Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.66 KB, 85 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN KHNH TON

Tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN KHNH TON

Tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm
trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam
đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 8380101.03

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN NGC CH


H NI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Khánh Toàn


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ
TIẾP NHẬN TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM TỘI PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ ...................................................... 7
1.1.


Một số vấn đề lý luận về tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ..................................................... 7

1.2.

Khái quát các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và pháp
luật về tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế ................................................................................... 20

1.2.1. Khái quát các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế ........................... 20
1.2.2. Nội dung qui định của pháp luật tố tụng trong việc tiếp nhận tin
báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế..................... 22
Chương 2: THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
TIẾP NHẬN TIN BÁO, TỐ GIÁC VỀ TỘI PHẠM XÂM PHẠM
TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
HẢI PHÒNG.....................................................................................................32
2.1.

Đặc điểm về các cơ quan tiếp nhận tin báo, tố giác về tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành
phố Hải Phòng .................................................................................. 32

2.2.

Thực trạng và nguyên nhân của công tác tiếp nhận tin báo,
tố giác về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên
địa bàn thành phố Hải Phòng ......................................................... 34



2.2.1. Thực trạng tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng ......................... 34
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành
phố Hải Phòng .................................................................................... 44
2.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận tin báo, tố giác về tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố
Hải Phòng........................................................................................... 58

2.3.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ................................................. 59
2.3.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng tiếp nhận tin báo, tố giác về
tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn thành phố
Hải Phòng ........................................................................................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 72


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CATP:

Công an thành phố

CQĐT:


Cơ quan điều tra

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XPTTQLKT:

Xâm phạm trật tự quản lý kinh tế


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng 2.1

Thực trạng tiếp nhận tin báo, tố giác xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế


Bảng 2.2

Trang

41

Tỉ trọng khởi tố qua tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế với khởi tố qua các nguồn khác

43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tố hình sự được bắt đầu bằng việc tiếp nhận tin báo, tố giác
về tội phạm, tiến hành xác minh khẳng định tính xác thực của vụ án có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, đảm bảo yêu cầu đầu tranh
phòng chống tội phạm, phòng chống oan sai và bỏ lọt tội phạm. Việc thực
hiện chức năng đó trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
đảm bảo hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành khách quan, đúng luật. Với
tư cách là cơ quan được pháp luật trao nhiệm vụ quyền hạn trực tiếp trong quá
trình giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm nhằm đảm bảo mọi tin báo, tố
giác của công dân và cơ quan tổ chức được giải quyết kịp thời, khách quan và
trung thực, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm.
Hiện nay, trên cơ sở quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 các văn bản
pháp luật tố tụng hình sự khác về trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết và kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm các cơ quan có thẩm quyền như
Bộ công an, VKSND Tối cao, Bộ Quốc phòng và các bộ ngành liên quan
khác và đã có rất nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện như quy chế nội bộ

ngành, Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-BNNPTNTBTC hướng dẫn quy định của BLTTHS về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố... đã đạt được những hiệu quả nhất định
trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, do sự thay đổi
nhanh của các điều kiện kinh tế xã hội, đặc biệt là yêu cầu đấu tranh, phòng
chống tội phạm trong tình hình mới mà quá trình thực hiện vấn để tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cũng như kiểm sát việc giải quyết tin
báo, tố giác tội phạm vẫn bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế. Những tồn tại nêu
trên đã gây ra những vướng mắc, lúng túng khi thực hiện dẫn đến quá trình

1


phối hợp giải quyết giữa Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKS đôi khi không có
sự thống nhất, là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tỷ lệ kết quả
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố thấp, tình hình tội
phạm ẩn còn nhiều.
Hải Phòng là thành phố trực thuộc trung ương, một trong những trung
tâm kinh tế lớn của cả nước, do đó bên cạnh những qui luật chung còn có
những đặc điểm riêng trong việc tiếp nhận tin báo, tố giác tội xâm phạm trật
tự quản lý kinh tế (XPTTQLKT). Sự khác biệt này đòi hỏi có sự nghiên cứu,
đúc rút kinh nghiệm để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận tin
báo, tố giác tội phạm đối với các tội XPTTQLKT phù hợp, đạt hiệu quả góp
phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc cải cách tư pháp
theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc tiếp tục
nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, việc giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm đối với các tội XPTTQLKT để làm sáng tỏ về mặt khoa học,
đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm trên địa bàn thành phố Hải

