Tải bản đầy đủ (.docx) (205 trang)

Pháp luật về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.29 KB, 205 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VINH DIỆN

PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VINH DIỆN

PHÁP LUẬT
VỀ BỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 9380107



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
1. PGS. TS Nguyễn Quang Tuyến
2. TS Trần Quang Huy

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận án này.
Tác giả luận án

Nguyễn Vinh Diện


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất


HGĐ

: Hộ gia đình

LĐĐ

: Luật Đất đai

NN

: Nhà nước

NNTHĐ

: Nhà nước thu hồi đất

SDĐ

: Sử dụng đất

TAND

: Tòa án nhân dân

TĐC

: Tái định cư

THĐ


: Thu hồi đất

UBND

: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT CỦA LUẬN ÁN.......................................................................................... 7
1.1. Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến
đề tài luận án...................................................................................................... 7
1.2. Đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài
luận án và những vấn đề trọng tâm cần tiếp tục nghiên cứu............................. 27
Kết luận Chương 1...................................................................................................... 31
Chƣơng LÝ LUẬN VỀ ỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ỒI THƢỜNG KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT Ở
VIỆT NAM................................................................................................................. 33
2.1. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.................................................. 33
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thu hồi đất.............................................................. 33
2.1.2. Khái niệm, đặc điểm và mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất.............................................................................................................. 34
2.1.3. Thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất và vấn đề giải quyết các lợi ích phát sinh
khi Nhà nước thu hồi đất.................................................................................. 45
2.1.4. Cơ sở lý luận của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất............................. 56
2.2. Lý luận pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất................................... 65
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất..................................................................................................................... 65
2.2.2. Cơ cấu điều chỉnh pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất.........67

2.2.3. Tiêu chí đánh giá pháp luật bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.....................69
2.2.4. Các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất...................................................................... 74
Kết luận Chương 2...................................................................................................... 78
Chƣơng 3 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ỒI THƢỜNG VỀ ĐẤT KHI NHÀ
NƢỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM................................................................... 80
3.1. Các quy định chung về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và thực
tiễn áp dụng...................................................................................................... 80
3.1.1. Phạm vi và đối tượng được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất...........80
3.1.2. Căn cứ thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.................................................................... 81
3.1.3 Nguyên tắc bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất..................................... 85


3.1.4. Điều kiện để được bồi thường về đất và các trường hợp không được bồi
thường về đất.................................................................................................... 95
3.2. Các quy định cụ thể về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và thực
tiễn áp dụng.................................................................................................... 103
3.2.1. Bồi thường đối với đất nông nghiệp................................................................ 103
3.2.2. Bồi thường đối với đất phi nông nghiệp.......................................................................... 106
3.2.3. Bồi thường đối với một số trường hợp khác.................................................... 118
3.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế của pháp luật và việc thực thi pháp
luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất............................................. 128
3.3.1. Nguyên nhân khách quan................................................................................. 128
3.3.2. Nguyên nhân chủ quan.................................................................................... 130
Kết luận Chương 3..................................................................................................... 131
Chƣơng 4 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT BỒI THƢỜNG VỀ ĐẤT KHI NHÀ NƢỚC
THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM............................................................................... 133
4.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất...133

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất......137
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bồi thường về đất khi Nhà
nước thu hồi đất.............................................................................................. 163
Kết luận Chương 4..................................................................................................... 173
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 175
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

nước ta, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là một trong những chế định
cơ bản của pháp luật đất đai. Chế định pháp luật này ra đời với mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất khi bị Nhà nước thu hồi đất, tạo cơ
sở pháp lý cho việc thu hồi đất cho các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh
tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tuy nhiên, trên thực tế việc áp dụng chế
định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất gặp rất nhiều khó khăn, thách thức; bởi lẽ,
nó “đụng chạm” đến lợi ích thiết thực của người dân nói chung và của người sử dụng
đất nói riêng. Không phải ở bất cứ lúc nào, ở bất cứ đâu, việc thi hành pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng xử lý và giải quyết hài hoà lợi ích của Nhà
nước, nhà đầu tư và lợi ích của người bị thu hồi đất. Sự không đồng thuận của người
bị thu hồi đất đối với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản là các quy định
của pháp luật hiện hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chưa phù hợp với đòi
hỏi của thực tiễn cho dù chế định này thường xuyên được sửa đổi, bổ sung.
Luật Đất đai năm 2013 được ban hành trên cơ sở tổng kết, đánh giá các quy định
phù hợp, chưa phù hợp của Luật Đất đai năm 2003 để có những sửa đổi, bổ sung cần
thiết. Tuy nhiên, đến nay sau một thời gian thi hành, Luật Đất đai năm 2013 đã bộc lộ
những bất cập nhất định, trong đó có các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi

đất. Thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn là vấn đề nóng. Tranh chấp,
khiếu kiện phát sinh từ thực tiễn áp dụng chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
chiếm số lượng lớn nhất (tỷ lệ 70%) trong các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai

[106]. Các khiếu kiện về thu hồi đất và bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh
ở các địa phương trong cả nước. Có không ít trường hợp, người có đất bị thu hồi
không tin tưởng vào chính sách bồi thường mà địa phương áp dụng, không tin tưởng
việc giải quyết khiếu nại ở cơ sở dẫn đến khiếu nại đông người đến các cơ quan trung
ương. Nội dung bất đồng giữa người bị thu hồi đất và các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không nằm ngoài những vấn đề cơ bản của chế định bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất như căn cứ thu hồi đất, giá đất bồi thường, loại đất được bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư ... Trong những bất đồng, khiếu kiện này thì bồi thường về đất luôn là
vấn đề trung tâm, nhạy cảm và phức tạp nhất. Bởi vì, mọi quyền lợi của người bị thu
hồi đất luôn gắn liền với đất, xuất phát từ đất và là căn cứ của những quyền lợi bồi


2
thường, hỗ trợ khác. Mặt khác, đất đai là tài sản có giá trị lớn, là không gian sống, là
tư liệu sản xuất và gắn liền với đời sống tâm linh, tín ngưỡng nên đa phần người sử
dụng đất không muốn bị thu hồi dẫn đến cuộc sống bị đảo lộn, quyền lợi bị ảnh
hưởng, từ đó nảy sinh tư tưởng chống đối việc thu hồi đất. Hơn nữa, việc sử dụng đất
của người dân thường xuyên biến động; trong khi đó việc quản lý nhà nước về đất đai
chưa chặt chẽ, cơ sở dữ liệu đất đai, đăng ký đất đai và tài sản gắn liền với đất còn
nhiều hạn chế cũng là nguyên nhân của những khiếu kiện kéo dài, phức tạp. Dường
như có thể nói rằng ở đâu có thu hồi đất thì ở đó có khiếu kiện về đất và liên quan đến
đất. Những khiếu kiện này thể hiện các quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp
ứng được đòi hỏi của thực tiễn, chưa bảo hộ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị thu hồi đất, cản trở phát triển kinh tế - xã hội, tiềm ẩn nguy cơ gây mất
ổn định chính trị - xã hội.
Rõ ràng những sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai năm 2013 vẫn bộc lộ nhiều

bất cập và chưa phát huy được vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền lợi chính
đáng của người có đất bị thu hồi, giải quyết kém hiệu quả bài toán về sự đảm bảo hài
hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người bị thu hồi đất, chưa “hạ nhiệt” các
khiếu kiện và chưa phát huy hết tác dụng tích cực trong việc bảo đảm sử dụng nguồn
lực đất đai và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội.
Những vấn đề trên đây đặt ra nhu cầu cấp thiết phải tiếp tục nghiên cứu một
cách hệ thống, đầy đủ về phương diện lý luận và thực tiễn pháp luật về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt là pháp luật bồi thường về đất để đánh giá một cách
toàn diện, tìm ra nguyên nhân của những tồn tại để có những giải pháp hữu hiệu góp
phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu
quả thực thi trên thực tế. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu đề tài
“Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” làm luận án tiến sĩ luật học.
Thành công của luận án góp phần nâng cao hiệu quả thực thi Luật Đất đai năm 2013
nói chung và chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam nói riêng.
2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận về bồi thường
khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; phân
tích thực trạng pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để nhận diện những
tồn tại, vướng mắc; trên cơ sở đó, luận án đề xuất những định hướng, giải pháp hoàn


3
thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi
ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản như sau:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,

bao gồm quan điểm, đường lối của Đảng về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai và quyền tài sản của người sử dụng đất đối với quyền
sử dụng đất; khái niệm, đặc điểm; mục đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất; phân tích thiệt hại phát sinh khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước
thu hồi đất, bao gồm một số khái niệm của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất; cơ cấu điều chỉnh của pháp luật và các yếu tố tác động đến việc xây dựng
pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghiên cứu nội dung của pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
và đánh giá thực trạng thi hành chế định pháp luật này ở Việt Nam;
Đưa ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất và nâng cao hiệu quả thực thi ở Việt Nam.
3.Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau
đây:
Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay;
Các quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi
hành về bồi thường;
Các quy định của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đặt trong mối liên hệ, so sánh với Luật Đất
đai năm 2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan;


4
Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất của một số nước trên
thế giới dưới góc độ luật học so sánh;
- Thực tiễn thi hành pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở

Việt
Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam là đề tài có phạm
vi nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của một bản luận án tiến sĩ luật học, tác giả giới hạn phạm vi nghiên
cứu ở một số nội dung cụ thể sau:
Giới hạn về nội dung: i) Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, công cộng của Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành; ii) Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát
triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng có nội hàm bao gồm các nội dung
bồi thường về đất, bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; hỗ trợ, tái định cư
v.v. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận án tiến sĩ này, tác giả đi sâu nghiên cứu,
đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất mà không
đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất; vấn đề hỗ trợ, tái
định cư v.v.
Giới hạn về không gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật bồi
thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất trong phạm vi cả nước.
Giới hạn về thời gian: Luận án giới hạn nghiên cứu pháp luật bồi thường về
đất khi Nhà nước thu hồi đất từ năm 2003 (năm ban hành Luật Đất đai 2003 đến nay).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình làm luận án, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ
bản sau đây:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin trong việc nghiên cứu nguồn gốc, bản chất của sự vật,
hiện tượng; nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đặt
trong mối quan hệ tương tác với các sự vật, hiện tượng khác;
- Ngoài ra, luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:



