Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Vai trò của thị trường chứng khoán trong sự ổn định nền kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.37 KB, 20 trang )

MÔN PHÁP LUẬT THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Đề Tài: Vai trò của thị trường chứng khoán
trong sự ổn định nền kinh tế vĩ mô
Giảng viên: ThS.Nguyễn Vinh Hưng
Nhóm phụ trách: 09


DANH SÁCH NHÓM 9

Họ Tên
Phạm Hồng Nhung (nhóm
trưởng)
Phan Thị Thu Hảo
Lương Sỹ Mạnh
Phạm Đức Sơn
Nguyễn Quang Khải
Nguyễn Quang Huy

MSSV
16061250
16061543
16061167
16061261
16061242
15060690


I.THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:


 Mở đầu – Sự hình thành

- Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về tích vốn trong xã hội tăng lên và trở
nên đa dạng, phong phú; người thì cần vốn cho mục đích tiêu dùng hay đầu tư,
người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Đầu tiên, họ tìm gặp nhau trực
tiếp trên cơ sở quen biết. tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng lên
thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp ứng
được; Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu
cầu tài chính của nhau – Đó là thị trường tài chính. Thông qua thị trường tài chính,
nhiều khoản vốn nhàn rỗi được huy động vào tiêu dùng, đầu tư, tạo đòn bẩy cho
phát triển kinh tế.

- Căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, thị trường tài chính bao gồm:
+ Thị trường tiền tệ: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính ngắn hạn
dưới một năm.
+ Thị trường vốn: mua bán, trao đổi các công cụ tài chính trung và dài
hạn.
Tóm lại, ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về
vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn
dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao; Chính vì vậy, Thị trường vốn đã ra đời
để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay
ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn
huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Khi một bộ phận các
chứng khoán có giá trị nhất định được phát hành, thì xuất hiện nhu cầu mua, bán
chứng khoán; và đây chính là sự ra đời của Thị trường chứng khoán với tư cách là
một bộ phận của Thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi
chứng khoán các loại.
1.1 Khái niệm



- Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt
động của nó nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung
thành nguồn vốn lớn tài trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để
phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế hay cho các dự án đầu tư.
- Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại
chứng khoán. Việc mua bán được tiến hành ở hai thị trường sơ cấp và thứ cấp. do
vậy thị trường chứng khoán là nơi chứng khoán được phát hành và trao đổi.
+ Thị trường sơ cấp: người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những
người phát hành;
+ Thị trường thứ cấp: nơi diễn ra sự mua đi bán lại các chứng khoán đã
được phát hành ở Thị trường sơ cấp.
- Hàng hóa giao dịch trên Thị trường chứng khoán bao gồm: các cổ phiếu, trái
phiếu và một số công cụ tài chính khác có thời hạn trên 1 năm.
1.2 Bản chất
- Thị trường chứng khoán là nơi mà cung và cầu của các loại chứng khoán gặp
nhau để xác định giá cả. Số lượng của từng loại chứng khoán được giao dịch trên
thị trường.
- Thị trường chứng khoán không phải là cơ quan mua vào hoặc bán ra các loại
chứng khoán. Thị trường chứng khoán chỉ là nơi giao dịch, ở đó việc mua bán
chứng khoán được thực hiện bởi những người môi giới chứng khoán. Như vậy thị
trường chứng khoán không phải là nơi giao dịch (mua - bán) chứng khoán của
những người muốn mua hay bán chứng khoán mà là của những nhà môi giới. Nếu
một người muốn mua hay bán chứng khoán, người này sẽ thông qua người môi
giới chứng khoán của anh ta trên thị trường chứng khoán để tiến hành việc mua
bán chứ không trực tiếp tham gia mua bán. Giá cả chứng khoán được hình thành
một cách khách quan theo hệ thống bán đấu giá hai chiều. Người môi giới mua
khác được với giá thấp nhất, người môi giới bán cạnh tranh với những người môi
giới bán khác để bán được giá cao nhất. Vì thế mà thị trường chứng khoán là thị
trường có tính tự do cao nhất trong các loại thị trường.
1.3 Chức năng và vai trò



a. Chức năng
* Thu hút vốn nhàn rỗi vào đầu tư phát triển
- Ta biết muốn đầu tư phát triển thì phải tự tích luỹ hoặc huy động từ bên ngoài.
- Vốn huy động từ bên ngoài bao gồm vốn vay tín dụng của các tổ chức tài chính
và phát hành cổ phiêú, trái phiếu.
- Ưu điểm của phát hành trái phiêú, cổ phiếu đối với dân chúng là họ dễ dàng đầu
tư vào bất cứ DN nào họ muốn hoặc mua bán kiếm lợi. Còn đối với các DN là họ
không phải trả lãi suất hàng tháng và không phải trả nợ gốc khi bị thua kỗ.
- Do tính chất của chu kỳ kinh doanh nên vốn tạm thời nhàn rỗi trong các DN là rất
lớn, bên cạnh, còn có một lượng vốn lớn nằm rải rác trong dân chưa được huy
động. Tất cả những tiềm năng này sẽ được phát huy hiệu quả nếu có thị trường
chứng khoán .Vì thị trường chứng khoán với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ má
quản lý hữu hiệu, với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi , người dân sẽ dễ dàng sử
dụng nguồn tiết kiệm của họ hơn. Đây là tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm và tạo
thói quen đầu tư trong công chúng.
- Ngoài ra, trong xã hội cồn có các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi như: quỹ bảo
hiểm, quỹ phúc lợi tập thể…một phần vốn của quỹ này được gửi vào Nhân hàng để
thực hiện vệc thanh toán, phần còn lại, những người quản lý quỹ luôn tự hỏi làm
thế nào cho vốn của họ có khả năng sinh lãi nhiều nhất và vừa an toàn vừa có tính
tạm thời…và thị trường chứng khoán có khả năng đáp ứng yêu cầu này.
- Tóm lại,thị trường chứng khoán có chức năng thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng quy mô doanh
nghiệp góp phần giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
* Điều tiết các nguồn vốn
- Phải thừa nhận rằng, một DN không phải lúc nào cũng thiếu hoặc thừa vốn. Thừa
hay thiếu là phụ thuộc vào tính chất của chu kỳ kinh doanh.Khi cần đầu tư mua
nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, các khoản phải thu lớn, thì đây là lúc mà DN
đang thiếu vốn. Khi quá trình sản xuất kết thúc, sản phẩm được bán ra và thu vốn

