi xã
hội, mọi quốc gia. Nạn mại dâm một căn bệnh kinh niên của tất cả các
nước, các xã hội khác nhau, luôn là một vấn đề đau đầu của tất cả các hệ
thống pháp luật và ngày càng có xu hướng gia tăng trầm trọng hơn.
Ở Việt Nam, mại dâm là một hiện tượng trái với quan điểm đạo đức
của xã hội. Con người không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng này và
luôn tìm mọi biện pháp để loại trừ nó ra khỏi đời sống xã hội. Tệ nạn mại
dâm đã và đang làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến đời sống văn hóa và trật tự an ninh xã hội.
Nghiêm trọng hơn, nó còn là một trong những nguyên nhân lây lan căn
bệnh thế kỷ HIV ra cộng đồng, chứa đựng những nguy cơ có thể làm hủy
diệt sự sống của con người và gây hậu quả nghiệm trọng khác đến sự phát
triển của giống nòi.
Điều đáng nói là, bên cạnh những chủ thể tự nguyện hành nghề,
những chủ thể do sa cơ lỡ bước vào con đường mại dâm thì hằng năm cũng
có rất nhiều các cô gái, thâm chí là trẻ em bị bắt cóc, bị bán, bị giam nhốt
trong các động mại dâm. Mại dâm vô hình đã trở thành một thứ kỹ nghệ
kinh doanh trên thân xác phụ nữ và trẻ em, phá vỡ biết bao mái ấm gia đình
và làm lụi tàn cuộc đời của biết bao con người, cả người bán và người mua.
Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trường, giao lưu quốc tế rộng rãi như
hiện nay, nạn mại dâm đã xâm nhập vào nước ta qua nhiều con đường và
bằng nhiều hình thức khác nhau, khiến cho số lượng gái mại dâm, người
mua dâm, các chủ chứa và các môi giới mại dâm ngày càng tăng cao, hình
thành nên những đường dây mại dâm có tính chất quốc tế và nạn buôn bán
phụ nữ nhằm kinh doanh mại dâm ngày càng nghiêm trọng. Hiện nay có

1


nhiều hình thức hoạt động mại dâm mới: Gái gọi, du lịch tình dục, người
nước ngoài bán dâm, mại dâm nam, mại dâm đồng tính, người chuyển giới
bán dâm, môi giới mại dâm thông qua mạng internet, facebook, Zalo…
Tình trạng hoạt động mại dâm ngày càng tinh vi phức tạp, đối tượng mua
dâm thuộc nhiều lứa tuổi, thành phần khác nhau.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách, cũng như hệ thống pháp luật để phòng ngừa và đấu tranh với tệ
nạn này. Bộ luật hình sự năm 2015 ra đời trên cơ sở kế thừa và hoàn thiện
các tội phạm về mại dâm, là công cụ góp phần đẩy lùi hiện tượng mại dâm,
nhưng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.
Trước thực tế đó, vấn đề đặt ra là phải có một hệ thống pháp luật
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống các vấn đề lý luận về tội phạm
mại dâm, phân tích các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này,
đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật để có các giải pháp
hiệu quả trong công tác phòng chống tội phạm mại dâm trong bối cảnh của
đất nước.
Xuất phát từ những thực trạng trên, tác giả nhận thấy việc chọn Đề tài:
“Các tội phạm về mại dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thành phố Hà Nội ” làm luận văn thạc sỹ là hết sức cần thiết, việc nghiên
cứu thành công Đề tài có ý nghĩa quan trọng về lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các tội phạm về mại dâm là đề tài được các nhà hình sự học trên thế
giới và trong nước quan tâm và nghiên cứu. Đặc biệt trong thời gian qua,
trong nước đã có những công trình nghiên cứu ở mức độ khác nhau. Đó là
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Tệ nạn mại dâm - Thực trạng và các giải pháp
nâng cao hiệu quả phòng ngừa” của Trần Hải Âu năm 2004. Tác giả đã đề
cập những vấn đề lý luận chung về phòng ngừa tệ nạn mại dâm, quan điểm