5
i)
Phương pháp so sánh, phương pháp đánh giá, phương pháp lập luận logic
v.v được sử dụng tại Chương 1 khi nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ
sở lý thuyết của luận án;
ii)
Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp đối chiếu v.v
được sử dụng tại Chương 2 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về bồi thường khi
Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt
Nam;
iii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
phương pháp tổng hợp v.v được sử dụng tại Chương 3 khi nghiên cứu thực trạng pháp
luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam;
iv) Phương pháp bình luận, phương pháp quy nạp, phương pháp diễn giải v.v
được sử dụng tại Chương 4 khi nghiên cứu định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật
bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất và nâng cao hiệu thực thi ở Việt Nam.

5.Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về phương diện lý luận: Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận
liên quan đến thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Trên
cơ sở đó, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
ở Việt Nam.
Về phương diện thực tiễn: Những bất cập được chỉ ra trong các quy định hiện
hành về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và những kiến nghị của luận án có thể
được xem xét, tham khảo trong việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật Đất đai năm
2013 trong thời gian tới; đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
người bị thu hồi đất. Luận án là tài liệu tham khảo bổ ích không chỉ đối với các nhà

lập pháp, đối với đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đất đai mà còn là tài liệu tham
khảo có giá trị cho các cơ sở đào tạo luật học ở nước ta.
6.Những điểm mới của luận án
Luận án có những điểm mới sau:
Hệ thống hóa, bổ sung, phát triển và làm sâu sắc hơn cơ sở lý luận của bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
ở Việt Nam.


6
Làm rõ khái niệm, đặc điểm của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; mục
đích, ý nghĩa của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; xác định những thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất; các lợi ích và cơ sở của việc giải quyết các lợi ích phát sinh khi
Nhà nước thu hồi đất; các yếu tố tác động đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Đánh giá thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở
nước ta hiện nay, từ đó chỉ ra những bất cập của pháp luật hiện hành cũng như thực
trạng áp dụng; nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.
Đưa ra định hướng và các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở nước
ta.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời cam đoan, danh mục các từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo, luận án được bố cục với 04 chương cụ thể như sau:
- Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án.
Chương 2. Lý luận về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất và pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.
- Chương 3. Thực trạng pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi
đất
ở Việt Nam.

Chương 4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam.


7
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN

1.1. Những nội dung cơ bản của các công trình nghiên cứu có liên quan
trực tiếp đến đề tài luận án


nước ta, pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất (NNTHĐ) luôn

nhận được sự quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu của giới luật học ở nhiều cấp độ khác nhau.
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài được thực hiện ở nhiều khía cạnh khác
nhau, tập trung ở một số nhóm vấn đề chủ yếu sau đây: i) Nhóm công trình nghiên cứu
những vấn đề lý luận về bồi thường khi NNTHĐ; ii) Nhóm công trình nghiên cứu các
quy định của pháp luật và thực tiễn về bồi thường khi NNTHĐ; iii) Nhóm công trình
nghiên cứu về nâng cao hiệu quả thực thi và hoàn thiện pháp luật về bồi thường khi

NNTHĐ. Việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất”
có liên quan trực tiếp đến các nhóm vấn đề trên. Thông qua việc tìm hiểu các công
trình có liên quan mật thiết đến đề tài, nghiên cứu sinh nhận thấy những nội dung trên
đã được nhiều tác giả đề cập, nghiên cứu ở những phương diện khác nhau. Do đó, để
thực hiện đề tài “Pháp luật về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất” thì việc nghiên
cứu, đánh giá kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học liên quan đến đề tài
được công bố là hết sức cần thiết.
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về bồi thường khi

Nhà nước thu hồi đất
Thứ nhất, nhóm công trình nghiên cứu về các khái niệm liên quan đến bồi
thường khi NNTHĐ, có một số công trình tiêu biểu sau đây:
Luận án tiến sĩ của Phạm Thu Thủy: “Pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ nông
nghiệp ở Việt Nam”, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thảo My:
“Thực trạng pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ trên địa bàn huyện Lâm Bình, tỉnh
Tuyên Quang”, bảo vệ năm 2014; Luận văn thạc sĩ của Trần Cao Hải Yến: “Thực thi
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi NNTHĐ trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay”,
bảo vệ năm 2014 v.v. Các luận án, luận văn trên đây đã phân tích, luận giải khái niệm đất
nông nghiệp, khái niệm thu hồi đất (THĐ); các khái niệm trưng dụng, trưng mua, trưng
thu đất; khái niệm bồi thường, khái niệm hỗ trợ khi NNTHĐ; khái niệm tái định cư
(TĐC); phân biệt, so sánh giữa bồi thường khi NNTHĐ với bồi thường thiệt hại trong