về, các khoản phải thu được thu về, lúc này DN lại tạm thời thừa vốn.
- Trên thị trường vốn, luôn luôn có sự điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu. Ở
đây thị trường chứng khoán đóng vai trò rất quan trọng.


* Hoà nhập nền kinh tế thế giới
- Một DN có thể thu hút vốn bất vứ nơi nào và bằng con đường nào mà họ có thể
thu hút một cách dễ dàng thông qua thị trường chứng khoán. Nhờ vào hệ thống
máy tính mà thị trường chứng khoán cho phép bất cứ ai, ở nơi nào trên thế giới và
mua một loại cổ phiếu của bất kỳ một công ty nào mà họ thích. Từ đó hình thành
mối liên hệ tiền tệ quốc tế, đẩy nhanh tốc độ chu chuyển nguồn vốn giữa các nước,
thực hiện quan hệ vay mượn lâu dài trên thế giới tạo điều kiện cho việc hoà nhập
nền kinh tế thế giới.
* Điểu tiết vĩ mô
- Thị trường chứng khoán là công cụ của Nhà nước thông qua Uỷ ban chứng khoán
nhà nước, và Ngân hàng trung ương.
- Nghiệp vụ chủ yếu là thắt chặt hay nới lỏng sự đầu tư trên thị trường. Khi sản
xuất sa sút, thiếu vốn, Nhà nước tung tiền ra mở rộng cho vay để khuyến khích sản
xuất thông qua việc mua vào những lô chứng khoán có giá trị lớn. Khi hiện tượng
đầu tư quá mức, đầu cơ thịnh hành, thì bán chứng khoán nhằm thắt chặt tín dụng
giảm bớt đầu tư kinh tế.Vậy thị trường chứng khoán là công cụ hữu hiệu để nhà
nước kịp thời điều tiết nguồn vốn trên thị trường.
b. Vai trò
* Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân
- Do có thị trường chứng khoán nên việc đầu tư các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
dễ dàng hơn. Từ việc nguồn vốn bị ứng đọng từ nhiều nơi, không có khả năng sinh
lời, cho đến khi có thị trường chứng khoán việc đầu tư, tích luỹ vốn sôi động và
dồi dào hẳn lên. Thông qua đó nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ, công ăn việc làm
được giải quyết, thất nghiệp giảm. Bên cạnh, thị trường chứng khoán như một
trung tâm thu gom mọi nguồn vốn từ dân chúng, như một nam châm cực mạnh hút

các nguồn vốn từ nước ngoài. Ngoài ra còn giúp Nhà nước giải quyết vấn đề thiếu
hụt ngân sách, có thêm vốn xây dựng hạ tầng cơ sở.
* Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và có hiệu quả hơn
- Khi DN cần vốn để mở rộng qui mô sản xuất họ có thể phát hành chứng khoán,
vào thị trường để huy động vốn. Đây là phương thức tài trợ vốn qua phát hành và


lúc đó nguồn vốn của DN tăng lên. Lúc này rủi ro đối với doanh nghiệp là rất nhỏ
vì những cổ đông của họ đã gánh đỡ thay. Một điều thuận lợi nữa, khi DN chưa có
cơ hội sản xuất kinh doanh, các DN có thể dự trữ chứng khoán như là một tài sản
kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển nhượng thành tiền khi cần thiết
thông qua thị trường chứng khoán. Ngoài ra, khi DN niêm yết trên thị trường
chứng khoán, có nghĩa là đã có chữ tín đối với công chúng đầu tư. Như vậy các
công ty chứng khoán sẽ là tác nhân kích thích giúp DN tạo vốn nhanh chóng hơn.
* Thị trường chứng khoán là công cụ đánh gía DN, dự đoán tương lai
- Thị trường chứng khoán ngày càng đa dạng và phức tạp, liên quan đến vận mệnh
của nền kinh tế quốc dân. Sự hình thành thị giá chứng khoán của một DN trên thị
trường chứng khoán đã bao hàm sự hoạt độngcủa DN đó trong hiện tại và dự doán
tương lai. Khi giá cổ phiếu của một DN cao (hay thấp) biểu hiện trạng thái kinh tế
tức là khả năng mang lại cổ tức cao (hay thấp) cho các cổ đông của DN đó. Triển
vọng tương lai của các DN cũng được thể hiện một cách trực tiếp trên thị giá cổ
phiếu và cũng như sự biến động của nó.
- Ngoài ra, với phương pháp chỉ số hoá thị giá của các loại chứng khoán chủ yếu
trong nền kinh tế và việc nghiên cưú phân tích một cách khoa học hệ thống chỉ số
giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với
thị trường thế giới, đã dự đoán được trước sự biến động kinh tế của một hoặc hàng
loạt các nước trên thế giới.
1.4 Phân loại
a. Phân loại theo tổ chức giao dịch
- Thị trường chứng khoán tập trung - các hoạt động mua bán chứng khoán được

thực hiện theo các quy định đặt bởi sàn. Trên thị trường này chỉ có cổ phiếu các
công ty đã qua niêm yết;
- Thị trường chứng khoán OTC - các điều kiện hợp đồng được thỏa thuận giữa bên
bán và bên mua. Trên thị trường này có cổ phiếu của các công ty không qua hoặc
không muốn niêm yết trên sàn.
b. Phân loại theo các giai đoạn phát hành và lưu thông chứng khoán