2


một số nước trên thế giới và Việt Nam, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về
hoạt động phòng ngừa tệ nạn mại dâm, tác giả đã làm rõ thực trạng, tình
hình tệ nạn mại dâm, đặc điểm nhân thân người chứa mại dâm. Đây là công
trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu về tệ nạn mại dâm và hoạt động phòng
ngừa mại dâm. [2];
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Điều tra tội phạm về mại dâm có tổ chức” của
Nguyễn Hoàng Minh 2010 [15]. Tác giả đi sâu làm rõ khái niệm tội phạm
về mại dâm và tội phạm về mại dâm có tổ chức, phân tích làm rõ thực trạng
của loại tội phạm này và đưa ra dự báo cũng như các giải pháp nâng cao
hoạt động điều tra loại tội phạm nay.
- Luận văn Thạc sỹ của tác giả Nguyễn Trường An với đề tài “Các tội
phạm về mại dâm theo quy định của Luật hình sự Việt Nam - thực tiễn xét
xử trên địa bàn tỉnh Hoà Bình” bảo vệ năm 2014 [1]. Tác giả làm rõ vấn đề
lý luận các tội phạm về mại dâm và ý nghĩa của việc quy định các loại tội
này trong BLHS cũng đã đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiệt pháp luật
cũng như luật hóa một số tội mới trong BLHS đối với nhóm tội này.
Ngoài ra còn một số giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công
trình sau: GS. TSKH. Lê Cảm (Chủ biên) [4], Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2003; Ths. Đinh
Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm),
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh 2000 [17]; GS.TS.Võ Khánh Vinh, Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) [26], Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 2001; "Tệ nạn xã hội ở Việt Nam: Thực trạng, nguyên nhân và giải
pháp" do TS. Lê Thế Tiệm và Phạm Thị Phả chủ biên [22], Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 1994; “Mại dâm, ma túy, cờ bạc- Tội phạm thời hiện
đại” năm 2003 của PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm cùng tập thể tác giả [27].

Ngoài ra còn một số các bài báo, tạp chí như “Thực tiễn áp dụng các quy

3


định của Bộ luật hình sự về tội phạm liên quan đến mại dâm và những vấn
đề hoàn thiện” (Tạp chí Tòa án nhân dân số 24/2007, Đỗ Đức Hồng Hà);
“Tội chứa mại dâm, môi giới mại dâm: Lý luận và thực tiễn” (Tạp chí
nghiên cứu lập pháp số 22/2010) [10];
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu nêu trên hầu hết là dưới góc độ
điều tra tội phạm học hoặc phân tích từng tội phạm cụ thể riêng rẽ trên một
số các vụ án thực tế điển hình mà chưa có một công trình khoa học nào cấp
luận văn thạc sỹ giải quyết một cách tổng thể các vấn đề về các tội phạm
về mại dâm, đồng thời tổng kết thực tiễn xét xử qua đó đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu một cách tổng
quát về các tội phạm về mại dâm trong giai đoạn hiện nay là một công việc
cần thiết và có ý nghĩa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Đề tài trên cơ sở nhận thức toàn diện, có hệ thống về các tội phạm
mại dâm và đánh giá thực tiền áp dụng, đề xuất những kiến nghị cho việc
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định về tội phạm mại dâm trong thực tiễn.
- Để đạt được những mục đích trên,luận văn cần giải quyết những
nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu lý luận về các tội phạm về mại dâm như khái niệm, ý
nghĩa của việc quy định các tội phạm mại dâm.
+ Phân tích các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về các tội
phạm về mại dâm.
+ Đánh giá thực tiễn xét xử loại tội này tại các Tòa án nhân dân Hà
Nội.

+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả pháp
luật về các tội phạm mại dâm.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chế định các tội phạm
về mại dâm trong luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng các quy phạm
thuộc chế định này trong công tác xét xử.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các vấn đề liên quan đến các tội
phạm về mại dâm dưới góc độ luật hình sự, chủ yếu dựa trên cơ sở cac quy
định của BLHS 2015. Đề tài nghiên cứu thực tiễn xét xử các Tòa án hai cấp
Thành phố Hà Nội thời gian trong 05 năm từ 2014-2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu là phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – LêNin, tư tưởng Hồ Chính
Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về pháp luật, về
phòng chống tội phạm.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: so sánh, phân
tích, tổng hợp, lịch sử, vụ việc điển hình... các phương pháp này được sử
dụng đan xen lẫn nhau để có thể xem xét một cách toàn diện các vấn đề lý
luận và thực tiễn. Đồng thời, việc nghiên cứu còn dựa vào số liệu thống kê
về các vụ án mại dâm tại địa bàn thành phố Hà Nội và những thông tin
được khai thác trên các tạp chí, trên mạng Internet nhằm phân tích tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề cần nghiên
cứu của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Những phân tích, đánh giá và kiến nghị nêu trong luận văn có ý
nghĩa thiết thực về lý luận và thực tiễn trong công tác đấu tranh phòng,