8
dân sự, lao động, bồi thường trách nhiệm Nhà nước (NN); phân biệt giữa THĐ với
trưng dụng, trưng thu và trưng mua đất.
Bài viết “Về khái niệm bồi thường khi NNTHĐ trong Luật Đất đai (LĐĐ) năm
2003” của tác giả Nguyễn Quang Tuyến - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 7/2008; Bài
viết “Vấn đề lý luận xung quanh khái niệm bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Nguyễn
Quang Tuyến - Tạp chí Luật học, số 01/2009. Các bài viết đã phân tích một số vấn đề lý
luận liên quan đến khái niệm bồi thường khi NNTHĐ như cơ sở lý luận xây dựng khái
niệm bồi thường khi NNTHĐ, lý luận về khái niệm bồi thường khi NNTHĐ theo LĐĐ
năm 2003. Tác giả cũng đi sâu phân tích, so sánh khái niệm bồi thường khi NNTHĐ và
khái niệm đền bù; phân biệt giữa bồi thường thiệt hại khi NNTHĐ với bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng trong Bộ luật dân sự (BLDS), với trách nhiệm bồi thường của NN,
với bồi thường oan sai trong tố tụng hình sự, trong pháp luật lao động.

Bài viết “Bảo đảm tài sản là quyền sử dụng đất (SDĐ) của người có đất bị thu
hồi - nhìn từ quy định trong các bản hiến pháp và pháp luật đất đai” của tác giả Lê

Ngọc Thạnh - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2013. Bài viết đưa ra khái niệm
THĐ. Theo tác giả, THĐ là việc NN lấy lại quyền SDĐ đã giao cho các tổ chức, cá
nhân sử dụng hoặc lấy lại quyền SDĐ do người khác lấn chiếm của NN.
Thứ hai, nhóm công trình nghiên cứu nền tảng lý luận của pháp luật về bồi
thường khi NNTHĐ; những yếu tố chi phối đến pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ;
giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người bị THĐ.
Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về các vấn đề này như sau:
Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Lan: “Quan hệ lợi ích kinh tế trong THĐ
của nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”, bảo vệ
năm 2012. Luận án cho rằng, trong quá trình THĐ của nông dân để xây dựng các khu
công nghiệp còn nhiều bất cập, như thiếu đồng bộ trong quy hoạch, chính sách THĐ
chưa hợp lý, chưa giải quyết hợp lý các vấn đề về lợi ích kinh tế của nông dân có đất
bị thu hồi. Trong đó nổi lên tình trạng bất bình trong nông dân về việc chưa được giải
quyết hợp lý các quan hệ lợi ích trong quá trình THĐ, từ đó tích tụ mâu thuẫn trong
việc giải quyết lợi ích này, tạo ra xung đột xã hội, gây ra biến động xấu về chính trị.
Tác giả chỉ ra mối quan hệ lợi ích bao gồm lợi ích của xã hội mà NN là đại diện, lợi
ích của doanh nghiệp với tư cách là nhà đầu tư và lợi ích của nông dân bị THĐ. Tác
giả đã nghiên cứu các đặc điểm của quan hệ lợi ích và các nhân tố ảnh hưởng đến
quan hệ lợi ích. Các lợi ích có những sự thống nhất chung mà dự án tạo ra nhưng


9
cũng còn nhiều mâu thuẫn, đó là THĐ làm ảnh hưởng đến công việc và cuộc sống
của người bị THĐ; nông dân muốn bồi thường cao còn doanh nghiệp thì ngược lại;
NN chưa điều tiết được lợi ích phát sinh khi bồi thường thấp nhưng nhà ở của dự án
được bán giá cao… Các lợi ích này biện chứng thống nhất nhưng cũng mâu thuẫn. Vì
thế, phải giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích này.
Các bài viết đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Thi hành pháp luật về đất đai ở
Việt Nam hiện nay - thực trạng và những giải pháp hoàn thiện” do Viện Nghiên cứu
Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg (Cộng hòa Liên bang Đức) tổ chức - Nhà xuất