- Thị trường sơ cấp – diễn ra sự phát hành cổ phiếu lần đầu. Phát hành cổ phiếu có
thể công khai (IPO -initial public offering) hay không công khai. Trong trường hợp
không công khai các cổ phiếu được mua bởi số lượng người nhất định, không công
bố thông tin tài chính. Trong trường hợp công khai, việc phát hành cổ phiếu thông
qua trung gian với các chỉ số tài chính được công bố;
- Thị trường thứ cấp – diễn ra sự bán lại các cổ phiếu đã được phát hành. Thành
viên chủ yếu của thị trường này là các nhà đầu cơ, kiếm tiền dựa trên chênh lệch
giá mua và bán cổ phiếu.
c. Phân loại theo đặc điểm địa lý
- Thị trường chứng khoán quốc gia – hoạt động trong phạm vi 1 quốc gia nhất
định, tái phân phối các nguồn lực tài chính giữa các chủ thể kinh tế;
- Thị trường chứng khoán khu vực – thị trường của một vùng nhất định với luân
chuyển vốn khép kín. Thị trường loại này có thể hình thành trong phạm vi 1 quốc
gia, cũng như bao gồm vài thị trường chứng khoán quốc gia;
- Thị trường chứng khoán quốc tế - luân chuyển chứng khoán xảy ra giữa các nước
và khu vực, cho phép chuyển vốn giữa chúng.
II. Nền kinh tế vĩ mô:
Các yếu tố của nền kinh tễ vĩ mô tác động chính đến thị trường chứng
khoán
1.1 Tổng sản phẩm trong nước GDP:
a) Ý nghĩa: GDP là thước đo tổng sản lượng và tổng thu nhập của một nền kinh
tế. Đây là một trong những biến số kinh tế quan trọng nhất của nền kinh tế

quốc dân, là chỉ báo tốt nhất về phúc lợi kinh tế xã hội
b) Khái niệm, công thức, phương pháp đo lường:
Tổng sản phẩm trong nước là giá trị thị trường của tất cả các hàng hóa và
dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trong một nước trong một thời kỳ nhất
định.
- Phương pháp chỉ tiêu: GDP = C+I+G+X-M
C: là tiêu dùng hộ gia đình
I: là đầu tư tư nhân
G: là chi tiêu chính phủ
X: là xuất khẩu
M: là nhập khẩu
- Phương pháp thu nhập:
1.


-

GDP = W+R+I+Pr+OI+Te+Dep
W: là thù lao lao động
R: là tiền cho thuê tài sản
I: là tiền lãi ròng
Pr: là lợi nhuận doanh nghiệp
OI: là thu nhập của doanh nhân
Te: là thuế gián thu ròng
Dep: là khấu hao tài sản cố định
Phương pháp sản xuất:
GDP = Tỏng giá trị tăng thêm theo sản xuất + Thuế giá trị gia tăng phải nộp
+ Thuế nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
1.2 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
a)


b)

Ý nghĩa: CPI là một chỉ tiêu tương đối phản ánh xu thế và mức độ biến
động của giá bán lẻ hàng hóa tiêu dùng và dịch vụ trong sinh hoạt của
dân cư và các hộ gia đình. Bởi vậy nó được dùng để theo dõi sự thay đổi
của chi phí sinh hoạt theo thừi gian. Khi CPI tăng nghĩa là mứa gái trung
bình tăng và ngược lại.
Khái niệm, công thức, phương pháp đo lường:

Chỉ số giá tiêu dùng đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hóa và dịch vụ mà
một người tiêu dùng điển hình mua.
CPTt = Chi phí để mua giỏ hàng hóa thời kỳ t / Chi phí để mua giỏ hàng hóa kỳ cơ
sở *100%
1.3 Lạm phát:
Trong kinh tế vĩ mô, lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng
hóa và dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức
giá chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so
với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị tiền
tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự giảm giá trị tiền tệ của một
quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia khác.
1.4

Cung ứng tiền tệ:

Cung ứng tiền tệ, gọi tắt là cung tiền, chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh
tế nhằm đáp ứng nhu cầu mua hàng hóa, dịch vụ, tài sản, v.v... của các cá nhân (hộ
gia đình) và doanh nghiệp (không kể các tổ chức tín dụng)
2


Ổn định nền kinh tế vĩ mô:


Dường như cho đến nay vẫn chưa thấy một sự cắt nghĩa, giải thích chính thức và
xác đáng về thế nào là "ổn định kinh tế vĩ mô”, mặc dù cụm từ này đã và đang
được nêu ra bởi rất nhiều người và phổ biến.
Điểm lại nhiều bài nói và viết của các chuyên gia, các tổ chức liên đới trong và
ngoài nước ở Việt Nam trong mấy năm qua, có thể thấy cụm từ "ổn định kinh tế vĩ
mô” đa phần nào được dùng như một nhiệm vụ riêng biệt, song song với những
nhiệm vụ, mục tiêu khác như "kiềm chế lạm phát", "ổn định tỷ giá”, "thúc đẩy, hỗ
trợ, ổn định tốc độ tăng trưởng"...
Thực tế trên thế giới, cụm từ "ổn định kinh tế vĩ mô” được dùng với nghĩa bao hàm
cả những mục tiêu khác như giữ ổn định các chỉ tiêu về tốc độ tăng trưởng (tiệm
cận với mức tăng trưởng tiềm năng), mức giá cả và tỷ lệ thất nghiệp... Cách dùng
này dựa trên khái niệm về "kinh tế vĩ mô” - là một hệ thống kinh tế của cả một
quốc gia, với các chỉ tiêu đo lường "sức khỏe" của nó như tốc độ tăng trưởng thu
nhập, thất nghiệp, lạm phát...
Bởi vậy, ổn định kinh tế vĩ mô có nghĩa là giảm thiểu biến động (trong ngắn hạn)
của những chỉ tiêu này. Mục đích của ổn định kinh tế vĩ mô là để tạo điều kiện thúc
đẩy đầu tư làm cải thiện tăng trưởng trong dài hạn.
Ngoài lý do là chuẩn mực và phổ biến, cách dùng với nghĩa này còn tránh được sự
mơ hồ về mục đích như trong cách dùng đang phổ biến ở Việt Nam như nói ở trên.
Theo cách dùng như ở Việt Nam hiện nay thì dường như "ổn định kinh tế vĩ mô” là
cái gì đó khác và độc lập với ổn định giá cả, kiềm chế lạm phát, càng khác và độc
lập với thúc đẩy, hỗ trợ, ổn định tăng trưởng kinh tế. Vì rõ ràng hiện nay, việc thúc
đẩy, duy trì tốc độ tăng trưởng (hiện đang được cho là ở mức thấp so với tăng
trưởng tiềm năng) đã được gạt xuống hàng thứ yếu, sau mục tiêu "ổn định kinh tế
vĩ mô”.



Theo cách chuẩn mực thì ổn định kinh tế vĩ mô là việc đạt được sự ổn định trên
nhiều chỉ tiêu, trong số đó có những chỉ tiêu mà việc thực hiện được chúng có tính
đối nghịch với việc thực hiện những chỉ tiêu khác, ít nhất trong ngắn hạn, ví dụ
như ổn định lạm phát và duy trì, ổn định tốc độ tăng trưởng.
Cụ thể hơn, với mục tiêu ổn định tốc độ tăng trưởng (hiện đang có xu hướng tụt
thấp so với tăng trưởng tiềm năng) trong "gói" ổn định kinh tế vĩ mô, thì cần thiết
phải khôi phục và ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế sao cho tiệm cận với tốc độ
tăng trưởng tiềm năng.
Điều này đòi hỏi phải có sự nới lỏng chính sách tiền tệ hơn. Nhưng, mặt khác, vì
lạm phát đang ở mức khá cao nên cần thiết phải duy trì chính sách tiền tệ một cách
chặt chẽ hơn. Như vậy, trong ngắn hạn, ổn định kinh tế vĩ mô nói chung có khả
năng không thể lồng ghép với sự phục hồi và duy trì tăng trưởng kinh tế.
Trên thực tế, Chính phủ cũng đã tách mục tiêu tăng trưởng kinh tế ra khỏi "gói" ổn
định kinh tế vĩ mô. Loại bỏ mục tiêu tăng trưởng ra thì trong gói ổn định kinh tế vĩ
mô, ngoài mục tiêu giữ cho giá cả ổn định (lạm phát thấp), sẽ còn những mục tiêu
chính khác là hạ lãi suất, ổn định tỷ giá, việc làm, thâm hụt ngân sách, cán cân
thương mại...
Nhưng xét cho cùng, yếu tố chính chi phối việc đạt được những mục tiêu này vẫn
là lạm phát thấp. Khi giá cả ổn định (lạm phát thấp) thì biến động việc làm sẽ có xu
hướng giảm thiểu (vì chi phí sản xuất bao gồm chi phí tiền lương sẽ không bị tác
động nhiều bởi lạm phát nên chủ doanh nghiệp có xu hướng duy trì ổn định số việc
làm hơn).
Khi lạm phát thấp thì áp lực phá giá nội tệ đến từ việc lên giá thực của nội tệ so với
ngoại tệ sẽ không lớn nên tỷ giá sẽ được ổn định hơn. Đồng thời, tỷ giá ổn định do
nội tệ ít bị lên giá thực sẽ tạo điều kiện duy trì cán cân thương mại cân bằng hơn.


Lạm phát thấp cũng có nghĩa là chính sách tiền tệ thường là thắt chặt hơn nên thâm
hụt ngân sách cũng ít bị áp lực gia tăng hơn.
Nói cách khác, ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay của

Việt Nam chính là "kiềm chế lạm phát (ở mức thấp) và duy trì tốc độ tăng trưởng
kinh tế ở mức hợp lý (theo diễn biến của lạm phát). Như vậy đã đủ chỉ ra được cái
gì là ưu tiên (tức là lạm phát), cần tập trung thực hiện, và cái gì là thứ yếu.
III. Lịch sử nghiên cứu mối quan giữa các biến kinh tế vĩ mô và TTCK:
Một thị trường vốn hệu quả là thị trường mà giá các chứng khoán điều chỉnh tức
thời khi xuất hiện các nguồn thông tin mới; do đó giá cả hiện tại của cổ phiếu đã
thể hiện tất cả các thông tin về cổ phiếu đó.
Được Fama(1970) đưa ra các nền tảng vững chắc, lý thuyết thị trường hiệu quả
EMH đã đăth ra cơ sở lý thuyết cực kì quan trọng cho các nhà làm chính sách cũng
như cho các nhà đầu tư chứng khoán. Theo đó các nhà chính sách có thể tự do thi
hành các chính sách vĩ mô quốc gia mà không cần phải lo lắng sợ rằng các chính
sách này sẽ làm thay đổi bản chất của TTCK vì chúng chỉ ảnh hưởng đến giá cả
của chứng khoán mà thôi.
Dưới ảnh hưởng của các biễn vĩ mô chẳng hạn như: cung tiền, lãi suất,.. lên TTCK
lý thuyết EMH nói rằng sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư, những người luôn muốn
tối đa hóa lợi nhuận của mình – bảo đảm tất cả các thông tin hiện tại được cho là
có liên quan đến sự thay đổi của các biễn vĩ mô đó sẽ phản ánh hết vào trong giá
chứng khoán, nên nhà đầu tư không thể kiếm được các tỉ suất sinh lợi bất thường
thông qua dự đoán xu hướng TTCK trong tương lai ( Chong và Koh 2003). Do đó
các nhà tư vấn đầu tư sẽ không thể đưa ra các nhận định giúp khách hàng của mình
kiếm được thu nhập trên mức trung bình; => và như vậy sẽ không thể có ngành
công nghiệp mô giới chứng khoán nếu họ tin vào kết quả của lý thuyết EMH.


