Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tieu luan phep bien chung duy vat

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.32 KB, 35 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lónh vực:
tự nhiên, xã hội và tư duy con người, đặc biệt trong hoạt
động kinh tế, chẳng hạn như cung và cầu, tích lũy và tiêu
dùng, tính kế hoạch hóa của từng xí nghiệp, từng công ty
và tính tự phát của nền kinh tế hàng hóa, v.v.. Mâu thuẫn
tồn tại khi sự vật tồn tại đến khi sự vật kết thúc. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành không phải chỉ là một
mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật trong cùng một lúc
có nhiều mặt đối lặp thì mâu thuẫn này mất đi, mâu
thuẫn khác lại hình thành.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo đã giành được nhiều thắng lợi bước đầu
mang tính quyết đònh, quan trọng trong việc chuyển nền kinh
tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thò trường có
sự quản lý của nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ
nghóa. Trong những chuyển biến đó đã đạt nhiều thành
công to lớn nhưng trong những thành công đó luôn luôn
tồn tại những mâu thuẫn kìm hãm sự phát triển của công
cuộc đổi mới, đòi hỏi phải được giải quyết và nếu được
giải quyết sẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Với mong muốn tìm hiểu thêm những vấn đề của nền
kinh tế, quan điểm lý luận cùng những vướng mắc trong
giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề chính trò – xã hội
có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách nền kinh
tế, tôi đã chọn đề tài “Mâu thuẫn biện chứng trong
quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh


hướng xã hội chủ nghóa ở Việt Nam” để làm đề tài
tiểu luận của mình.
1


2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong công cuộc đổi mới, nước ta đang xây dựng nền
kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa. Đã có
nhiều tác giả với những công trình nghiên cứu và bài
viết về kinh tế thò trường ở những góc cạnh khác nhau:
Đặc điểm mối quan hệ giữa kinh tế và chính trò ở Việt
Nam - Vấn đề và giải pháp, GS.TS Trần Ngọc Hiên, Tạp chí
Cộng sản số 13, năm 2009.
Kinh tế thò trường qua các bước đổi mới tư duy, Hà
Đăng, Tạp chí Cộng sản số 7, năm 2007.
Bản chất của nền kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam, Trần Xuân Trường, Tạp chí Cộng
sản số 1, năm 2007.
Về quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thò trường đònh
hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta hiện nay, Đoàn Quang
Thọ, Tạp chí Triết học.
Bên cạnh đó, vấn đề về nền kinh tế thò trường còn
được trình bày trong nhiều công trình nghiên cứu khác.
Nhìn chung, vấn đề về nền kinh tế thò trường đã và
đang được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học,
nhiều nhà trí thức với số lượng công trình, bài viết tương
đối phong phú, chứa đựng nhiều tư tưởng có giá trò sâu

sắc. Với lòng ham mê nghiên cứu, học hỏi, trên cơ sở kế
thừa những công trình đã có trước đó, tác giả bài viết
mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn nữa và trình bày
một cách có hệ thống những vấn đề của nền kinh tế
thò trường, cụ thể là những mâu thuẫn, sự tác động biện
chứng của các mâu thuẫn đó trong nền kinh tế thò trường
qua đề tài “Mâu thuẫn biện chứng trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở Việt Nam”.
2


3.

Mục đích và nhiệm vụ của đề tài

Mục đích
Làm rõ lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng, tính
tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường ở
Việt Nam, cũng như những mâu thuẫn phát sinh trong quá
trình xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng.
Làm rõ tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh
tế thò trường ở Việt Nam và những mâu thuẫn phát sinh
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta.
4. Cơ sở phương pháp luận của đề tài
Để thực hiện mục đích, nhiệm vụ trên, tác giả đã dựa

trên thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghóa duy
vật biện chứng và chủ nghóa duy vật lòch sử để nghiên
cứu và trình bày bài tiểu luận của mình. Đồng thời, tác
giả còn sử dụng hệ thống các phương pháp như: phân tích
và tổng hợp, diễn dòch và quy nạp, lôgíc và lòch sử để
nghiên cứu và trình bày bài tiểu luận.
5.

Ý nghóa lý luận và thực tiễn

Ý nghóa lý luận
Về lý luận, lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng,
tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường
ở Việt Nam và những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa ở nước ta, bài tiểu luận góp phần làm sâu
sắc thêm những mâu thuẫn và sự tác động của chúng
trong nền kinh tế thò trường.
Ý nghóa thực tiễn

3


Bài tiểu luận làm rõ lý luận chung về mâu thuẫn
biện chứng, tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh
tế thò trường ở Việt Nam, cũng như những mâu thuẫn
phát sinh trong quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường
theo đònh hướng xã hội chủ nghóa ở nước ta, qua đó góp
phần khẳng đònh đường lối kinh tế đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta. Bài tiểu luận có thể dùng làm tài liệu

tham khảo trong việc học tập của sinh viên về môn Phép
biện chứng duy vật nói riêng và môn Triết học, Kinh tế
chính trò học nói chung trong các trường Đại học và Cao
đẳng.
6.