chống các tội phạm về mại dâm, góp phần xây dựng nhận thức đầy đủ và
đúng đắn về chế định các tội phạm về mại dâm, góp phần đổi mới nội dung

5


và phương pháp đấu tranh phòng, chống các tội phạm này trong tình hình
mới.
Luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu luận văn gồm có ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận các tội phạm về mại dâm
Chương 2: Thực trạng pháp luật quy định các tội phạm về mại dâm
Chương 3: Thực tiễn xét xử các tội phạm về mại dâm ở Hà Nội và
các giải pháp bảo đảm xét xử các tội phạm về mại dâm

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CÁC TỘI PHẠM VỀ MẠI DÂM
1.1. Khái niệm tội phạm về mại dâm
1.1.1. Khái niệm mại dâm
Mại dâm là một tệ nạn xã hội, làm ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống,
đạo đức và thuần phong mỹ tục của dân tộc. Bên cạnh đó, nó còn là biểu
hiện của một xã hội rối loạn kỷ cương, hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện, và là nguyên nhân lây lan các căn bệnh nguy hiểm khác, các tệ nạn
xã hội khác làm suy đồi sự phát triển của loài người. Tuy nhiên, nó lại đã
và đang tồn tại trong các thời kỳ lịch sử của hầu hết các Nhà nước và xã

hội, thường được gọi dưới cái tên- nghề buôn phấn bán hương. Chính vì
vậy, trong đại bộ phận pháp luật hình sự các quốc gia, trong đó có Việt
Nam, đã có những quy định về trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm
về mại dâm, coi đó là một trong những hành vi nguy hiểm cho xã hội và
cần phải được xử lý nghiêm minh.
Trước hết, mại dâm có nghĩa là gì? Thuật ngữ “ mại dâm” hay “ mãi
dâm” có nguồn gốc từ tiếng Latinh là “ Prostiuere” có nghĩa ban đầu là “
bày ra để bán”, chỉ việc bán thân một cách tùy tiện, không thích thú, mại
dâm đã tồn tại hàng nghìn năm trước. Theo lý thuyết xã hội học thì mại
dâm có thể được dịch nghĩa là việc trao đổi sự thỏa mãn tình dục để lấy
tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất nào [15].
Có rất nhiều cách hiểu thế nào là mại dâm? Trước khi BLHS 1985,
1999, 2015 ra đời, đã có định nghĩa cho rằng, mại dâm là hoạt động nhằm
cung cấp sự thảo mãn tình dục cho người khác ngoài phạm vi quan hệ vợ
chồng và bạn bè. Mại dâm cung cấp tình dục mang tính đồi trụy và tạo ra
không khí vô đạo đức và nguy hiểm, tác dụng như thuốc kích thích đối

7


với một loại người nhất định [9]. Quan điểm này chủ yếu nhìn mại dâm là
một hành vi suy đồi đạo đức. Trong Luận án thạc sỹ Luật học của mình,
tác giả Phạm Duy Quang lại nhận diện đâu là một hành vi mại dâm qua
các dấu hiệu:
Thứ nhất, có sự thỏa thuận giữa hai bên là nam và nữ (ở đây không
đề cập đến dạng mại dâm cùng nam giới) về việc đáp ứng và thỏa mãn
dịch vụ quan hệ tình dục thông qua giao hợp hoặc các hình thức khác như
thủ dâm…
Thứ hai, việc trao đổi tình dục được thực hiện trên cơ sở người bán
dâm- tức là người đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là phụ nữ) được