Trái ngược hoàn toàn với kết luận được đưa ra bởi lý thuyết EMH, nhiều bằng
chứng cho thấy các biến vĩ mô quang trọng có thể giúp dự báo được chuỗi tỷ suất
sinh lợi tích lũ. Phản bác lại lý thuyết của EMH ta có thể kể đến các nghiên cứu
của Fama & Schwert (1977), Nelson (1977) và Jaffe & Mandelker (1976), tất cả
đều khẳng định các biến số vĩ mô rõ ràng ảnh hưởng đến thu nhập và giá cổ phiếu.
Xuất hiện tiếp sau đó là một nghiên cữu về TTCK Mỹ của Ross (1976) công trình

này đã đưa ảnh hưởng của các lực vĩ mô vào một lý thuyết tổng thể dựa trên lý
thuyết kinh doanh chênh lệch APT. Sau đó Chen, Roll và Ross (1986) đã đưa ra cái
nhìn đầu tiên về tác động của các lực kinh tế lên tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu, =>
công trình đã củng cố niềm tin rằng có tồn tại mối quan hệ giữa giá chứng khoán
và các biến vĩ mô.
Granger (1986) và Johansen & Juselius (1990) đã đề xuất xác định sự tồn tại của
mối quan hệ này thông qua phân tích đồng liên kết. Các ông đã mở đường cho một
phương pháp rất được ưa thích cho đến ngày nay để kiểm định mối quan hệ giữa
TTCK và các biến kinh tế. Về sau phương pháp này đã cho ra đời nhiều bài nghiên
cứu chứng minh sự ảnh hưởng mạnh mẽ của các biễn vĩ mô lên TTCK, hầu hết các
nghiên cứu là ở thị trường các nước phát triển về sau các nhà học thuật mới di
chuyển sang các quốc gia đang phát triển mạnh mẽ, những cỗ máy tăng trưởng của
châu Á như: Singapore, Thailand,…
IV. Vai trò của chứng khoán tác động đến ổn định nền kinh tế vĩ mô
Kinh tế vĩ mô ảnh hưởng tới toàn bộ các lĩnh vực và ngành nghề tồn tại trong nền
kinh tế. Không chỉ riêng thị trường chứng khoán phái sinh, thị trường chứng khoán
cơ sở hay các thị trường đầu tư khác cũng đều bị tác động bởi những yếu tố này dù
ít- nhiều.
3.1 Tổng sản phẩm quốc nội -GDP.
Một trong những chỉ số quan trọng nhất của nền kinh tế vĩ mô là GDP – tổng sản
phẩm quốc nội. Có 3 cách tính GDP: phương pháp chi tiêu, phương pháp thu


nhập, và phương pháp giá trị gia tăng. Trong đó phổ biến nhất là phương pháp chi
tiêu.
Nền kinh tế của có 3 khu vực: hộ gia đình, khối doanh nghiệp và nhà nước. Cả ba
khu vực này đều cần chi tiêu. Ví dụ như : Hộ gia đình mua gà. Doanh nghiệp mua
máy ấp trứng gà. Và nhà nước mua điện để cung cấp cho nền kinh tế nuôi gà. Nền
kinh tế có ba luồng chi tiêu là chi tiêu hộ gia đình (Consumption, C), chi tiêu
doanh nghiệp (Investment, I) và chi tiêu chính phủ (Government spending, G).