bản Đại học Kinh tế Quốc dân (2012), bao gồm:
Một là, bài viết “Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện chính sách,
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ - Thực trạng và kiến nghị” của tác
giả Nguyễn Quang Tuyến. Trên cơ sở nghiên cứu LĐĐ năm 2003, bài viết phân tích,
nhận diện những điều kiện cơ bản cho việc thực hiện chính sách, pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, đó là: Quan điểm, đường lối của Đảng về thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ; chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; trình
độ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng; cơ
chế quản lý NN đối với đất đai; ý thức pháp luật, trình độ dân trí; yếu tố lợi ích nhóm.
Hai là, bài viết “Phương án giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích giữa NN,
người bị THĐ và nhà đầu tư trong các dự án THĐ để phát triển kinh tế” của tác giả Trần
Quang Huy. Bài viết phân tích mối quan hệ về lợi ích giữa NN, nhà đầu tư với người bị
THĐ trong trường hợp THĐ cho mục đích phát triển kinh tế, bao gồm lợi ích mà các bên
được nhận, được hưởng lợi từ việc THĐ. Tác giả chỉ ra thực trạng các quy định về bồi
thường, hỗ trợ chưa đáp ứng đúng yêu cầu về lợi ích giữa ba bên. Trong quyền lợi chung
này, người bị THĐ vẫn là người bị thiệt thòi nhất, kế đến là lợi ích của NN. Trong khi đó
“địa tô chênh lệch” thì doanh nghiệp là người được hưởng lợi nhiều nhất khi NNTHĐ để
thực hiện dự án đầu tư. Để giải quyết hài hòa mối quan hệ về các lợi ích này, cần có các
phương án như: Xem xét lại căn cứ và cơ chế áp dụng giá đất vì giá đất xác định bồi
thường còn thấp; giải quyết tốt vấn đề định canh, định cư, hỗ trợ cho người bị THĐ;
NNTHĐ và giao cho trung tâm phát triển quỹ đất phân phối lại; người bị THĐ được bồi
thường bằng đất hoặc giá trị tương ứng tại thời điểm có quyết định thu hồi; hạn chế
trường hợp THĐ vì mục đích phát triển kinh tế, chỉ thu hồi trong một số trường hợp nhất
định, còn lại áp dụng cơ chế thỏa thuận giữa doanh nghiệp với người SDĐ.

Cuốn sách “Land in transition: Reform and Poverty in Rural Vietnam” (Đất
đai trong thời kỳ chuyển đổi: Cải cách và Nghèo đói ở Nông thôn Việt Nam) của


10

Martin Ravallion và Dominique van de Walle (Ngân hàng Thế giới), Nhà xuất bản
Văn hóa Thông tin (2008). Các tác giả nghiên cứu những thay đổi về thể chế và công
tác giao đất trong quá trình chuyển đổi ruộng đất ở Việt Nam đã tác động đến mức
sống của người nghèo, đặc biệt là người nghèo ở nông thôn. Các tác giả cho rằng đất
đai ở Việt Nam là tài sản lớn của HGĐ, là một phương tiện quan trọng để tạo ra sinh
kế, tích lũy của cải và chuyển giao giữa các thế hệ. Vì thế, việc thu hồi đất nông
nghiệp đã tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân.
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu về giá đất liên quan đến bồi thường khi
NNTHĐ.
Bài viết “Định giá đất và phân cấp trong việc định giá đất; cập nhật, quản lý hệ
thống thông tin về giá đất, đáp ứng yêu cầu quản lý của NN và góp phần phát triển thị
trường bất động sản ở nước ta” của tác giả Trần Kim Chung đăng trong cuốn Kỷ yếu hội
thảo “Thi hành pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và những giải pháp
hoàn thiện” do Viện Nghiên cứu Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg (Cộng hoà Liên
bang Đức) tổ chức - Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân (2012). Bài viết phân tích
các quy định về giá đất theo LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, bao
gồm đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp (đất ở tại nông thôn, đất ở đô thị) và đất sản
xuất - kinh doanh phi nông nghiệp, chỉ ra thực trạng giá đất ở nhiều nơi được định giá chỉ
bằng 30-60% giá thị trường, phần lớn các tỉnh quy định giá đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp có mức bằng khoảng 55 - 80% mức giá đất tại cùng vị trí. Tác giả chỉ ra
nguyên nhân của thực trạng này là: Người SDĐ chỉ có quyền SDĐ và vì quyền SDĐ chỉ
là một phần giá trị của đất nên giá trị quyền SDĐ không phản ánh hết các thuộc tính của
giá đất; chưa cập nhật đúng và đầy đủ các biến động về giá đất trên địa bàn; không kiểm
soát đầy đủ giá trong các giao dịch về đất đai, bất động sản.
Bài viết “Về giá đất làm căn cứ tính bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Phạm
Thu Thủy - Tạp chí Luật học, số 9/2012. Bài viết chỉ ra những hạn chế trong các quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định về giá đất làm căn cứ tính bồi
thường, như: Giá đất tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có
quyết định thu hồi, không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng, đặc
biệt là trong trường hợp THĐ nông nghiệp để chuyển sang mục đích phi nông nghiệp;

thực tiễn giá đất bồi thường thấp hơn nhiều so với giá thị trường trong các giao dịch dân
sự về đất đai. Tác giả chỉ ra các nguyên nhân như thiếu quy trình cụ thể về định giá đất;
trình độ, năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ chuyên trách về định giá còn nhiều
hạn chế ... Từ đó, tác giả đưa ra kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định về giá đất