Phòng có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
Từ những lý do nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: "Tiếp
nhận tin báo, tố giác về tội phạm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam đối
với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại
địa bàn thành phố Hải Phòng)" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án, do đó được các nhà
khoa học, cán bộ làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Các công trình

2


khoa học có thể kể đến như: Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của các cơ sở
đào tạo Luật [25], [54] … đã đưa ra khái niệm, nhiệm vụ của giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự và đặc biệt nhấn mạnh đến việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm và kiến nghị khởi tố bằng việc phân tích các qui định của BLTTHS
về thủ tục giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Luận án tiến sỹ "Nguyên tắc khởi tố và xử lý vụ án hình sự trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", của tác giả Lê
Lan Chi đã đề cập đến trách nhiệm tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố trên cơ sở tiếp cận là những định hướng cho quá
trình giải quyết vụ án hình sự của nguyên tắc cơ bản này của luật TTHS [10].
Sách chuyên khảo
Các bài đăng trên tạp chí chuyên ngành nghiên cứu các khía cạnh của
việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
như các bài: “Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát trong công tác kiểm
sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo yêu
cầu cải cách tư pháp” [18]; bài “Một số vướng mắc, bất cập và giải pháp
nâng cao chất lượng công tác tiếp nhận, kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố

giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố hiện nay” [47]; “Những kinh nghiệm tổ
chức, thực hiện và biện pháp trong công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo,
tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố” [49]; “Một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm và kiến nghị khởi tố” [33]; “Quy định của pháp luật về kiểm sát việc
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố - Thực trạng và
một số đề xuất kiến nghị” [21]; “Cần thống nhất nhận thức về các khái niệm
tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các nguồn thông tin về tội
phạm” [46]; “Một số giải pháp tháo gỡ vướng mắc, bất cập trong giải quyết
và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm giết người” [29];

3


“Nâng cao chất lượng, hiệu quả phối hợp giữa Viện Kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội với Cục điều tra trong việc phát hiện và giải quyết tin báo, tố giác
về các tội xâm phạm hoạt động tư pháp”, Tạp chí Kiểm sát số 11/2012;.. [51].
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu trên mới chỉ luận giải một
số vấn đề mang tính lý luận căn bản về tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác
và kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác mà chưa có công trình nào
nghiên cứu đầy đủ và cụ thể ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về tiếp nhận
tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn
thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu tiếp tục làm sáng tỏ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế tại thành phố Hải Phòng, từ đó đưa ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thực tiễn áp
dụng của thành phố Hải Phòng.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Từ cơ sở kết quả tổng hợp các quan điểm của các tác giả về tiếp nhận,
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm như: Khái niệm tin báo, tố giác về tội
phạm; phân biệt tin báo, tố giác về tội phạm với các khiếu nại, tố cáo;
- Khái quát sự phát triển của pháp luật Tố tụng hình sự (TTHS) về việc
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm từ năm khi có Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS) năm 1988 đến nay để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Nghiên cứu các quy định cụ thể về việc tiếp nhận, giải quyết tin báo,
tố giác đối với các tội XPTTQLKT, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá;

4


- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện việc tiếp nhận tin báo, tố
giác về tội phạm XPTTQLKT ở thành phố Hải Phòng, đồng thời phân tích
làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên
nhân cơ bản của nó;
- Đề xuất những định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm XPTTQLKT trên địa bàn thành phố
Hải Phòng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận và qui định của pháp luật về tiếp nhận tin
báo, tố giác tội phạm XPTTQLKT;
Về phạm vi nghiên cứu thực tiễn: Đề tài nghiên cứu thực tiễn tiếp nhận
tố giác, tin báo về tội phạm XPTTQLKT trong 05 năm (2013 - 2018) trên địa
bàn thành phố Hải Phòng.
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật

lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể
hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh,
đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống
kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật TTHS và luận
chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.