Ngoài ra còn có những chi tiêu của người nước ngoài đối với những sản phẩm
trong nước, ví dụ: xuất khẩu gà (Export-X). Và nếu mua của người nước ngoài, ví
dụ: trứng gà nhập từ Trung Quốc (Import-M), thì sẽ phải loại trừ ra khỏi GDP do
trứng gà đó được sản xuất trong phạm vi quốc gia Trung Quốc. Do vậy, GDP = C
+ I + G + X – M. Đây là cách hiểu về GDP đơn giản nhất về mặt kinh tế.
Những tác động của thị trường chứng khoán đến GDP:
+ Thị trường chứng khoán tăng về lượng và chất tức GDP đang tăng trưởng tác
động tích cực
+ Nền kinh tế tăng trưởng tốt , thu hút nhiều vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
FDI và vốn gián tiếp FII. Khi có nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia, thị trường
sẽ trở nên minh bạch và chuyên nghiệp hơn.
+Sự ổn định của thị trường chứng khoán thể hiện sự tăng trưởng của kinh tế chung.
Cổ phiếu lên giá và sàn tràn ngập sắc xanh tích cực.
+ Tăng trưởng kinh tế tạo ra nhu cầu cho các loại dịch vụ tài chính khác nhau. Từ
đó, các công ty cần vốn để phát triển sẽ có nhiều cơ hội vay vốn và tìm kiếm cơ hội
thu hút đầu tư. Đứng trước cơ hội lên sàn..
3.2 Chỉ số giá tiêu dùng- CPI.
Đây là chỉ số tính theo phần trăm để phản ánh mức thay đổi tương đối của giá hàng
tiêu dùng theo thời gian. Sở dĩ chỉ là thay đổi tương đối vì chỉ số này chỉ dựa vào
một giỏ hàng hóa đại diện cho toàn bộ hàng tiêu dùng.
Thông thường, với mức chỉ số tiêu dùng ôn hòa,ổn định ở mức 5% là điều kiện lí
tưởng để thị trường chứng khoán hoạt động ổn định trong giả định các yếu tố khác
liên quan đến thị trường không đổi.
Những ảnh hưởng của CPI tới TTCK:
+CPI tăng gắn với việc phải tăng chi phí đầu vào. Điều này làm giảm lợi nhuận của
các doanh nghiệp, BTTC không được khả quan.Từ đó, giảm sức hút với các nhà
đầu tư trên thị trường chứng khoán.
+CPI tăng sẽ làm tăng áp lực buộc nhà nước phải thực hiện chính sách tín dụng



thắt chặt khiến các nhà đầu tư chứng khoán cấp nguồn tín dụng khó khăn hơn, vì
vậy làm giảm đầu tư vào thị trường chứng khoán.
+CPI tăng làm kéo theo tăng lãi suất ngân hàng, khiến lãi suất trở nên hấp dẫn hơn
cơ hội đầu tư chứng khoán khiến thu hẹp dòng đầu tư trên thị trường.
+CPI tăng có thể gây ra 02 tác dụng trái chiều khác là tăng bán ra các chứng khoán
”xấu” để rút khỏi thị trường,tăng mua vào chứng khoán” tốt” để ẩn nấp lạm phát.
3.3 Lạm phát.
lạm phát là sự tăng mức giá chung của hàng hóa và dịch vụ theo thời gian và sự
mất giá trị của một loại tiền tệ. Khi so sánh với các nước khác thì lạm phát là sự
giảm giá trị tiền tệ của một quốc gia này so với các loại tiền tệ của quốc gia
khác.Theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu lạm phát của một loại tiền tệ tác động
đến phạm vi nền kinh tế một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu lạm
phát của một loại tiền tệ tác động đến phạm vi nền kinh tế sử dụng loại tiền tệ đó.
Ngược lại với lạm phát là giảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số
dương nhỏ thì được người ta gọi là sự “ổn định giá cả”
Những tác động của lạm phát tới TTCK:
+ Lạm phát ảnh hưởng gián tiếp tới thị trường chứng khoán thông qua thị trường
hàng hóa.Lạm phát tăng có nghĩa rằng chi phí của doanh nghiệp sẽ bị đẩy lên cao,
giá hàng hóa theo đó mà tăng lên. Nhưng cầu hàng hóa sẽ giảm xuống vì giá tăng
lên, dẫn đến doanh thu của hàng hóa cũng theo đó mà giảm. Doanh nghiệp không
còn hấp dẫn đối với nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
+ Lạm phát cao là dấu hiệu cho nền kinh tế bất ổn. Điều này làm cho người dân,
nhà đầu tư mất niềm tin vào nền kinh tế. ”Tâm lý bầy đàn ” xuất hiện, kéo theo
việc rút vốn ồ ạt trên thị trường chứng khoán.
3.4 Cung ứng tiền tệ.
Gọi tắt là cung tiền, chỉ lượng cung cấp tiền tệ trong nền kinh tế nhằm đáp ứng nhu
cầu sử dụng tiền trong nền kinh tế.
Nếu lượng cung tiền mở rộng sẽ dẫn đến một sự gia tăng trong tiêu dùng hàng hóa
cũng như làm gia tăng việc sử dụng các tài sản tài chính mà chứng khoán là một
trong số đó. Khi lượng cung tiền tăng, thanh khoản vượt trội sẽ ảnh hưởng đến

TTCK khá mạnh do tác động của chính sách tiền tệ tương đối nhanh và trực tiếp.
Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi suất của nền kinh tế, làm giảm lãi suất
chiết khấu của chứng khoán qua đó làm tăng giá kỳ vọng và tăng thu nhập.


Ngoài ra,một sự gia tăng trong cung tiền sẽ làm gia tăng thanh khoản và tín dụng
cho nhà đầu tư cổ phiếu dẫn đến giá các chứng khoán cao hơn, nghĩa là cung tiền
tăng lên sẽ dẫn đến sự tăng trưởng và phát triển ổn định hơn cho TTCK
V. Các vấn đề của TTCK Việt Nam:
Qua các kết quả thực nghiệm ở TTCK Việt Nam, ta thấy rằng rủi ro, lợi nhuận của
thị trường vốn phụ thuộc khá lớn vào tốc độ tăng trưởng cung tiền. Do đó, các
động thái thắt chặt tín dụng ( thông qua chính sách tiền tệ thắt chặt ) thường đem
lại các tác động tiêu cực đến TTCK. Thực tế đã chứng minh, trong các năm 2006
2007-2008 với chính sách tiền tệ mở rộng, cộng với việc gia nhập thành công
WTO đã làm cho dòng vốn nóng chảy vào thị trường khá nhiều, thanh khoản tăng
mạnh cùng với chi phí tín dụng rẻ đã tạo ra một bong bóng trên TTCK Việt Nam.
Trong năm 2009, sau khi chịu ảnh hưởng khá mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu, một gói kích cầu kinh tế được đưa ra đã tạo điều kiện cho chứng khoán
tăng mạnh trở lại. Mặc dù bên cạnh kênh đầu tư chứng khoán còn có các kênh đầu
tư khác như vàng, bất động sản, ngoại tệ, vv... tuy nhiên hoạt động đầu tư trên các
kênh này thường đòi hỏi phải có vốn cực lớn ( bất động sản ) hay đòi hỏi phải có
kiến thức tốt về kỹ thuật và phân tích ( vàng, ngoại tệ ) nên đầu tư chứng khoán
luôn được xem là một kênh đầu tư rất được ưa chuộng, lượng tiền từ hoạt động mở
rộng tín dụng thường có xu hướng đổ vào thị trường vốn khá nhiều nhất là khi các
kênh như vàng, ngoại tệ bị chính phủ quản lý khá chặt còn bất động sản thì bắt đầu
xuất hiện hiện tượng cung vượt cầu.
Kinh tế vĩ mô có những tín hiệu ổn định trong 6 tháng cuối năm, các mục tiêu kinh
tế năm 2018 như tăng trưởng GDP 6,7%, lạm phát dưới 4% là khả thi và vẫn đang
nằm trong sự kiểm soát, điều hành của Chính phủ, bên cạnh những tín hiệu khả
quan về kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết.