người mua dâm- người cần được đáp ứng nhu cầu tình dục (thường là nam
giới) trả hoặc hứa trả một giá trị vật chất nhất định như tiền, đồ trang sức
hoặc các vật có giá trị khác…
Thứ ba, hành vi trao đổi tình dục đó xảy ra ngoài phạm vi hôn nhân.
Như vậy, theo tác giả Phạm Duy Quang, thì hành vi mại dâm bắt
buộc phải xảy ra giữa những người không có quan hệ hôn nhân (giữa vợ
và chồng), và mục đích của người bán dâm hướng đến phải là tiền hoặc
giá trị vật chất nào đó. Nếu mục đích không phải là giá trị vật chất mà do
nhu cầu, sở thích…thì chỉ được coi là hành vi thông dâm.
Trong quá trình nghiên cứu các lĩnh vực phòng ngừa tệ nạn mại dâm,
đấu tranh với tội phạm về mại dâm, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực
tiễn đã đưa ra khái niệm mại dâm, nhưng các khái niệm đó còn có những
điểm khác nhau, thiếu thống nhất. Nghiên cứu các văn bản pháp luật
chúng tôi nhận thấy, tuy chưa có khái niệm cụ thể về mại dâm, nhưng
Pháp lệnh Phòng chống mại dâm số 10/2003/PL UBTVQH11 ngày 17
tháng 3 năm 2003 có những quy định liên quan đến mại dâm. Cụ thể:
– Mại dâm là hành vi mua dâm, bán dâm (khoản 3 Điều 3).

8


+ Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác
trả cho người bán dâm để được giao cấu (khoản 2 Điều 3).
+ Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để
được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác (khoản 1 Điều 3) [25]. Như vậy,
mua dâm hoặc bán dâm đều là mại dâm. Hành vi mua dâm là nhằm thỏa
mãn nhu cầu tình dục còn hành vi bán dâm nhằm thỏa mãn nhu cầu vật
chất. Sẽ không phải là mại dâm nếu hai người giao cấu với nhau chỉ nhằm
thỏa mãn nhu cầu tình dục. Do đó, có thể nói, mua dâm và bán dâm là hai
mặt của mại dâm.

Cũng theo Pháp lệnh, việc thoả mãn tình dục của người mua chỉ bằng
hình thức giao cấu. Cho nên việc mua bán dâm để thoả mãn nhu cầu tình
dục bằng các hành vi quan hệ tình dục khác sẽ không cấu thành tội phạm
mại dâm. Quy định này đã trở nên lạc hậu cần được xem xét lại đảm bảo
sự thống nhất của hệ thống pháp luật (BLHS 2015 trong các tội phạm về
tình dục như hiếp dâm, cưỡng dâm… ngoài giao cấu còn bổ sung hành vi
quan hệ tình dục khác) và phù hợp với thực tiễn xã hội hiện nay (ngoài
mau bán dâm truyền thống, cò có mua bán dâm đồng giới).
Trong thực tiễn, hành vi giao cấu có thể xảy ra giữa hai người trong
hoặc ngoài quan hệ hôn nhân. Trong đó, họ có thể cùng thỏa mãn nhu cầu
tình dục cho nhau hoặc có người thỏa mãn nhu cầu tình dục, có người
nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất. Theo quy định của Pháp lệnh Phòng
chống tệ nạn mại dâm thì chỉ những quan hệ tình dục thông qua giao cấu
để nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc để thỏa mãn tình dục
phải trả tiền hoặc vật chất thì mới bị coi là mại dâm, nếu chỉ nhằm thỏa
mãn nhu cầu tình dục của nhau, không nhằm mục đích vật chất thì không
bị coi là mại dâm.