5


6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn, trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng về lý luận và
thực tiễn liên quan chức năng trên trong luật TTHS Việt Nam. Những điểm
mới cơ bản của luận văn là:
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong nước về tiếp nhận tin báo, tố
giác tội phạm XPTTQLK;
- Qua nghiên cứu thực tiễn luận văn chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân cũng như đưa ra những kiến nghị nâng cao chất lượng tiếp nhận tin báo,
tố giác tội phạm XPTTQLKT trên địa bàn Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận và pháp luật tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
1.1. Lý luận tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế
1.2. Pháp luật tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế
Chương 2: Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận tin
báo, tố giác về tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trên địa bàn
thành phố Hải Phòng
2.1. Thực tiễn tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng
2.2. Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận
tin báo, tố giác tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIẾP NHẬN
TIN BÁO, TỐ GIÁC TỘI PHẠM TỘI PHẠM TRẬT TỰ
QUẢN LÝ KINH TẾ
1.1. Một số vấn đề lý luận về tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế
1.1.1. Khái quát về tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm
1.1.1.1. Tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình sự
a. Khái niệm
Tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình sự chứa đựng những thông tin
về dấu hiệu tội phạm và do đó, trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự,
tin báo, tố giác về tội phạm là đầu mối quan trọng để các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định có hay không có dấu hiệu tội phạm,
trên cơ sở đó sẽ ra quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án
hình sự. Nói cách khác, tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình sự là “đầu
vào” của quá trình tố tụng giải quyết vụ án hình sự, tạo ra căn cứ tiến hành

các hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng. BLTTHS quy định Tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình
sự góp phần tăng cường trách nhiệm của người dân, cơ quan, tổ chức trong xã
hội đối với việc đấu tranh phòng, chống tội phạm góp phần bảo vệ trật tự xã
hội. Đồng thời góp phần tạo sự rõ ràng và minh bạch để cho các chủ thể này
có thể tố cáo hành vi phạm tội hoặc thông tin về hành vi phạm tội của người
khác đến cơ quan có thẩm quyền.
Tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình sự làm khởi động giai đoạn
khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn mở đầu cho tất cả các hoạt động tố tụng tiếp
theo được diễn ra, chính vì vậy, việc khởi tố vụ án hình sự cần được tiến hành
dựa trên cơ sở của các căn cứ nhất định. Theo đó, "Chỉ được khởi tố vụ án hình

7


sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa
trên những cơ sở sau đây: 1. Tố giác của cá nhân; 2. Tin báo của cơ quan, tổ
chức, cá nhân; 3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị
khởi tố của cơ quan nhà nước;..." [45, Điều 143]. Như vậy, tin báo, tố giác về
tội phạm vụ án hình sự để bắt đầu giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, khởi động
trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong
việc khởi tố và xử lý tội phạm, thể hiện sự phản ứng nhanh chóng từ phía nhà
nước đối với hành vi phạm tội nhằm góp phần điều tra, xử lý một cách có căn
cứ và đúng pháp luật hành vi phạm tội và người phạm tội. Việc khởi tố vụ
án đúng, kịp thời có ý nghĩa quan trọng, là tiền đề mở ra hàng loạt những
hoạt động tố tụng sau này. Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự là khi xác định
có dấu hiệu của tội phạm xảy ra dựa trên năm cơ sở được quy định tại Điều
143 Bộ luật TTHS, trong số đó tố giác của công dân, tin báo của cơ quan, tổ
chức, tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng là những căn cứ rất
quan trọng, có thể coi là căn cứ chính trong việc khởi tố vụ án hình sự của