Tuy nhiên, thị trường đang phải đối mặt với nhiều thách thức như xu hướng tiêu
cực của các TTCK trên thế giới, đặc biệt các TTCK mới nổi, bắt nguồn từ lo ngại
chiến tranh thương mại giữa Mỹ và nhiều nước; khối nhà đầu tư nước ngoài liên
tục có động thái bán ròng; dòng tiền vào TTCK có dấu hiệu suy yếu vì nhiều lý
do…

Tình hình điều hành cung tiền của chính phủ nhằm chống tình trạng lạm phát cao
vẫn chưa có hiệu quả nhất định nên cũng tác động khá lớn lên tâm lý của thị
trường. Thực trạng này là do hiện tại lãi suất của Việt Nam đã ở mức khá cao nên


làm cho hiệu ứng nghịch giữa lãi suất và lạm phát không phát huy được tác dụng.
Hơn nữa với những đặc điểm riêng của mình, việc thắt chặt cung tiền ở Việt Nam (
làm cho lãi suất vay nâng cao ) sẽ dễ dẫn nguy cơ lạm phát chi phí đẩy làm cho
lạm phát thêm trầm trọng do đầu ra của các doanh nghiệp bắt buộc phải cao hơn,
trong khi đó ở một số thị trường như Singapore, Úc chính sách thắt chặt cung tiền
phát đi tín hiệu lạc quan cho thị trường do các nhà đầu tư hoàn toàn tin tưởng vào
sự thành công của chính sách,
Kết quả thực nghiệm ở thị trường Việt Nam chúng mình rằng thị trường vốn của
Việt Nam có tương quan khá chặt chẽ với thị trường Mỹ. Nguyên do cho thực tiễn
này có thể nhận thấy khá rõ do hoạt động thương mại giữa hai quốc gia là khá lớn,
trong nhiều năm liền Mỹ luôn là đối tác mà Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất ( chiếm
trung bình 20% tổng xuất khẩu của Việt Nam ); trên hai sàn HOSE và HNX, các
doanh nghiệp niêm yết có đối tác chiến lược Mỹ chiếm số lượng khá lớn, nguồn
vốn đầu tư ngoại vào thị trường vốn Việt Nam thường tất toán lời lại thông qua
đồng tiền là US$, và cuối cùng Mỹ là quốc gia phát triển nhất thế giới, tình trạng
sức khỏe kinh tế của Mỹ có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu mà trong đó có
các bạn hàng khác của Việt Nam.
Mặc dù trong khoảng thời gian trước đây, nhiều ý kiến cho rằng TTCK Việt Nam
không còn liên hệ với TTCK thế giới thể hiện qua những phiên đi ngược lại với

diễn biến chung của chứng khoán thế giới. Giải thích cho các nguyên nhân này đưa
ra vài lý do:
+ Thứ nhất, mặc dù kinh tế Việt Nam đã hội nhập sâu vào thị trường thế giới sau
khi gia nhập WTO nhưng tuổi đời vẫn còn khá non trẻ của TTCK Việt Nam cũng
như thời gian hội nhập chưa cao, một phần nào các tác
động chưa được phản ánh hết vào giá.
+ Thứ hai, thị trường Việt Nam có những đặc điểm riêng có của nó, không thể nào
có tượng quan 100% với các thị trường có những đặc thù khác, đặc biệt là trong
thời gian khủng hoảng, lúc mà các thay đổi chuyển biến là khó đoán và không còn
đúng theo thông thường. Trong khoảng thời gian khủng hoảng, TTCK Việt Nam
hầu như chỉ quan tâm đến các yếu tố nội tại nhà chính sách kích cầu của chính phủ,
diễn biến lạm phát, v.v....
+ Thứ ba, tình trạng bất cân xứng thông tin và tâm lý bầy đàn trên thị trường là khá
lớn ( các nghiên cứu trên thị trường Việt Nam đã chứng thực vấn đề này ), các
NĐT chưa có sự chuyên nghiệp nhất định, dễ bị tác động bởi các thông tin bên
ngoài dẫn đến các hành vi không hợp lý là điều khó tránh khỏi.