Kết cấu của bài tiểu luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục, mục lục, phần nội dung gồm 3 chương, 25
trang.
Chương 1: Lý luận chung về mâu thuẫn biện chứng
Chương 2: Tính tất yếu của quá trình xây dựng nền kinh
tế thò trường ở Việt Nam
Chương 3: Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa ở nước ta

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG
1.1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và
phổ biến
Mâu thuẫn là sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau
của các mặt đối lập bên trong một sự vật, một hiện
tượng. Đối lập với các quan điểm của triết học cũ, phép biện chứng duy vật khẳng
định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng
trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân

vốn có bên trong của sự vật, hiện tượng quy định. Mâu thuẫn tồn tại khơng phụ thuộc
vào bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con người. Mỗi sự vật, hiện
tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất các khuynh hướng, các thuộc tính phát
triển ngược chiều nhau, đối lập nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh chuyển
hố, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo thành động lực bên trong của mọi q trình vận
động và phát triển khách quan của chính bản thân các sự vật, hiện tượng.
Mâu thuẫn có tính khách quan vì nó là cái vốn có
trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của sự vật,
5


hiện tượng. Mâu thuẫn là một hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã
hội và tư duy của con người. Khoa học tự nhiên hiện đại chứng minh rằng thế giới vi
mơ là sự thống nhất giữa những thực thể có điện tích trái dấu, hạt và trường, hạt và
phản hạt. Trong sinh học có hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến dị. Xã hội lồi người
có những mâu thuẫn phức tạp hơn, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, giữa các giai cấp đối kháng giữa chủ
nơ và nơ lệ, nơng dân và địa chủ, tư sản và vơ sản. Hoạt động kinh tế mâu thuẫn cũng
mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung và cầu, tích luỹ và tiêu dùng, tính kế hoạch
hố của từng xí nghiệp, Cơng ty với tính vơ chính phủ của nền kinh tế hàng hố, v.v..
Trong tư duy của con người cũng có những mâu thuẫn như chân lý và sai lầm, v.v..
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật mới xuất hiện cho tới khi sự vật kết thúc. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn hình thành khơng phải chỉ có một mà có thể có nhiều mâu
thuẫn, vì sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì
mâu thuẫn khác hình thành. Theo Ăngghen, chính sự vận động đơn giản nhất của vật
chất cũng là một mâu thuẫn. Vật chất tồn tại ở hình thức vận động cao hơn, mâu thuẫn
càng rõ nét hơn. Nó gắn liền với sự vật, xun suốt q trình phát sinh, phát triển và
diệt vong của sự vật. Đó chính là những thuộc tính quy định tính khách quan và phổ
biến của mâu thuẫn.
1.2. Sự đấu tranh của các mặt đối lập trong một

thể thống nhất
Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái qt những
thuộc tính, những khuynh hướng ngược chiều nhau cùng tồn tại trong cùng một sự vật
hiện tượng, tạo nên sự vật, hiện tượng đó. Do đó cần phân biệt rằng khơng phải bất kỳ
hai mặt đối lập nào cũng thành mâu thuẫn. Bởi vì trong cùng một sự vật hiện tượng
khách quan khơng chỉ tồn tại hai mặt đối lập. Trong cùng một thời điểm cùng tồn tại
nhiều mặt đối lập. Chỉ có mặt đối lập là cùng tồn tại thống nhất trong cùng một sự
vật như một chỉnh thể, nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, phủ định
và chuyển hố lẫn nhau (sự chuyển hố này trở thành nguồn gốc động lực, đồng
thời quy định bản chất khuynh hướng phát triển của sự vật) thì có hai mặt đối lập như
vậy mới gọi là hai mặt đối lập mâu thuẫn. Sự thống nhất của hai mặt đối lập được
hiểu khơng phải chúng đứng cạnh nhau mà nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân
6


bằng như liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt
đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai
mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định khơng có sự tồn tại của sự vật. Bởi
vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện khơng thể thiếu được cho sự tồn tại
của bất kỳ sự vật hiện tượng nào.
Sự thống nhất này là do những đặc điểm riêng có của bản thân sự vật tạo nên. Ví
dụ như lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi lực
lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất cũng phát triển. Hai điều kiện này
chính là điều kiện tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất. Nhưng trong
quan hệ của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thỏa mãn một số u cầu
sau:
Thứ nhất, đó phải là một khái niệm chung nhất được khái qt từ các mặt phù
hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất.
Thứ hai, đó phải là một khái niệm “động” phản ánh được trạng thái biến đổi

thường xun của sự vận động, phát triển trong quan hệ của quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất.
Thứ ba, đó phải là một khái niệm có ý nghĩa thực tiễn. Ngồi ý nghĩa nhận
thức, khái niệm về sự phù hợp của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất được coi
là thỏa đáng phải có tác dụng định hướng, chỉ đạo cho việc xây dựng quan hệ sản
xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản
xuất.
Tuy nhiên, khái niệm thống nhất này chỉ mang tính tượng đối. Bản thân nội dung
khái niệm đã nói lên tính chất tương đối của nó: thống nhất của các đối lập, trong
thống nhất đã bao hàm và chứa đựng trong nó sự đối lập.
Về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự thống nhất của các mặt đối lập
trong cùng một sự vật hiện tượng khơng tách rời đấu tranh chuyển hố giữa chúng.
Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn
vẹn nhưng khơng nằm n bên nhau mà điểu chỉnh chuyển hố, bài trừ, phủ định lẫn
nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự đấu tranh chuyển hố, bài
trừ, phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều hình
7