9


Từ những khái niệm về mại dâm theo các quan niệm khác nhau, trên
cơ sở đó ta có thể đưa khái niệm về về mại dâm. “Mại dâm là hành vi
quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của người nhằm thỏa mãn dục vọng cho
mình và phải trả tiền hoặc lợi ích vật chất cho người khác hoặc nhằm
thỏa mãn cho người khác để nhận tiền hoặc lợi ích vật chất”.
1.1.2 Khái niệm tội phạm về mại dâm
Theo tác giả Trần Hải Âu: Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội về mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm

phạm đến trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội
chủ nghĩa, đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến
an ninh trật tự [2]. Tương tự như trên, theo PGS.TS Nguyễn Huy Thuật:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội liên quan đến
mua bán tình dục, được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm hại đến trật tự công
cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, đến sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm con người, ảnh hưởng đến an ninh xã hội [33, tr.
409].
Theo tác giả Nguyễn Hoàng Minh:
Tội phạm mại dâm là những hành vi nguy hiểm cho xã hội trong hoạt
động mua bán tình dục được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm tới trật
tự công cộng, an toàn công cộng, đến nếp sống văn minh, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm con người, cần phải xử lý nghiêm minh bằng pháp luật
hình sự [14, tr. 33].
Chúng tôi đồng ý với các quan điểm trên khi nói tội phạm về mại
dâm là hành vi nguy hiểm cho xã hội thuộc lĩnh vực mua bán tình dục do

10


người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý. Tuy
nhiên qua nghiên cứu cụ thể cho thấy tội phạm về mại dâm bao gồm nhiều
hành vi khác nhau nên không thể dùng "tội phạm mại dâm" mà phải dùng
"tội phạm về mại dâm" mới bao hàm hết hành vi thuộc nhóm tội này, vì
vậy để chính xác về thuật ngữ chúng tôi hoàn toàn đồng ý như tác giả
Nguyễn Hoàng Minh đã sử dụng cụm từ "tội phạm về mại dâm".
Từ những phân tích trên, khái niệm tội phạm về mại dâm theo chúng
tôi được hiểu như sau: “Tội phạm về mại dâm là những hành vi nguy hiểm

cho xã hội trong hoạt động mua bán tình dục (quan hệ tình dục khác)
được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm trật tự xã hội, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người được thể hiện qua các hành vi chứa mại
dâm, môi giới mại dâm, mua dâm người chưa thành niên”.
1.1.3. Ý nghĩa việc quy định các tội phạm về mại dâm
Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của đất nước, bên cạnh
các mặt tích cực của nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề
tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến ngày càng phức tạp. Trong
tình hình mới, Bộ luật hình sự 1985 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung bốn
lần; Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn bộc lộ nhiều hạn
chế như kết cấu một số chương, điều chưa hợp lý, một số tội danh quy
định chưa cụ thể; khung hình phạt trong một số điều luật quá rộng, dễ dẫn
đến việc áp dụng tùy tiện. Xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống
tội phạm, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1999 là một đòi hỏi
khách quan. Vì những lẽ đó, ngày 27/11/2015, Quốc hồi nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua,nhưng vì
một số lý do nên đã sửa đổi bổ sung năm 2017 và chính thức có hiệu lực
ngày 1/1/2018 thay thế Bộ luật hình sự 1999.

11


Theo Bộ luật hình sự năm 2015, tội phạm về mại dâm được quy định
tại các Điều 327- Tội chứa mại dâm, Điều 328- Tội môi giới mại dâm,
Điều 329- Tội mua dâm người dưới 18 tuổi của Chương XXI Các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng.
Việc quy định các tội phạm về mại dâm trong pháp luật hình sự có
một ý nghĩa quan trọng và to lớn trong nhiều phương diện, thể hiện:
Thứ nhất, quy định về các tội phạm mại dâm thể hiện sự tôn trọng

các chuẩn mực đạo đức xã hội của pháp luật. Pháp luật và đạo đức luôn có
mối quan hệ gắn bó mật thiết và biện chứng, không thể tách rời. Trong
những giới hạn nhất định, pháp luật là sự thể hiện của các chuẩn mực đạo
đức, chỉ khi tôn trọng chuẩn mực đạo đức thì pháp luật nói chung và pháp
luật hình sự nói riêng mới gần gũi với đời sống nhân dân, bộc lộ được
hiệu quả áp dụng trong thực tiễn của mình và khiến cho người dân nghiêm
minh chấp hành pháp luật. Bên cạnh đó, mại dâm là một hiện tượng phi
đạo đức, trái với nếp sống lành mạnh và luôn luôn không được thừa nhận
trong xã hội Việt Nam, bị xã hội “ruồng bỏ”, vì vậy, việc pháp luật hình
sự điều chỉnh về hiện tượng này là điều tất yếu và phù hợp với đạo đức xã
hội.
Thứ hai, việc quy định về các tội phạm mại dâm là sự cụ thể hóa
nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp- đạo luật cao nhất của nước Việt Nam và
nhiệm vụ của Bộ luật hình sự 2015. Trong Hiến pháp 2013 đã xác định về
quyền con người là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo đảm thực
hiện: “ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” [20].
Điều này được cụ thể hóa trong nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự như sau:
“Bộ luật hình sự có nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm

12


chủ của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, chống mọi hành vi phạm tội;
đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm” [19]. Hiến pháp và pháp luật suy cho cùng cũng
là sự thể hiện ý chí của con người, do đó quyền con người luôn được coi

trọng và bảo vệ. Muốn như vậy thì chế độ xã hội chủ nghĩa phải được bảo
vệ, trật tự xã hội phải được giữ vững, do đó mà công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm để giúp loài người được sống trong môi trường an
ninh và trong sạch luôn luôn có vai trò và ý nghĩa quan trọng.
Thứ ba, quy định các tội phạm về mại dâm cũng là sự thể chế hóa
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta. Đây được coi là một nhiệm vụ trọng
tâm của các cấp ban ngành cũng như toàn thể nhân dân trên cả nước
trong, Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XI nêu rõ : “Tập trung giải quyết
một số vấn đề xã hội bức xúc (suy thoái đạo đức, lối sống, tệ nạn xã hội,
trật tự, kỷ cương xã hội)” [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền tại Việt Nam, là đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, người
lao động và lấy chủ nghĩa Mac-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng, do vậy những chủ trương và đường
lối, chỉ dẫn của Đảng luôn là định hướng trong tất cả các lĩnh vực chính
trị - kinh tế - xã hội. Vì thế, những quy định của pháp luật không được
phép đi ngược lại tinh thần của Đảng, đó chính pháp luật xã hội chủ
nghĩa.
Thứ tư, quy định về các tội phạm mại dâm trong Bộ luật hình sự là
cơ sở pháp lý quan trọng để đấu tranh chống lại các hành vi xâm phạm
trật tự công cộng, an toàn công cộng cũng như các hành vi suy đồi đạo
đức, tác động tiêu cực đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Các tội phạm

13


về tệ nạn xã hội nói chung và mại dâm nói riêng luôn là một vấn đề gây
nhức nhối và tồn tại dai dẳng trong đời sống xã hội, đe dọa sự phát triển
lành mạnh và bền vững của đất nước. Từ xưa đến nay, nạn mại dâm có
những thời kỳ được hoạt động một cách công khai và tràn lan, gây nên
những ảnh hưởng tiêu cực đến nếp sống văn minh của xã hội và hạnh

phúc gia đình. Điều đó là do không có cơ sở pháp luật nào để xử lý những
hành vi phạm tội như vậy. Chính vì vậy, việc quy định các tội phạm về
mại dâm là nguy hiểm cho xã hội và phải được trừng trị nghiêm minh của
pháp luật, dưới sự bảo đảm thực thi của nhà nước là nền tảng pháp lý
vững chắc để đấu tranh và phòng chống nan mại dâm.
Thứ năm, quy định về các tội phạm mại dâm, đặc biệt khi người
bán dâm là người dưới 18 tuổi, thể hiện sự bảo vệ của pháp luật đối với
đối tượng là người dưới 18 tuổi. Người chưa thành niên là đối tượng mà
tâm sinh lý vẫn còn non nớt và chưa nhận thức được đầy đủ hành vi của
mình thực hiện. Ngoài ra, người dưới 18 tuổi là đối tượng dễ bị dụ dỗ, lôi
kéo vào con đường phạm tội nên dù người bán dâm có tự nguyện nhưng
nếu đã là người dưới 18 tuổi thì đối tượng mua dâm cũng đều có hành vi
phạm tội. Vì thế, pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ tốt nhất quyền
và lợi ích, cũng như nhằm tạo môi trường sinh sống lành mạnh cho sự
phát triển của đối tượng đặc biệt này.
1.2. Các dấu hiệu pháp lý của các tội phạm về mại dâm
Khái niệm tội phạm được quy định tại Điều 8 BLHS 2015 theo đó,
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân
thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,

14


quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền,
lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý
hình sự”[21].