VI. Các kiến nghị:
Vấn đề được phát hiện khá nhiều trong nghiên cứu này là việc các biến vĩ mô hầu
như không có ý nghĩa đối với các biến động trong VN-Index. Nguyên nhân chính
là do chính phủ đã can thiệp hành chính khá nhiều vào thị trường làm cho các biến
trở nên kém ý nghĩa do không còn là đại diện phản ánh thực chất nền kinh tế, do đó
để TTCK hoạt động hiệu quả hơn, các chính sách vĩ mô nên tuân thủ các nguyên
tắc thị trường nguyên tắc cung cầu.
Trong các chính sách, chính sách tiền tệ có tác động khá bền vững đến VN-Index
do đó đây là công cụ điều tiết thị trường hiệu quả thông qua ảnh hưởng của nguồn
cung tiền. Tuy nhiên chính sách cung tiền nên hướng vào các hoạt động sản xuất
kinh doanh thực của doanh nghiệp để làm nền tảng phát triển cho thị trường. Trước
đây, khi cung tiền mở rộng, luồng tiền đổ vào TTCK là khá lớn nhưng lượng hàng

hóa cơ sở của thị trường là không nhiều, sự khan hiếm hàng hóa đã góp phần tạo
nên các bong bóng tăng giá ảo trên hai sản.
Kể từ sau năm 2008 đến nay 2018, lạm phát đang dần trở thành mối lo ngại hàng
đầu của các nhà đầu tư, việc kiềm chế lạm phát luôn là tâm điểm của chính sách vĩ
mô trong các năm gần đây, tuy nhiên với đặc điểm riêng biệt ở Việt Nam đây là
vấn đề khá khó khăn. Việc lựa chọn chính sách nào cũng có những mặt trái và
phải của nó, để chống lạm phát thanh công ta cần phải khoanh vùng tác động của
lạm phát để dùng công cụ tiền tệ đón đầu cho hiệu quả tránh tình trạng chính sách
tiền tệ phải chạy theo diễn biến lạm phát như hiện nay: “ một ví dụ đơn giản là giá
xăng dầu. Khi chúng ta tăng giá xăng thì giải thích là vì giá thấp hơn so với các
nước láng giềng. Nhưng khi tăng xong rồi chúng ta vẫn nói còn thấp, như vậy thì
người dân sẽ có tâm lý là còn có thể tăng tiếp nữa. Tại sao chúng ta không tăng
một lần cho bằng hoặc đơn giản là nói rằng giá vẫn thấp hơn nhưng cam kết
không có lần tăng giá nào nữa cho đến cuối năm.”
Qua nghiên cứu này, ta thấy rằng TTCK Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng
vào TTCK thế giới. Tuy nhiên, sau nhiều năm thị trường vận hành, việc đưa ra các
sản phẩm mới lại rất nghèo nàn, nên cơ quan quản lý cần sớm chuẩn bị cho sự ra
đời và phát triển của chứng khoán phái sinh. Đây là xu hướng tất yếu trong quá
trình phát triển của TTCK. Nếu không sớm chuẩn bị các điều kiện cần thiết, sẽ
không phản ứng kịp với sự phát triển tự phát của thị trường.
Các chỉ báo vĩ mô vốn là cơ sở cho sự phát triển của thị trường, nhưng lại giải
thích không nhiều các thay đổi trong VN-Index, điều này cho thấy rõ ràng thị
trường vẫn còn tiềm ẩn khá nhiều rủi ro, mà lớn nhất chính là hiện tượng tâm lý


bầy đàn. Theo ghi nhận thực tế, gần 90% NĐT cá nhân trên thị trường là chưa có
kinh nghiệm cộng với vấn đề bất cân xưng thông tin, đây là môi trường lý tưởng
cho hành vi bất hợp lý. Để giảm phần nào tâm lý bầy đàn cần có các biện pháp cải
thiện vấn đề công bố thông tin trên thị trường kể cả các số liệu vĩ mô, tăng cường
các biện pháp xử lý “đội lái”, các hiện tượng làm giá.

Các kiến nghị khác giúp phát triển TTCK có thể kể đến như: nới lỏng các giới hạn
kinh doanh chênh lệch giá bằng các công cụ nhà bán khống, T+1 ,v.v.... Ngoài ra
cần phát triển các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp mà vấn đề nổi bật trong thời gian
gần đây là việc thành lập các quỹ mở, đây được xem là một bước phát triển khá tốt
nhằm tăng tính hiệu quả cho TTCK Việt Nam khi giúp tăng thêm hàng hóa cơ sở
cho thị trường, tăng tính an toàn do được điều hành bởi các chuyên gia trong
ngành.
Về phía các NĐT: nên tránh đầu tư theo xu hướng, tin đồn do rủi ro khá cao, luôn
nâng cao kiến thức. Khi có các điều chỉnh về chính sách vĩ mô như kiểm soát cung
tiền, các NĐT cần xem xét lại danh mục của mình do chính sách tiền tệ thường có
tác động rất mạnh và ảnh hưởng lâu dài, trong các trường hợp xấu cần rút khỏi thị
trường vào đầu tư vào các kênh khác có tính an toàn cao hơn. Đối với các mã cổ
phiếu có xu hướng khác thường ( nhất là các mã có tỷ lệ nắm giữ của Nhà nước
hay cổ đông chiến lược cao ), nên có các phân tích tỉ mỉ và đầy đủ trước khi tiến
hành giải ngân vào các mã cổ phiếu đấy.


Tài liệu tham khảo
1.
2.
3.

4.

Lý thuyết EMH cùa Fama (1970)
Giáo trình PLTTCK ,khoa luật ĐHQG Hà Nội
Giáo trình kinh tế vĩ mô, PGS.TS. Nguyễn Minh Tuấn ThS. Trần Nguyễn Minh Ái
Công trình nghiên cứu sinh viên “ mối liên hệ giữa các
nhân tố vĩ mô và thị trường chứng khoán , thực trạng thị
trường chứng khoán ở Việt Nam”




×