thức khác nhau. Ví dụ như lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai cấp có
đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu
kìm hãm nó diễn ra quyết liệt và gay gắt. Chỉ thơng qua các cuộc cách mạng xã hội
bằng rất nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết nó một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập được chia thành nhiều giai đoạn. Thơng
thường, khi nó mới xuất hiện, hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt
người ta gọi đó là giai đoạn khác nhau. Tất nhiên khơng phải bất kỳ sự khác nhau nào
cũng được coi là mâu thuẫn, chỉ có những khác nhau cùng tồn tại trong cùng một sự
vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau, phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực
bên trong của sự phát triển thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu
thuẫn. Khi hai mặt đối lập của một mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay

gắt, nó biến thành độc lập, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Sau khi giải quyết
được mâu thuẫn sự thống nhất của hai mặt đối lập mới, hai mặt đối lập mới đấu tranh
chuyển hố thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật mới xuất hiện. Cứ
như thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi khơng ngừng từ thấp
lên cao. Chính vì vậy, Lênin khẳng định sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập.
Khi bàn về mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập,
Lênin chỉ ra rằng, mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa là
chính nó, nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được sự vật,
hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân của sự thống nhất chỉ là
tương đối và tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra
thường xun, liên tục trong suốt q trình tồn tại của sự vật. Kể cả trong trạng thái sự
vật ổn định, cũng như chuyển hố nhảy vọt về chất. Cho nên, sự thống nhất (phù
hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời,
thống qua trong tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt
đối cũng như sự phát triển, sự vận động tuyệt đối.
1.3.

Sự chuyển hóa của các mặt đối lập

Khơng phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển
hố giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ
nhất định, hội đủ các điểu kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hố giữa chúng, bài trừ
8


và phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn
ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải
thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó, không nên hiểu sự chuyển hoá
lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách dơn giản máy móc.

Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
Phương thức thứ nhất: mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở
trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật. Ví dụ nhö lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành
quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở
trình độ cao hơn.
Phương thức thứ hai: cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để thành hai mặt đối
lập mới hoàn toàn. Ví dụ nhö nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ những mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh
hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong
điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến
trên thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũng mất đi sự vật mới hình thành. Sự
vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành
sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
thường xuyên và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực
của mọi quá trình phát triển.

9


Chương 2
TÍNH TẤT YẾU CỦA QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
2.1. Kinh tế thò trường và những đặc điểm của

Về khái niệm kinh tế thò trường, có hai ý kiến khác

nhau về kinh tế thò trường:
Một là, xem kinh tế thị trường là phương thức vận hành kinh tế lấy thị trường
hình thành do trao đổi và lưu thơng hàng hố làm người phân phối các nguồn lực chủ
yếu; lấy lợi ích, cung cầu thị trường và mua bán giữa hai bên làm cơ chế khuyến khích
hoạt động kinh tế. Nó là phương thức tổ chức vận hành kinh tế – xã hội. Kinh tế thị
trường là phương thức, phương tiện, cơng cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả, tự nó
khơng mang tính giai cấp – xã hội, khơng tốt mà cũng khơng xấu, tốt hay xấu là do
người sử dụng nó. Với quan niệm này, kinh tế thị trường là vật “trung tính”; là cơng
nghệ sản xuất ai sử dụng cũng được.
Hai là, xem kinh tế thị trường là một quan hệ kinh tế - xã hội - chính trị, nó in
đậm dấu ấn của lực lượng xã hội làm chủ thị trường. Kinh tế thị trường là một phạm
10


trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động đó, có sự tác động lẫn nhau
của các chủ thể hoạt động. Trong xã hội có giai cấp, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị
trường không phải là cái nhân riêng lẻ, đó còn là những tập đoàn xã hội, những giai
cấp. Sự tác động qua lại của các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho người này, tầng
lớp hay giai cấp này; có hại cho tầng lớp hay giai cấp khác. Cho nên, kinh tế thị trường
có mặt tích cực, có mặt tiêu cực nhất định, không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai
mặt đó.
Nhö vaäy, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát
triển nhất định của văn minh nhân loại. Là một kiểu tổ chức kinh tế, kinh tế thị trường
vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất. Phải đạt đến
một trình độ phát triển nhất định, nền sản xuất xã hội mới thoát khỏi tình trạng tự cung
tự cấp, mới có sản phẩm dư thừa để trao đổi. Cũng phải trong những quan hệ xã hội
như thế nào của sản xuất mới nảy sinh cái tất yếu kinh tế: người sản xuất hàng hóa
phải mang sản phẩm dư thừa ra thị trường, kẻ mua và người bán trao đổi sản phẩm với
nhau trên thị trường.
Kinh tế thị trường thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, nhưng nó không bao giờ tự