11
làm căn cứ bồi thường, như cần xem xét lại căn cứ và cơ chế áp dụng giá đất, đào tạo
đội ngũ cán bộ định giá đất chuyên nghiệp ...
Bài viết “Những nguyên tắc xác định giá trị bồi thường quyền SDĐ khi
NNTHĐ” của tác giả Trần Minh Đạo - Tạp chí Kinh tế & Phát triển, số 01/2013. Từ
việc phân tích giá đất là một trong những nguyên nhân dẫn đến 70 - 80 % khiếu nại
hiện nay liên quan đến đất đai, phân tích các đặc trưng về quyền sở hữu và quyền
SDĐ ở nước ta, tác giả cho rằng khi THĐ vì mục đích công ích hoặc dự án kinh
doanh thương mại phải đảm bảo các nguyên tắc: i) Việc đền bù phải trên cơ sở tương
đương bảo tồn mức tài sản, nguồn sinh kế của người bị THĐ; ii) Phải xác định, quan
niệm giá đất bị thu hồi trong nhiều trường hợp chỉ là một bộ phận trong tổng chi phí
đền bù cho người có đất bị thu hồi; iii) Phải giải quyết việc THĐ gắn liền với phân
phối địa tô phát sinh; iv) Phát triển, quản lý tốt thị trường bất động sản sẽ giúp xác
định giá đất được chính xác, từ đó xác định giá đất khi đền bù cũng chính xác hơn.
Cuốn sách “Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải phóng mặt bằng
ở Việt Nam” do tác giả Doãn Hồng Nhung chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp 2014.
Trên cơ sở phân tích LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, cuốn sách
phân tích một số vấn đề về giá đất, như khái niệm giá đất, bản chất của giá đất, các
yếu tố ảnh hưởng đến giá đất; phân tích các quy định và thực trạng định giá đất nói
chung, định giá đất trong bồi thường khi NNTHĐ nói riêng. Từ đó, tác giả chỉ ra
những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật về giá đất phục vụ bồi
thường như sự chênh lệch quá lớn giữa giá đất tính bồi thường và giá thị trường, các
phương pháp xác định giá đất chưa hợp lý, bảng giá đất do Ủy ban nhân dân (UBND)
cấp tỉnh ban hành sử dụng cho nhiều mục đích là không hợp lý.

Bài viết “Về giá đất trong LĐĐ năm 2013” của tác giả Nguyễn Thị Dung Tạp chí Luật học, số 11/2014. Bài viết phân tích khái niệm giá đất, các quy định về
giá đất trong LĐĐ năm 2013, như nguyên tắc xác định giá đất, phương pháp xác định
giá đất, khung giá và bảng giá đất, giá đất cụ thể, đấu giá quyền SDĐ. Theo tác giả,
giá đất là một trong những điểm mấu chốt trong các quy định, chính sách bồi thường
và là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại phức tạp.
Bài viết “Xác định giá đất để tính bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Phan
Trung Hiền - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 1+2 (329+330) T1/2017. Bài viết phân
tích thực trạng pháp luật về nguyên tắc, phương pháp, chủ thể, quy trình, tư vấn, thời
điểm xác định giá đất; đối chiếu giá đất tính bồi thường, hỗ trợ và giá đất khi tính tiền
SDĐ để TĐC. Từ việc phân tích thực trạng này, tác giả đưa các kiến nghị hoàn thiện


12
pháp luật về cơ chế xác định giá đất để người dân tham gia vào quá trình xây dựng
giá đất, cơ chế xác định giá đất theo giá thị trường.
Bài viết “Hoàn thiện các quy định về định giá đất ở Việt Nam hiện nay” của
các tác giả Châu Hoàng Thân và Phan Trung Hiền - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
2/2017. Bài viết phân tích các quy định của LĐĐ năm 2013 về định giá đất, các yếu
tố ảnh hưởng đến định giá đất, những bất cập của định giá đất hiện nay và kiến nghị
một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về định giá đất.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu các quy định của pháp luật về bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất và thực tiễn thi hành
Các công trình, bài viết nghiên cứu về nhóm nội dung này có thể kể đến như sau:

Sách chuyên khảo “Điều tra đặc điểm tâm lý nông dân bị THĐ làm khu công
nghiệp” do tác giả Lưu Song Hào chủ biên, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2009).
Cuốn sách phân tích thực tiễn THĐ nông nghiệp của nông dân để phát triển khu công
nghiệp đã dẫn đến mất việc làm, đảo lộn cuộc sống người dân. Người nông dân nhận
tiền đền bù nhưng sử dụng không có hiệu quả và chúng ta cũng chưa có giải pháp hữu
hiệu khắc phục hạn chế này. Chưa có các biện pháp hữu hiệu và các quy định gắn liền