các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, cần làm rõ nội hàm của các khái niệm
“tin báo”, “tố giác” về tội phạm để có sự nhận thức đúng đắn bản chất pháp
lý của các khái niệm.
Theo Từ điển tiếng Việt thì các thuật ngữ: Tố cáo, tin báo, tố giác được
hiểu như sau: “Tố cáo” được hiểu với hai nghĩa: Thứ nhất, tố cáo là báo cho
mọi người hoặc cơ quan có thẩm quyền biết người hoặc hành động phạm
pháp nào đó. Thứ hai, tố cáo là vạch trần hành động xấu xa hoặc tội ác cho
mọi người biết nhằm lên án, ngăn chặn [35]. “Tố giác” được hiểu là báo cho
cơ quan chính quyền biết người hoặc hành động phạm pháp nào đó [35]. Khái
niệm “Tin” cũng được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất là, điều được truyền đi,
báo đi cho biết sự viện, tình hình xảy ra. Thứ hai là, sự truyền đạt, sự phản
ánh dưới các hình thức khác nhau, cho biết về thế giới xung quanh và những

8


quá trình xảy ra trong nó. Khái niệm “Báo” được hiểu theo hai nghĩa: Thứ
nhất là, cho biết việc gì đó đã xảy ra. Thứ hai là, cho người có trách nhiệm
nào đó biết về việc xảy ra có thể hại đến trật tự an ninh chung…là dấu hiệu
biết trước [35].
Đối với tin báo về tội phạm thì có nhiều cách hiểu: có quan điểm xác
định: chỉ có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức cung cấp, kiến
nghị mới là tin báo, tố giác về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng mọi
thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin báo, tố giác.
Trên bình diện pháp lý, Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của
bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức
[42, Điều 2, Khoản 1]. Tố cáo ở đây là khái niệm chung, là việc công dân

thực hiện quyền của mình báo tin về tất cả các hành vi vi phạm pháp luật
nói chung cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Tùy theo lĩnh
vực pháp luật bị vi phạm mà người ta phân biệt các loại tố cáo khác nhau.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm do cơ quan tiến
hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật về TTHS [42, Điều 31,
Khoản 3]. Việc tố giác và tin báo về tội phạm được thực hiện theo quy định
của pháp luật về TTHS (khoản 1 Điều 3).
Tố cáo và tố giác về tội phạm có những điểm khác biệt nhất định: Thứ
nhất, về nội hàm của khái niệm: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật, không
phân biệt tính chất, mức độ vi phạm; tố giác về tội phạm chỉ bao gồm hành
vi vi phạm pháp luật có thể cấu thành tội phạm đã được qui định trong Bộ
luật hình sự. Do đó, khái niệm tố cáo rộng hơn và bao hàm cả khái niệm tố
giác về tội phạm theo luật TTHS. Thứ hai, về quyền của chủ thể thực hiện:

9


tố cáo là quyền của công dân, tố giác về tội phạm vừa là quyền, vừa là nghĩa
vụ của công dân. Thứ ba, việc phát sinh quan hệ pháp luật: tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật chỉ phát sinh sau khi công dân thực hiện quyền tố cáo, tố
giác về tội phạm thì phát sinh ngay sau khi công dân biết về tội phạm. Công
dân có quyền quyết định việc mình sẽ tố cáo hay không một hành vi vi phạm
pháp luật nhưng bắt buộc phải tố giác nếu đã biết rõ về một tội phạm qui
định trong BLHS.
Như vậy, trong TTHS, tố cáo hành vi phạm tội được hiểu là tố giác về
tội phạm. Đây chính là một trong những nội dung khái niệm tin báo, tố giác
về tội phạm. Ở phương diện điều tra tội phạm, tin báo, tố giác về tội phạm là
những thông tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn cho các cơ quan pháp luật xem xét
tính chất nghiêm trọng hay không của sự việc đã được những chủ thể báo tin,
tố giác đến; tính chính xác và độ tin cậy của các thông tin đến đâu; có dấu