sản sinh ra một hệ thống quan hệ sản xuất đầy đủ, độc lập với các phương thức sản
xuất mà trong đó nó vận động. Nó bao giờ cũng gắn bó hữu cơ với hệ thống các quan
hệ sản xuất và trao đổi của từng thời đại kinh tế, với các quan hệ sở hữu, tổ chức quản
lý và phân phối của từng phương thức sản xuất trong lịch sử. Sự gắn bó đó chặt chẽ
đến mức chúng ta có thể nói đến nền kinh tế hàng hóa của xã hội nô lệ, nền kinh tế
hàng hóa giản đơn trong lòng xã hội phong kiến. Đến chủ nghĩa tư bản, kinh tế hàng
hóa giản đơn trở thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa, trở thành kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa. Và, trong chủ nghĩa tư bản, những quan hệ kinh tế của kinh tế thị
trường và của chủ nghĩa tư bản thâm nhập vào nhau thành một thể thống nhất. Điều đó
gây nên rất nhiều sự nhầm lẫn của kinh tế học tầm thường. Chỉ có sự trừu tượng hóa
khoa học của những người mác-xít mới phân tích được bản chất và đặc điểm của kinh
tế thị trường của từng phương thức sản xuất trong lịch sử.
Kinh tế thị trường có sự phát triển từ thấp lên cao, đỉnh cao nhất trong sự phát
triển của nó ở giai đoạn đã qua đạt được trong chủ nghĩa tư bản, được xã hội đó sử
dụng triệt để. Đó là cơ sở để trước đây nhiều người đồng nhất nền kinh tế thị trường
với chủ nghĩa tư bản. Quan điểm đó được củng cố thêm còn do quá trình xây dựng chủ
11


nghĩa xã hội trước đây, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa đều kỳ thị với kinh tế thị
trường, tuyệt đối hố nền kinh tế kế hoạch mang tính tập trung quan liêu. Do vậy có sự
đối lập giữa kinh tế thị trường với chủ nghĩa xã hội. Kết quả nghiên cứu lý luận và
hoạt động thực tiễn trong những năm gần đây đã cho phép khẳng định rằng, nền kinh
tế của thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường. Sự ra đời và
tồn tại của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ q độ trước hết và chủ yếu do trong
thời kỳ này còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế, do có sự tách rời giữa quyền sở hữu
và quyền kinh doanh ngay trong một thành phần kinh tế, do còn có sự phân cơng lao
động, v.v.. làm cho các đơn vị kinh tế trở thành những người sản xuất hàng hố và
những người kinh doanh hàng hố độc lập (hoặc tương đối độc lập). Vì thế, trong nền
kinh tế nhất định sẽ hình thành quan hệ hàng hố và trao đổi hàng hố, làm cho nền

kinh tế đó vận hành trong mơi trường kinh tế thị trường.
2.2. Chuyển sang nền kinh tế thò trường là một
tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của
nền kinh tế đất nước
Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mơ
hình phát triển nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ từ trung tâm, trong bối cảnh
ngày nay, là mơ hình hợp lý hơn cả. Mơ hình này, về đại thể có thể đáp ứng những
thách thức của sự phát triển.
Nước ta, việc thực hiện mơ hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dụng của
cơng cuộc đổi mới mà hơn thế nưa còn là cơng cụ, là phương thức để nước ta đi tới
mục tiêu xây dựng chủ nghóa xã hội.
Nền kinh tế nước ta hiện nay chỉ có thể nó đang trong giai đoạn q độ, chuyển
tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý vĩ mơ của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghóa. Do vậy,
những đặc điểm của giai đoạn q độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một
vấn đề rất có ý nghĩa, rất cần được nghiên cứu, xem xét. Nhận thức được những đặc
điểm phức tạp của giai đoạn q độ, chi phối những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh
được những sai lầm chủ quan nóng vội, duy ý chí hoặc những khuynh hướng cực
đoan, máy móc, sao chép, chấp nhận ngun bản kinh tế thị trường từ bên ngồi vào.

12


Như chúng ta đã biết, trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, mọi chức năng kinh tếxã hội của nền kinh tế đều được triển khai trong quá trình kế hoạch hoá ở cấp độ quốc
gia. Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động của sản xuất lưu thông, phân
phối, v.v.. khá nặng nề, ở nước ta trước đây, chế độ hạch toán, trên thực tế còn nặng về
hình thức. Lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động, một động lực
trực tiếp của hoạt động xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế, sự vận động của
nền kinh tế nhìn chung là chậm chạp, kém năng động.
Kể từ đại hội Đảng lần thöù V đến nay, theo đường lối đổi mới, đất nước ta đã

từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Và
điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, những
thành tựu cho phép chúng ta điều chỉnh và bổ sung nhận thức, làm cho quan nịêm về
chủ nghĩa xã hội ngày càng cụ thể: đường lối chủ trương, chính sách ngày càng đồng
bộ, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Những thành tựu đó, trong một chừng mực nhất
định cũng gián tiếp khả năng của nền kinh tế thị trường trong việc năng động hoá nền
kinh tế đất nước.
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết là một quan hệ kinh tế – xã hội mà trong
đó sản xuất và tái sản xuất gắn liền với thị trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, với quan hệ cung - cầu, v.v.. Trong nền kinh tế thị trường, nét biểu hiện
có tính chất bề mặt của đời sống xã hội quan hệ hàng hoá.
Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiểu sở hữu tương đối thuần
nhất với hai thành phần tập thể và quốc doanh, thì nay, cùng với thành phần sở hữu
chủ đạo là sở hữu nhà nước, còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức
sở hữu đó, trong thực tế vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau, đôi
khi chúng còn có mâu thuẫn với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận
khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động
của nền kinh tế thị trường.
Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, việc chúng ta bước đầu sử dụng
thị trường như là một công cụ, phương thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích
cực cả về phượng thức, trên thực tế đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương
diện thực tiễn và phương diện nhận thức.