việc THĐ với hỗ trợ chuyển đổi nghề, gây nhiều hệ lụy và bức xúc cho xã hội. Phần
lớn nông dân chưa hài lòng với chính sách đền bù, hỗ trợ chuyển đổi nghề mà nguyên
nhân chính là giá đất đền bù thấp.
Báo cáo tổng kết khoa học đề tài: “Nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đề
xuất việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện LĐĐ” của Viện Chiến lược, chính sách Tài
nguyên và Môi trường, do tác giả Nguyễn Văn Tài làm chủ nhiệm đề tài (2010). Tại
các báo cáo “Nhận dạng những bất cập, tồn tại của LĐĐ 2003 và công tác quản lý
đất đai hiện nay” (Chương II), báo cáo “Bối cảnh kinh tế - xã hội; mục đích, yêu cầu;
phạm vi, những nội dung lớn cần sửa đổi, bổ sung trong LĐĐ 2003; Khung dự án Bộ
LĐĐ” (Chương V), đã trình bày một số hạn chế trong các quy định của LĐĐ năm
2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành LĐĐ 2003, như các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, TĐC thay đổi thường xuyên dẫn đến khó khăn và chậm trễ khi triển khai, giá
đền bù thấp, pháp luật quy định hai cơ chế THĐ (bắt buộc và chủ đầu tư thỏa thuận)
có giá đền bù khác nhau dẫn đến việc người bị THĐ có tâm lý so sánh. Từ đó, họ cho
rằng quyền lợi của mình bị thiệt hại, dẫn đến khiếu kiện kéo dài và cố ý chây ì không
chịu bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư khiến cho tiến độ thực hiện dự án bị chậm trễ.


13
Bài viết “Về chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ” của tác giả
Nguyễn Thị Phượng - Tạp chí Quản lý Nhà nước số 176 (9-2010). Bài viết đánh giá thực
trạng, nguyên nhân THĐ và bồi thường với một số phát hiện chính như: Cơ chế, chính
sách liên quan đến bồi thường khi NNTHĐ mặc dù thường xuyên được sửa đổi, bổ sung
nhưng vẫn tồn tại một số bất cập; khu TĐC không đảm bảo các điều kiện đồng bộ về hạ
tầng kĩ thuật và hạ tầng xã hội; giá đất tính bồi thường ở những vùng giáp ranh, liền kề
giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được áp dụng khác nhau.

Bài viết “Chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ” của tác giả Trần Quang Huy - Tạp
chí Luật học, số 10/2010. Bài viết phân tích sự cần thiết xây dựng chính sách hỗ trợ
khi NNTHĐ, cơ sở pháp lý của việc thực thi chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ; các quy

định về hỗ trợ người SDĐ khi THĐ theo quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở phân tích các quy định, tác giả nêu ra một số kiến
nghị về chính sách hỗ trợ đối với người bị NNTHĐ, như xây dựng khu TĐC phải có
đầy đủ cơ sở hạ tầng, kiểm soát quỹ đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất ao,
vườn không được công nhận là đất ở v.v.
Bài viết “Pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ, bồi thường và giải phóng mặt bằng
và những vướng mắc nảy sinh trong quá trình áp dụng” của tác giả Nguyễn Thị Nga Tạp chí Luật học, số 11/2010. Bài viết phân tích các quy định về trình tự, thủ tục; các
bước cụ thể khi THĐ, bồi thường và giải phóng mặt bằng trong LĐĐ năm 2003. Theo tác
giả, các quy định này khi triển khai trên thực tế còn gặp một số vướng mắc như quy định
NNTHĐ phải thực hiện theo quy hoạch SDĐ được xét duyệt và công bố, nên nếu quy
hoạch sai thì thu hồi, bồi thường cũng sai và dẫn đến nhiều hệ quả phát sinh. Mặt khác,
sự điều chỉnh, bổ sung quy hoạch chi tiết quá nhiều trong cùng một dự án chủ yếu vì lợi
ích của nhà đầu tư mà chưa xuất phát từ lợi ích của người SDĐ gây bức xúc trong nhân
dân. Quy định khi có khiếu nại thì người bị THĐ vẫn phải thực hiện quyết định THĐ sẽ
gây ra những hậu quả nhất định nếu như sau khi giải quyết khiếu nại cho thấy quyết định
THĐ là sai nhưng quyết định này đã được thực hiện.
Bài viết “Những tồn tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các
phương thức bồi thường khi NNTHĐ” của tác giả Nguyễn Thị Nga - Tạp chí Luật học, số
5/2011. Tác giả phân tích các quy định và đánh giá thực trạng các phương thức bồi
thường khi NNTHĐ theo quy định của LĐĐ năm 2003, bao gồm: Bồi thường bằng việc
giao đất mới, bồi thường bằng tiền, thực hiện chính sách TĐC và các chính sách hỗ trợ
khác. Các phương thức này trong quá trình triển khai gặp nhiều vướng mắc như quỹ đất
không đủ để thực hiện phương án “đất đổi đất”, đặc biệt là đối với việc THĐ nông