hiệu của tội phạm hay không… là căn cứ để CQĐT mở ra những hoạt động
điều tra, xác minh theo luật định.
Khi bàn về khái niệm tố giác tội phạm, giáo trình luật TTHS Việt Nam
của trường Đại học Luật Hà Nội cho rằng “tố giác tội phạm là việc công dân
tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của một người nào đó mà họ cho rằng đó là
tội phạm” [53]. Giáo trình này đã coi tố giác tội phạm đồng nghĩa và có cách
hiểu tương tự như tố cáo và do đó đã bó hẹp nội hàm của khái niệm tố giác tội
phạm. Cho đến nay có nhiều cách hiểu về tin báo, tố giác tội phạm. Có quan
điểm xác định: Chỉ có tin báo do nhân dân, đài báo, cơ quan, tổ chức các cấp,
kiến nghị mới là tin báo, tố giác về tội phạm; hoặc có quan điểm cho rằng,
mọi thông tin liên quan đến tội phạm đều là tin báo, tố giác. Có quan điểm
nêu: "Tố giác về tội phạm là việc công dân tố giác về hành vi tội phạm được
quy định trong BLHS, còn tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm
được quy định trong BLHS do cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã

10


hội cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết; do các
phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú. Quan
điểm khác cho rằng:
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện, tố cáo người phạm tội
hoặc hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo
quy định tại khoản 1 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của BLTTHS. Tin báo
về tội phạm là việc các cơ quan, tổ chức báo tin hoặc đăng tin có nội dung
phản ánh về tội phạm xảy ra cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy
định tại khoản 2, 5 Điều 100, Điều 101 và Điều 103 của BLTTHS.
Khắc phục vướng mắc này, từ thực tiễn tiếp nhận tin báo, tố giác về tội
phạm và kiến nghị khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, các cơ quan Tư pháp trung ương đã đưa ra qui định làm rõ các

khái niệm: Tin báo, tố giác tội phạm; Kiến nghị khởi tố. Theo đó:
Tin báo về tội phạm là những thông tin về hành vi có dấu hiệu trên các
phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan, tổ chức cung cấp cho cơ
quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tố giác về tội phạm là
những thông tin về hành vi có dấu hiệu tội phạm do cá nhân có danh tính, địa
chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải
quyết; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của
mình phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm [74].
Các qui định nêu trên dựa trên tiêu chí chủ thể để phân định khái niệm
“tin báo” và khái niệm “ tố giác”, nếu chủ thể đưa tin là cá nhân thì được gọi
là tố giác và nếu chủ thể là cơ quan, tố chức thì gọi là tin báo. Tuy nhiên, cách
phân loại này gặp phải những vướng mắc trong thực tế và sự việc được gọi
tên không đúng với bản chất của nó, chẳng hạn: “Trên thực tế, nhiều trường
hợp người (cá nhân) đi qua đường phát hiện xác chết có dấu hiệu do bị giết,

11


báo tin với cơ quan công an, do vậy, nếu xác định đây là tố giác tội là chưa
chính xác”. Do đó, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đã đưa ra các khái niệm
này như sau:
- Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo
hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền.
- Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu
tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có
thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin
đại chúng.
- Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
kiến nghị bằ ng văn bản và gửi kèm theo chứng cứ , tài liệu liên quan
cho Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát có thẩ m quyề n xem xét , xử lý

vụ việc có dấu hiệu tội phạm [45].
Các khái niệm trên đây bảo đảm tính khoa học, phản ánh được bản chất
pháp lý của mỗi hiện tượng đồng thời khắc phục được những vướng mắc
trong thực tiễn tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm vụ án hình sự của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, tác giả luận văn sẽ sử
dụng các khái niệm này để giải quyết các nội dụng đặt ra trong quá trình
nghiên cứu luận văn.
b. Vai trò, ý nghĩa của tin báo, tố giác về tội phạm
Với vị trí là sự bắt đầu của toàn bộ quá trình tố tụng hình sự giải quyết vụ
án, tin báo, tố giác về tội phạm trong vụ án hình sự có vai trò và ý nghĩa sau:
Thứ nhất, tin báo, tố giác về tội phạm giúp cơ quan có thẩm quyền kịp
thời phát hiện, nhanh chóng xử lý hành vi phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm.
Trong giai đoạn hiện nay tội phạm càng gia tăng và diễn biến ngày càng phức
tạp, cố tình tránh sự phát hiện của Cơ quan công an và các cơ quan có thẩm
quyền. Chính vì vậy, mà các cơ quan có thẩm quyền rất khó phát hiện ra tội