13


Mỗi hành trang có ý nghĩa mà cơng cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta sản xuất
hàng hố cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, hiện
đã được chúng ta hiểu là khơng đối lập với chủ nghóa xã hội. Với tính cách là
sản phẩm của văn minh nhân loại, một cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với

bên ngồi, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với cơng cuộc
xây dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta.
Trong nền kinh tế hàng hố nhiều thành phần ở nước ta, thị trường là căn cứ, vừa
là đối tượng của cơng tác kế hoạch hố. Việc điều tiết vĩ mơ đối với thị thường, một
mặt làm cho nền kinh tế nước ta thực sự trở thành một thị trường thống nhất, thống
nhất trong cả nước và thống nhất với thị trường thế giới, mặt khác còn có tác dụng làm
cho mỗi đơn vị kinh tế phải tự khẳng định khả năng và vai trò của mình trong thị
trường.
Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta lại cũng
hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự
tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội, nó có khả năng
tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế khơng nhất
thiết đi liền với xã hội. Do vậy, những quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp
xây dựng chủ nghóa xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng
bằng văn minh, nền kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3. Đònh hướng xây dựng nền kinh tế thò trường
ở nước ta hiện nay
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trường phát triển với đặc trưng sau:
Thứ nhất, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ: thị trường hàng hố
và dịch vụ; thị trường cơng nghệ, các dịch vụ thơng tin, tư vấn, tiếp thị, pháp lý, tài
chính, ngân hàng, kiểm tốn, bảo hiểm, bảo lãnh; thị trường sức lao động; thị trường
lao động, thị trường khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ, thị trường bất động sản, thị trường
vốn, thị trường chứng khốn, v.v.. Tất cả các loại thị trường đó liên kết chặt chẽ với
nhau tạo thành một chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống này trở thành đầu mối mọi tác động
qua lại của hoạt động kinh tế - xã hội.
14



Thứ hai, mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng (bao gồm xí nghiệp, tập đồn xã
hội và cá nhân) và là chủ thể của thị trường, tham gia hoạt động của thị trường và cạnh
tranh với nhau.
Thứ ba, việc vận hành kinh tế - xã hội được thực hiên trong sự kết hợp giữa
đường lối chủ trương, chính sách, kế hoạch, v.v.. Với việc sử dụng các loại tín hiệu
kinh tế mà thị trường cung cấp, việc lưu thơng tài ngun được điều tiết bởi thơng tin
thị trường và kế hoạch cân đối sản xuất.
Thứ tư, dựa trên quy luật thị trường thống nhất mà hình thành một trật tự thị
trường, sản xuất xã hội lưu thơng, phân phối và tiêu dùng với sự liên hệ và điều tiết
của đầu mối thị trường, hình thành mạng lưới sản xuất xã hội có trật tự.
Thứ năm, dựa vào đường lối, hiến pháp, pháp luật và quy luật vận hành của
kinh tế thị trường, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mơ cần thiết,
hữu hiệu; vận hành chính sách kinh tế, pháp luật kinh tế, chỉ đạo kế hoạch và phương
pháp hành chính cần thiết để hướng dẫn sự phát triển của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có vai trò to lớn trong sự phát triển kinh tế – xã hội, khơng vì
thế mà kinh tế thị trường là tất cả. Thực tế đổi mới hơn 20 năm qua cho thấy, bên
cạnh tác động tích cực là cơ bản,những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị
trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức,
lối sống. Khơng xem trọng cuộc đấu tranh nhằm hạn chế, khắc phục những tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường, khơng làm rõ giới hạn cần có của lĩnh vực có thể “thị
trường hố” cũng là chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Về nội dung, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực kinh tế và nội
dung khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, có
thể suy ra đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật; nền kinh tế ấy lấy các thành
phần kinh tế dựa trên sở hữu xã hội và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà
nước làm chủ đạo; lấy việc thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng
và văn minh làm mục tiêu. Muốn vậy nền kinh tế ấy phải đảm bảo những yêu
cầu sau đây:
Một là, có tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, ổn định .

15


Hai là, giải quyết vấn đề cơng bằng xã hội phù hợp từng bước với sự tăng
trưởng kinh tế.
Ba là, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dưới sự quản lý của một
nhà nước thực sự của dân.
Bốn là, lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định
cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu.
Năm là, làm cho kinh tế nhà nước phát triển trước hết là về chất để đóng vai
trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng.
Sáu là, xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong
nền kinh tế thị trường, thực hiện cơng bằng xã hội ngày càng tốt hơn. Trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, điều chủ yếu là tạo điều kiện cơng bằng
trong phát triển con người; vừa khơng bình qn, vừa phải chú trọng đến tầng lớp dễ
tổn thương, những vùng khó khăn.
Bảy là, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế làm chủ yếu.
Hơn nữa nền kinh tế đó phải góp phần phát huy mọi tiềm năng, mọi sức lực xã
hội; tạo điều kiện cho mỗi cá nhân làm giàu cho mình và cho tồn xã hội; chấp hành
mọi pháp luật, kinh doanh có văn hố; cạnh tranh và hợp tác một cách văn minh.
Qua nội dung trên cho thấy, tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển
kinh tế ở nước ta liên quan tới cả kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng, liên qua tới
cả quan hệ sản xuất lẫn lực lượng sản xuất
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong q trình phát triển kinh tế thị
trường ở nước ta, nhân tố nào có ý nghĩa quyết định? Trả lời vấn đề này có người cho
rằng nhà nước là yếu tố chủ đạo trong sự phát triển của kinh tế thị trường. Bởi vì
khơng thể lấy cái bộ phận (kinh tế nhà nước) của cái tồn thể (nền kinh tế thị trường
nhiều thành phần) để định hướng sự phát triển của cái tồn thể đó. Bằng hệ thống pháp
luật, chính sách, hệ thống động lực kích thích mà nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo

đối với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. Trong hệ thống cơng cụ để nhà nước
thực hiện vai trò chủ đạo đối với sự vận động của kinh tế, kinh tế nhà nước chỉ là một

16


cơng cụ, dù có thể được xem là cơng cụ qua trọng nhất. Do vậy khơng nên xem kinh tế
nhà nước là chủ đạo.
Trong giai đoạn ngày nay của thời đại, mọi nhà nước đều tham gia quản lý kinh
tế, định hướng phát triển kinh tế,cho nên nói vai trò chủ đạo của nhà nước là xố nhồ
ranh giới giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kinh tế thị trường tư
bản chủ nghĩa.
Thiết nghĩ, phải tìm yếu tố chủ đạo trong sự phát triển chung của nền kinh tế (có
vai trò dẫn dắt sự phát triển của các thành phần kinh tế, định hướng sự phát triển của
chúng, v.v..) ngay trên lĩnh vực kinh tế. Bởi vì, trong khi khơng phủ nhận vai trò tác
động mạnh mẽ của nhà nước tới kinh tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh nhà nước cũng
do sức mạnh của kinh tế quyết định. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, bộ phận chủ đạo
đó là kinh tế nhà nước, vấn đề căn bản nhất, chủ chốt nhất và khó khăn nhất là làm sao
kinh tế nhà nước vươn lên nắm được vai trò chủ đạo? Điều đó được đặt ra trong khi
kinh tế nhà nước hiện nay vẫn còn yếu kém ngay cả trên những phương diện chủ yếu
nhất cuả nó: năng suất, chất lượng, hiệu quả. Để góp phần khắc phục tình hình đó,
kinh tế nhà nước phải làm sao kết hợp được trong bản thân mình cái mạnh của tập thể,
của cộng đồng và cái mạnh của cá nhân xét cả với tư cách động lực lợi ích kinh tế, cả
với tư cách thực thể - con người kinh tế. Then chốt của vấn đề này là tìm một cơ chế
thích hợp vơi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có một đội ngũ
cán bộ có đủ đức đủ tài.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được hiểu là: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các
thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện
chức năng điều tiết và quả lý vĩ mơ; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới.

2.4. Thực trạng kinh tế thò trường đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở nước ta hiện nay
Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết
thúc bước chuyển đó. Do vậy còn đan xen những yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi.
Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là yếu tố sơ khai. Mặt
khác, trong xã hội chủ nghóa đã xuất hiện một số yếu tố đi q xa (vượt khỏi giới
hạn) khn khổ của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những nhân
17


tố của nền kinh tế maphia, tính trạng thương mại hoá giáo dục, nhân phẩm, v.v.. là
những ví dụ cho sự quá đà như vậy.
Trình độ thấp kém, chưa đạt tới trình độ hoàn chỉnh của kinh tế thị trường ở nước
ta hiện nay biểu hiện ở chỗ: giá cả hàng hoá dịch vụ bị bóp méo, độc quyền còn quá
lớn, tỷ giá chưa phải do trị thường quy định, tiền lương chưa có tính thị trường, quyền
kinh doanh trên thị trường còn hạn chế nhiều nên mất khả năng cạnh tranh. Các loại
thị trường còn thiếu và chưa đồng bộ, trước hết là thiếu thị trường lao động, thị trường
tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Các thể chế cho thị trường quá thiếu, không ít những
thể chế đã có chưa phù hợp, thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, sự can thiệp của
nhà nước vào thị trường chưa thật phù hợp thậm chí trái với yêu cầu của thị trường, có
tình trạng liên kết giữa bộ phận thoái hoá trong bộ máy nhà nước với những yếu tố tiêu
cực của thị trường gây ra tham nhũng, nợ nần chồng chất.