Tội phạm theo nghĩa hình sự, đó là hành vi có đủ những yếu tố cấu
thành tội phạm do pháp luật hình sự quy định. Dấu hiệu pháp lý của tội
phạm hay dấu hiệu cấu thành của một loại tội phạm có tính chất đặc trưng
và điển hình cho loại tội phạm ấy, nó phản ánh đầy đủ bản chất và dùng
để phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác. Do đó việc làm rõ khái
niệm và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội phạm về mại
dâm qua bốn yếu tố cấu thành tội phạm- khách thể của tội phạm, mặt
khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội
phạm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng định tội danh và xét xử chính xác.
1.2.1. Tội chứa mại dâm
1.2.1.1. Khách thể của tội chứa mại dâm
Khách thể của tội phạm dược hiểu là các quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại [ 24, tr.86].
Ngay từ khi ra đời, Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề bảo vệ trật tự
công cộng, đồng thời không ngừng đổi mới, hoàn thiện việc tổ chức, quản
lý lĩnh vực này. Tội chứa mại dâm trực tiếp xâm hại đến trật tự công
cộng, xâm phạm đạo đức xã hội, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa, trật
tự trị an xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn xã hội
cũng như lây lan các căn bệnh nguy hiểm cho xã hội.
1.2.1.2. Mặt khách quan của tội chứa mại dâm
Mặt khách quan là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu
hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan [4,

15


tr.99]. Mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi khách quan nguy
hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng như mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các biểu hiện khác bên ngoài của việc

thực hiện tội phạm (công cụ, phương tiện, thủ đoạn, thời gian, địa
điểm…)
Hành vi khách quan: Điều 427 BLHS 2015 chỉ nêu tội danh chứa mại dâm
mà không mô tả về các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội phạm này, do
đó tại khoản 4 Điều 3 Pháp lệnh phòng chống mại dâm quy định: Hành vi
chứa mại dâm “là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn
địa điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm”. Điều này
được hướng dẫn chi tiết hơn tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định 178/2004/NĐCP: “Cho thuê, cho mượn địa điểm, phương tiện để hoạt động mại dâm”
quy đinh tại khoản 4 Điều 3 của Pháp lệnh phòng, chống mại dâm là hành
vi của tổ chức, cá nhân có quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hoặc định
đoạt tài sản mà cho thuê, cho mượn để hoạt động mại dâm” [8].
Theo quy định tại mục 1 phần II Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng
một số quy định của BLHS thì: “Trong trường hợp chủ hoặc người quản
lý khách sạn, nhà trọ... gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán
dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc
quản lý của người gọi gái mại dâm thì người đó chỉ phải chịu TNHS về
“tội chứa mại dâm”. Trong trường hợp chủ hoặc người quản lý khách
sạn, nhà trọ... vừa gọi gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm
ngay tại khách sạn, nhà trọ... thuộc quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản
lý của người gọi gái mại dâm vừa còn gọi gái mại dâm khác cho khách
mua dâm khác để họ thực hiện việc mua bán dâm tại nơi khác thì người
đó phải chịu TNHS về “tội chứa mại dâm” và “tội môi giới mại dâm”[13]

16


Khi xác định hành vi chứa mại dâm, cần lưu ý những điều sau:
Chứa mại dâm là việc mua bán dâm, tức là phải có cả người mua lẫn
người bán và hai người phải thực hiện hành vi giao cấu, bởi vì bán dâm là

hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác, còn mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi
ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu [25]. Nếu chỉ
có hành vi chứa người bán dâm mà hành vi bán dâm được thực hiện ở địa
điểm khác thì không được coi là tội chứa mại dâm.
Trường hợp dùng tiền thuê địa điểm, trả tiền cho ngưới bán dâm
nhưng để người khác giao cấu với người bán dâm thì cũng bị coi là hành
vi chứa mại dâm.
Theo Pháp lệnh phòng chống mại dâm thì trường hợp chứa hai
người đồng giới để họ làm tình với nhau thì không có hành vi giao cấu và
không bị coi là hành vi chứa mại dâm. Quy định này của Pháp lênh là bất
cập hiện nay, khi mà Bộ luật hình sự đã có cách nhìn khác về giao cấu và
hành vi quan hệ tình dục, khi thực tiễn mại dâm đồng tính đang phát triển
mạnh ở nước ta.
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ…gọi gái
mại dâm đến cho khách để họ mua dâm ngay tại khách sạn, nhà trọ thuộc
quyền sở hữu, chiếm hữu hoặc quản lý của người gọi gái mại dâm thì
người đó phải chịu TNHS về tội chứa mại dâm.
Trường hợp chủ hoặc người quản lý khách sạn, nhà trọ… vừa gọi
gái mại dâm đến cho khách để họ mua bán dâm ngay tại khách sạn, nhà
trọ của mình vừa gọi gái mại dâm khác cho khách mua dâm khác để họ
thực hiện hành vi mua bán dâm tại địa điểm khác thì người đó phải chịu
TNHS về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm[25].

17


Hậu quả: Đối với tội chứa mại dâm, hậu quả không phải là dấu hiệu
bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên nếu gây ra hậu quả nghiệm
trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội

phải bị truy cứu TNHS theo các khung hình phạt nặng hơn của điều luật
này.
1.2.1.3. Mặt chủ quan của tội chứa mại dâm
Bao gồm các yếu tố: Lỗi, mục đích, động cơ phạm tội.
Lỗi: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [24, tr.136]. Hành vi chứa mại dâm
được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, tức là người phạm tội đã biết rõ việc
sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa điểm, phương tiện là
nhằm thực hiện hành vi mua bán dâm. Người phạm tội cũng nhận thức rõ
hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự công
cộng được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi.
Nếu người cho thuê, cho mượn địa điểm không hề biết mục đích của
người thuê, mượn địa điểm là để thực hiện hành vi mua bán dâm thì
không bị truy cứu TNHS về tội chứa mại dâm.
Động cơ và mục đích phạm tội: Đây không phải là dấu hiệu định tội
bắt buộc, nhưng khi quyết định hình phạt và xem xét tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi thì những yếu tố này là cần thiết. Động cơ của
người phạm tội chứa mại dâm chủ yếu là do tư lợi, muốn kiếm được nhiều
tiền hoặc giá trị vật chất khác, ngoài ra cũng có thể là các động cơ cá nhân
khác như làm vui lòng bạn bè, lấy lòng sếp, hay cũng chỉ để thỏa mãn thú
vui bệnh hoạn của mình…
1.2.1.4. Chủ thể của tội chứa mại dâm

18


Chủ thể của tội phạm là người không ở trong tình trạng không có
năng lực TNHS khi phạm tội, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi
phạm tội chứa mại dâm. Để xác định một người có đủ điều kiện về chủ

thể của tội phạm hay không thì phải xem xét đến tình trạng năng lực
TNHS và độ tuổi của người đó.
Tình trạng không có Năng lực TNHS: là người không ở trong tình
trạng không có năng lực TNHS mới có thể là chủ thể của tội phạm. Người
bị bênh tâm thần hay bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc điều
khiển hành vi của mình khi phạm tội thì không phải là chủ thể của tội
phạm. Người thực hiện hành vi chứa mại dâm, nhận thức được tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển
được hành vi đó, chính là khả năng kiềm chế được hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện và khả năng lựa chọn xử sự khác không nguy hiểm
cho xã hội.
Độ tuổi cũng là một dấu hiệu quan trọng xác định năng lực chủ thể.
Chủ thể của tội chứa mại dâm không phải là chủ thể đặc biệt mà có thể là
bất kỳ người nào từ đủ 16 tuổi trở lên. Theo quy định tại điều 12 BLHS
2015 Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. Cũng theo
khoản 2 điều 12 BLHS 2015 thì Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa
đủ 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa mại dâm. Đây
cũng là một trong những điều khác biệt của BLHS 2015 so với BLHS
1999, theo BLHS 1999 thì tội chứa mại dâm độ tuổi chịu trách nhiệm hình
sự là đủ 14 tuổi trở lên.
1.2.2. Tội môi giới mại dâm
1.2.2.1. Khách thể của tội môi giới mại dâm

19


×