12


phạm trong xã hội. Việc tố giác tội phạm và tin báo về tội phạm có vai trò
quan trọng trong công tác phát hiện sớm tội phạm, giúp cơ quan điều tra
nhanh chóng phá án. Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn
hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản,
các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực
khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Chính những hành vi xâm phạm
đó làm cho xã hội phức tạp với nhiều loại tội phạm có tính chất nguy hiểm

cao. Các cơ quan nhà nước lại không bảo đảm hết việc nắm bắt thông tin về
tình hình tội phạm đang diễn ra trong xã hội mà chỉ hạn chế về một số lượng
thông tin nhất định. Để các cơ quan nhà nước nắm bắt đầy đủ thông tin về
tình hình tội phạm cần phải có sự tố giác của công dân. Tin báo, tố giác về tội
phạm giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền biết được tội phạm đang
diễn ra trên lĩnh vực nào. Nhằm có biện pháp cụ thể xử lý tội phạm trên lĩnh
vực đó. Việc tin báo, tố giác về tội phạm giúp cho các cơ quan có thẩm quyền
phát hiện nhanh tội phạm. Tuy nhiên, một số loại tội phạm xảy ra bất ngờ
trong xã hội mà các cơ quan có thẩm quyền không biết được như: tội giết
người, cướp tài sản, cố ý gây thương tích. Tố giác tội phạm giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền nhanh chóng đến hiện trường nơi xảy ra vụ án để thu
thập xác minh làm rõ sự việc phạm tội. Trong một số trường hợp người phạm
tội sau khi gây án xong lại bỏ trốn khỏi hiện trường, gây khó khăn cho việc
truy bắt hung thủ gây án cũng như công tác điều tra phá án.
Tố giác tội phạm là cơ sở xác định có dấu hiệu tội phạm theo quy định
của BLTTHS và việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở tin

13


báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Như vậy, khi một vụ án hình sự
đã diễn ra hoặc đang diễn ra, nếu công dân biết được thì phải tố giác với cơ
quan có thẩm quyền. Nếu có dấu hiệu của tội phạm thì cơ quan điều tra ra
quyết định khởi tố vụ án hình sự ngay từ khi tiếp nhận thông tin tố giác tội
phạm, và phải ghi rõ những thông tin cần thiết về thông tin tố giác tội phạm
của công dân.
Tin báo, tố giác tội phạm trong đối với vụ án hình sự sẽ hạn chế xảy ra
tình trạng tội phạm ẩn. Nguyên nhân của vấn đề bỏ lọt tội phạm có nhiều,
song cơ bản tập trung vào: Chủ thể của hành vi phạm tội đã sử dụng thủ đoạn
gây án mới tinh vi nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng như tính

toán kỹ lưỡng trước, trong và sau khi gây án; hợp thức hóa hành vi phạm tội;
xóa sạch mọi dấu vết hành vi phạm tội. Người bị hại, nhân chứng không
muốn tố giác hành vi phạm tội, cung cấp tài liệu về hành vi phạm tội với cơ
quan chức năng do tính chất hậu quả hành vi phạm tội không lớn; do mối
quan hệ ruột thịt, dòng họ, quan hệ công tác, cấp trên, cấp dưới, sợ ảnh hưởng
đến danh dự, nhân phẩm, sợ bị trả thù. Để khắc phục tình trạng lọt tội phạm,
thực hiện được nguyên tắc tối cao của pháp luật là “mọi hành vi phạm tội đều
phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh”. Vì vậy, việc tố giác tội
phạm sẽ góp phần làm cho các hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời,
xử lý đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, tin báo, tố giác về tội phạm góp phần đấu tranh, phòng chống
tội phạm của công dân
Tin báo, tố giác về tội phạm không chỉ giúp cơ quan có thẩm quyền
kịp thời, phát hiện xử lý nhanh tránh bỏ lọt tội phạm mà còn giúp cho mối
quan hệ giữa các cơ quan nhà nước và công dân gắn bó nhau hơn, cùng đấu
tranh phòng ngừa tội phạm. Công dân tố giác tội phạm là công dân có lòng
tin vào các cơ quan cơ thẩm quyền có khả năng ngăn chặn tội phạm xảy ra.