18


Chương 3
NHỮNG MÂU THUẪN PHÁT SINH TRONG QUÁ
TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

3.1. Một số vấn đề lý luận chung về quan hệ
giữa kinh tế với chính trò
Theo các nhà kinh điển chủ nghóa Mác – Lênin thì kinh
tế quyết đònh chính trò, chính trò là sự biểu hiện tập trung
của kinh tế. Trong lòch sử phát triển xã hội loài người,
không phải bao giờ cũng có vấn đề chính trò. Từ khi xã
hội xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp và nhà nước
thì vấn đề chính trò mới hình thành. Vấn đề chính trò là vấn
đề thuộc đấu tranh giai cấp và nhà nước. Trung tâm của
chính trò là đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp, các lực
lượng xã hội nhằm giành và giữ chính quyền nhà nước
và sử dụng công cụ đó làm công cụ để xây dựng và
bảo vệ chế độ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp
cầm quyền. Bản thân chính trò ra đời hoàn toàn là do kinh
tế quyết đònh. Chính trò không phải là mục đích, mà chỉ là
phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.
Quyền lực chính trò là công cụ mạnh mẽ nhất để bảo
vệ chế độ xã hội. Sự thống trò về chính trò của một giai
cấp nhất đònh là điều kiện đảm bảo cho giai cấp đó thực
hiện được sự thống trò về kinh tế. Đấu tranh giai cấp, về
thực chất là đấu tranh vì lợi ích kinh tế, được thông qua đấu
19


tranh chính trò. Vấn đề kinh tế không thể tách rời với chính
trò mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường
chính trò nhất đònh. Giai cấp nào cầm quyền cũng hướng
kinh tế phát triển theo lập trường chính trò riêng của giai
cấp đó nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội nhất
đònh. Lập trường chính trò đúng hay sai sẽ thúc đẩy hoặc

kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Khi thể chế chính
trò không phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì kinh
tế tất yếu sẽ mở đường đi. Khi đó, việc thay đổi thể chế
chính trò cho phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế
là điều kiện quyết đònh để thúc đẩy cho kinh tế phát
triển. Như vậy, chúng ta có thể khằng đònh rằng kinh tế
và chính trò là thống nhất và biện chứng với nhau trên
nền tảng quyết đònh là kinh tế. Đây là cơ sở
pháp

phương

luận quan trọng trong việc nhận thức xã hội nói

chung, nhận thức công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói
riêng.
Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã
khẳng đònh: “Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trò, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp
ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống,
việc làm và nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghóa xã hội, coi đó là điều kiện
quan trọng để tiến hành đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trò, phát huy ngày càng tốt
quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên
các lónh vực chính trò, kinh tế, văn hóa, xã hội. Vì chính trò
đụng chạm đến tất cả các mối quan hệ đặc biệt nhạy
cảm và phức tạo trong xã hội, nên việc đổi mới hệ
thống chính trò nhất thiết phải trên cơ sở nghiên cứu và
chuẩn bò rất nghiêm túc, không cho phép gây mất ổn

đònh chính trò dẫn đến rối loạn. Nhưng không vì thế mà
20


tiến hành

chậm trễ đổi mới chính trò, nhất là về tổ

chức bộ máy và cán bộ, các mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, bởi đó là
điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội và thực
hiện dân chủ”. Điều đó cho thấy Đảng ta đã không tách
rời đổi mới kinh tế và đồng thời đổi mới chính trò. Đảng
ta khẳng đònh rằng phải tập trung sức làm tốt đổi mới
kinh tế và đồng thời với đổi mới kinh tế phải tiến hành
từng bước đổi mới chính trò, nhưng phải thận trọng không
gây mất ổn đònh về chính trò.
Tư tưởng đã được tiếp tục phát triển một cách rõ
ràng hơn ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng ta. Khi tổng kết các bài học của 10 năm đổi mới,
Đảng ta khẳng đònh phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
đổi mới kinh tế với đổi mới chính trò. Đây là một bài học
khái quát mới, hoàn toàn khoa học. Nó vừa phù hợp với
lý luận của chủ nghóa Mác – Lênin vừa phù hợp với thực
tiễn công cuộc đổi mới ở nước ta.
Trong khi đề ra đổi mới chính trò, Đảng ta luôn nhấn
mạnh phải ổn đònh chính trò, giữ vững và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như một nghòch lý
nhưng hoàn toàn có lý và khoa học. Ổn đònh về chính trò,
nói cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng

cường quyền lực chính trò của mình, Nhà nước của giai cấp
đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm
minh, chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Đối
với nước ta hiện nay, ổn đònh về chính trò thực chất là giữ
vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng
cường vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghóa, bảo vệ
và xây dựng thành công chủ nghóa xã hội.

21


Thực tiễn thế giới cho thấy, ổn đònh chính trò là điều
kiện hết sức cơ bản để phát triển kinh tế. Nó tạo ra môi
trường để thu hút nguồn đầu tư trong nước và trên thế
giới, tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh. Những
thành tựu trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua ở nước ta
cũng khẳng đònh điều đó. Những thành tựu đó không thể
tách rời việc chúng ta giữ vững ổn đònh về chính trò.
Ổn đònh về chính trò lại không thể tách rời đổi mới
về chính trò. Nhưng đổi mới chính trò không phải đổi mới
vô nguyên tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn đònh về
chính trò, giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, vai trò tổ chức quản lý của Nhà nước xã hội chủ
nghóa. Đổi mới chính trò phải gắn liền với đổi mới về kinh
tế, phù hợp với yêu cầu về phát triển kinh tế thì mới có
thể tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò tổ
chức quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghóa, và nhờ
đó mới giữ vững ổn đònh về chính trò. Song đổi mới về
kinh tế cũng không phải là đổi mới một cách tùy tiện
mà phải theo một đònh hướng nhất đònh. Đó là chuyển

nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thò trường có sự quản
lý của Nhà nước theo đònh hướng xã hội chủ nghóa hay
nói ngắn gọn là kinh tế thò trường theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa. Chuyển sang nền kinh tế thò trường theo đònh
hướng xã hội chủ nghóa là nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, và đó
cũng là cơ sở để giữ vững ổn đònh về chính trò.
Tóm lại, đổi mới và ổn đònh về chín trò là hai mặt đối
lập nhưng thống nhất biện chứng với nhau. Có ổn đònh thì
mới đổi mới và đổi mới là điều kiện để ổn đònh. Hai