14


Trong quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay phải có sự chung sức
của tất cả người dân. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi nhận được
tin tố giác của công dân phải giải quyết nhanh, để tạo niềm tin cho người
dân. Khi tố giác tội phạm, công dân muốn cơ quan có thẩm quyền phải giải
quyết tin tố giác đó. Công việc đấu tranh phòng, chống tội phạm không chỉ
là nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là nhiệm vụ của
toàn thể công dân, của toàn xã hội. Phần lớn các tin tố giác về tội phạm là do
công dân cung cấp. Nếu công dân không tố giác tội phạm thì sự chung tay
của nhà nước trong việc phòng chống tội phạm sẽ không mang lại hiệu quả

cao. Công dân là tai mắt của cơ quan công an, mọi hoạt động của tội phạm là
từ trong dân, trong xã hội.
Tin báo, tố giác tội phạm là một dạng phòng ngừa tội phạm. Phòng
ngừa tội phạm là hoạt động có tổ chức, có mục đích, có sự đầu tư nhằm hạn
chế sự hình thành và phát triển của tội phạm. Thời gian qua, phòng ngừa tội
phạm ở Việt Nam cũng được xây dựng thành các chương trình, kế hoạch cụ
thể bên cạnh các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Có rất
nhiều cách phòng, chống tội phạm trong đó tố giác tội phạm cũng là cách
phòng, chống tội phạm nhằm hạn chế sự gia tăng của tội phạm. Tố giác tội
phạm không chỉ nêu cao tinh thần phòng, chống tội phạm của công dân mà
giúp các cơ quan nhà nước cùng phòng, chống tội phạm. Như vậy, tố giác
tội phạm có vai trò quan trọng trong công tác phát hiện tội phạm, làm giảm
sự gia tăng của tội phạm hiện nay, làm cho nhà nước và công dân gắn bó
nhau hơn cùng nhau đấu tranh chung vì mục tiêu giữ cho xã hội lành mạnh,
trong sạch không có tội phạm.
1.1.1.2. Tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm
a. Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt: "Tiếp nhận là đón nhận cái từ người khác,

15


nơi khác chuyển giao cho". Tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm là khâu đầu
tiên thu thập thông tin về các hành vi nguy hiểm cho xã hội (được quy định
trong Bộ luật hình sự) theo quy trình chặt chẽ, hợp pháp. Đây cũng là khâu rất
quan trọng, góp phần đánh giá tình hình tội phạm, năng lực, trách nhiệm của
cán bộ các cơ quan chức năng đối với nhân dân.
Hoạt động tiếp nhận là "đầu vào" cho quá trình giải quyết tin báo, tố
giác về tội phạm. Bởi lẽ qua đó CQĐT và các cơ quan được giao tiến hành
một số hoạt động hoạt động điều tra mới tiến hành các hoạt động điều tra,

xác minh để xác định dấu hiệu tội phạm, có căn cứ để khởi tố hoặc không
khởi tố vụ án hình sự. VKSND có thẩm quyền kiểm sát hoạt động tư pháp kể
từ giai đoạn này.
Khi nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, các cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết thể hiện ở
qui định của nguyên tắc “Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự” (Điều
18 BLTHS năm 2015). Trách nhiệm tiếp nhận giải quyết tin báo, tố giác về
tội phạm được xuất phát từ nhu cầu xử lý tội phạm theo định hướng mọi tội
phạm đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo
đúng pháp luật (Điều 2 BLTTHS năm 2015). Khi phát hiện có dấu hiệu của
tội phạm các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tiến hành khởi tố
vụ án, áp dụng các biện pháp do luật TTHS quy định để xác định tội phạm
và người phạm tội, bảo đảm mọi tội phạm đều bị xử lý khách quan, công
bằng. Nói cách khác, thực hiện tốt trách nhiệm khởi tố vụ án hình sự sẽ bảo
đảm yếu tố “đầu vào” của quá trình xử lý tội phạm, mọi tội phạm bị phát
hiện đều bị xử lý theo quy định của pháp luật, là yếu tố quyết định đến việc
có để lọt tội phạm không trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm thuộc về các cơ
quan có thẩm quyền, bao gồm Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao

16


nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện Kiểm sát. Các cơ quan có
thẩm quyền khởi tố có trách nhiệm tiếp nhận tin báo, tố giác tội phạm; trách
nhiệm kiểm tra, xác minh làm rõ tin báo, tố giác về tội phạm; Trách nhiệm
quyết định khởi tố vụ án hoặc không quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Trách nhiệm xử lý tội phạm được thể hiện trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách
nhiệm tiếp nhận, xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm; ra quyết định

khởi tố vụ án hoặc quyết định không khởi tố vụ án là cơ sở cho việc giải
quyết vụ án hình sự ở những giai đoạn tiếp theo;
Thứ hai, sử dụng tất cả các biện pháp do pháp luật TTHS quy định
làm sáng tỏ mọi tình tiết liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc giải quyết,
xử lý vụ án;
Thứ ba, quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế, nhất là các biện
pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự đúng căn cứ, thẩm quyền, thủ tục, trình
tự, thời hạn theo quy định của pháp luật;
Thứ tư, ra các quyết định xử lý tin báo, tố giác tội phạm bằng quyết
định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự một cách nhanh
chóng, khách quan, toàn diện trên cơ sở quy định của pháp luật, tôn trọng, bảo
vệ quyền con người;
Thứ năm, kịp thời ra quyết định hủy bỏ, thay thế các biện pháp cưỡng
chế TTHS đã áp dụng đúng theo qui định của pháp luật;
Thứ sáu, kiểm tra, giám sát các hoạt động TTHS trong quá trình tiếp
nhận, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm, bảo đảm để việc xử lý tội phạm đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt tội phạm.
Từ những phân tích trên có thể hiểu tiếp nhận tin báo, tố giác về tội
phạm là hoạt động có trách nhiệm của các cơ quan, các lực lượng bảo vệ pháp
luật, các cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác… nhằm ghi nhận, tổng

17


hợp lại những thông tin liên quan đến những hành vi nguy hiểm cho xã hội
(được quy định trong Bộ luật hình sự), phục vụ công tác phân tích, phân loại,
giải quyết, xử lý theo luật định.
b. Ý nghĩa của việc tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm
Thứ nhất, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm góp phần thực hiện
mục tiêu của TTHS đặt ra “bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh,

kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội” (Điều 2 BLTTHS năm 2015). Các
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tích cực, khẩn trương xác
minh tin báo, tố giác về tội phạm, nhanh chóng là rõ dấu hiệu tội phạm của
tin báo, tố giác về tội phạm trên cơ sở ra các quyết định giải quyết vụ án đã
góp phần vào việc phát hiện kịp thời tội phạm. Trên cơ sở đó, làm cho vụ án
được giải quyết nhanh chóng, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội
và bỏ lọt tội phạm.
Thứ hai, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm nhanh chóng, đúng pháp
luật thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Thông qua đó góp phần nâng
cao vị thế và ý thức trách nhiệm của các cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng trong hoạt động TTHS, góp phần xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh.
Thứ ba, tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm góp phần bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người khi quyền, lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại.
Quyền con người và pháp luật là hai yếu tố không thể tách rời mà có tác động
qua lại lẫn nhau một cách biện chứng. Mặc dù quyền con người có tính "bẩm
sinh" nhưng nó không thể thành hiện thực nếu không có pháp luật. Trước hết,
vai trò quan trọng của pháp luật đối với quyền con người là nó ghi nhận (xác
lập), củng cố, hoàn thiện quyền con người. Bảo vệ quyền con người là một

18


×