22


mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ
với đổi mới kinh tế, trên nền tảng của đổi mới kinh tế.
Như vậy, chúng ta thấy trong quá trình đổi mới ở nước
ta, đổi mới kinh tế và đổi mới chính trò luôn gắn bó chặt
chẽ với nhau, thống nhất với nhau, trong đó đổi mới kinh
tế là trọng tâm, đổi mới chính trò phải tiến hành từng
bước phù hợp với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu của
đổi mới kinh tế.
Điều khẳng đònh đó là sự khái quát kinh nghiệm của
hơn 20 năm đổi mới vừa qua, là kết quả của việc vận
dụng sáng tạo chủ nghóa Mác – Lênin vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam. Khái quát đó hoàn toàn khoa học và có
giá trò đònh hướng cho giai đoạn phát triển tiếp theo – giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3.2. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan

hệ sản xuất
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thò
trường có sự quản lý của Nhà nước, theo đònh hướng xã
hội chủ nghóa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lựong sản
xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức
tạp. Mâu thuẫn giữa hai lực lượng này và những biểu hiện
của nó xét trên phương diện triết học Mác – Lênin, theo
đó lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay
đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ
nhất đònh thì quan hệ sản xuất sẽ không còn phù hợp
nữa và trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Để mở đường cho quan hệ sản xuất mới phù
hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, chính
quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình
23


độ của lực lượng sản xuất, đó là quy luật chung cho sự
phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến
với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt,
quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó
bằng cách nào? Đó chính là cuộc cách mạng xã hội,
chuyển đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế
ở nước ta là một ví dụ. Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng, thể hiện tính chất cách mạng của công
cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng
nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ
trương, biện pháp vừa mang tính cách mạng, tính khoa học
để xây dựng xã hội. Nói đến công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước chính là nói đến nền sản xuất tiên tiến
và đó chính là lực lượng sản xuất tiên tiến, và đó chính
là lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nói đến khoa
học, đến sự anh minh, trí tuệ là nói đến một phương thức
tối ưu để thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nông nghiệp
lạc hậu, nhằm tạo điều kiện và cơ sở vật chất cho chủ
nghóa xã hội được xây dựng và phát triển. Không thể ăn
đói mặc rách với cái cuốc trên vai cộng thêm tấm lòng
cộng sản để kiến thiết chủ nghóa xã hội, chuyển sang
nền kinh tế thò trường. Khẳng đònh cái mới, đúng đắn tự
bản thân nó đã bao gồm cả ý nghóa phủ đònh gạt bỏ cả
quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây
dựng chủ nghóa xã hội ở nước ta. Trước đây,

chúng ta

thiếu quan tâm đúng mức tầng lớp trí thức và khoa học
trong môi trường tương quan với đội ngũ những người lao
động khác. Do vậy, hậu quả tất yếu đã xảy ra là khoa
24


học ở nước ta chậm hoăc ít có điều kiện môi trường phát
triển, đất nước chưa thoát khỏi nền sản xuất nhỏ, nông
nghiệp lạc hậu, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước diễn ra chậm chạp.

3.3. Mâu thuẫn giữa hình thái sỡ hữu trước đây
và trong kinh tế thò trường
Trước đây, người ta quan niệm những hình thức sở hữu
trong chủ nghóa xã hội là: sở hữu xã hội chủ nghóa tồn
tại dưới hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể.
Sự tồn tại của hai hình thức đó là tất yếu khách quan bởi
những điều kiện lòch sử khi tiến hành cách mạng xã hội
chủ nghóa và xây dựng chủ nghóa xã hội quyết đònh. Sau
khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân đứng trước
hai hình thức sở hữu tư nhân khác nhau: sở hữu tư nhân tư
bản chủ nghóa và sở hữu tư nhân của những người sản
xuất nhỏ. Thực tế đòi hỏi giai cấp công nhân phải có
thái độ và cách giải quyết khác nhau. Đối với hình thức
sở hữu tư nhân tư bản chủ nghóa bằng cách tước đoạt
hoặc chuộc lại để chuyển thẳng lên sở hữu hàng hóa
nhỏ thì không thể dùng những biện pháp như trên, mà
phải kiên trì giáo dục, thuyết phục, tổ chức họ trên cơ sở
tự nguyện chuyển lên sở hữu tập thể bằng con đường
hợp tác hóa hai hình thức.
Hơn 20 năm đổi mới đất nước theo đònh hướng xã hội
chủ nghóa ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn của
đường lối đổi mới, của chính sách đa dạng hóa các hình
thức sở hữu do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo toàn
dân thực hiện. Thực tiễn đã cho thấy một nền kinh tế
nhiều thành phần đương nhiên phải bao gồm nhiều hình
thức sở hữu, chứ không phải chỉ có hai hình thức sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể như quan niệm trước đây.
25



×