14
nghiệp, áp dụng phương án bồi thường bằng tiền thì phát sinh nhiều khiếu kiện do
người bị THĐ cho rằng giá đất bồi thường quá thấp. Đối với vấn đề TĐC thì chất
lượng nhà ở, hạ tầng, tiến độ bàn giao không đảm bảo.
Cuốn sách “Cơ chế NNTHĐ và chuyển dịch đất đai tự nguyện ở Việt Nam”

của Ngân hàng thế giới, xuất bản năm 2011. Cuốn sách bao gồm 03 báo cáo, trong đó
Báo cáo 1 (Đề xuất về hoàn thiện chính sách NNTHĐ và cơ chế chuyển dịch đất đai
tự nguyện ở Việt Nam) và Báo cáo 2 (Nghiên cứu cơ chế xác định giá đất phục vụ bồi
thường, hỗ trợ và TĐC ở Việt Nam) liên quan trực tiếp đến vấn đề bồi thường khi
NNTHĐ. Trên cơ sở phân tích các quy định của LĐĐ năm 2003, các báo cáo phân
tích hai hình thức NNTHĐ ở Việt Nam là THĐ bắt buộc và THĐ tự nguyện; phân
tích thực tế triển khai việc THĐ ở Việt Nam, bao gồm: Đánh giá thực tế triển khai
việc THĐ dưới góc nhìn của lãnh đạo cấp tỉnh, của nhà đầu tư, của người bị THĐ và
thực tiễn triển khai THĐ bắt buộc ở Việt Nam; phân tích và nhận xét các quy định về
giá đất phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và TĐC.
Các bài viết đăng trong cuốn Kỷ yếu hội thảo “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật đất đai trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” do Viện Nghiên cứu
Lập pháp và Viện ROSA Luxemburg tổ chức - Nhà xuất bản Lao động (2011), bao gồm:

Thứ nhất, bài viết “THĐ và chuyển đổi mục đích SDĐ - Những vấn đề cần
nghiên cứu” của tác giả Đào Trung Chính. Bài viết phân tích các quy định, thực trạng
và các vướng mắc phát sinh từ việc áp dụng LĐĐ năm 2003 và các văn bản hướng
dẫn thi hành liên quan đến bồi thường khi NNTHĐ. Trong đó, tập trung vào các vấn
đề liên quan đến căn cứ thực hiện việc THĐ, cơ chế và chính sách về THĐ, bồi
thường, hỗ trợ, TĐC. Các vướng mắc như quy hoạch còn mang tính “xin - cho”, khái
niệm THĐ vì lợi ích quốc gia, công cộng còn chưa rõ ràng, giá đất tính bồi thường
chưa phù hợp, các khu TĐC chưa đảm bảo về chất lượng.
Thứ hai, bài viết “Một số vấn đề hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất
đai đảm bảo hài hòa lợi ích của NN, của người SDĐ và của nhà đầu tư” của tác giả
Trần Quang Huy. Bài viết phân tích hậu quả của việc THĐ và quyền lợi của người
nông dân khi bị THĐ; thực trạng các quy định của LĐĐ năm 2003 và các văn bản
hướng dẫn thi hành LĐĐ năm 2003 chưa đáp ứng yêu cầu về mặt lợi ích giữa NN,
doanh nghiệp và người bị THĐ, trong đó người bị THĐ luôn bị thiệt thòi nhất. Để
đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích này, thì tiếp cận đất đai của các nhà đầu tư theo
nguyên tắc thị trường là một phương thức quan trọng.



15
Thứ ba, bài viết “Hoàn thiện cơ chế giải quyết khiếu nại bồi thường, hỗ trợ,
TĐC khi NNTHĐ tại Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh Hằng. Tác giả cho rằng
việc giải quyết khiếu nại phát sinh từ hoạt động bồi thường khi NNTHĐ chưa hiệu
quả, chưa triệt để là một trong những nguyên nhân dẫn đến khiếu nại kéo dài, phức
tạp trong lĩnh vực THĐ. Bài viết hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến việc giải quyết khiếu nại về bồi thường khi NNTHĐ và chỉ ra những vướng
mắc về thời hiệu, thời hạn và thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực này.
Báo cáo số 193/BC-BTNMT ngày 06/9/2012 về “Tổng kết tình hình thi hành
LĐĐ năm 2003 và định hướng sửa đổi LĐĐ” của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Báo
cáo này chỉ rõ thực tiễn giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành làm căn cứ để tính bồi
thường chỉ bằng 30 - 60% so với giá thị trường. Quy định này có lợi cho người SDĐ
khi thực hiện các nghĩa vụ tài chính nhưng lại không phù hợp khi áp giá bồi thường,
dẫn đến người bị THĐ không đồng thuận với phương án bồi thường do NN đưa ra.
Đề tài khoa học cấp trường (2013) “Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ - Thực trạng và hướng hoàn thiện” của Trường Đại học Luật Hà Nội do tác giả
Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm. Đề tài bao gồm 15 chuyên đề chia thành 03 nội dung
chính sau: Nội dung thứ nhất: Những vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ; Nội dung thứ hai: Thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi
NNTHĐ; Nội dung thứ ba: Một số định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ. Các chuyên đề đã đề cập khá toàn diện những nội
dung cơ bản liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ, bao gồm những phân
tích về lý luận, thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật. Từ việc phân tích thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ,
nhóm tác giả đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Bài viết “Cụ thể hóa các quy định về đất đai trong Hiến pháp sửa đổi năm 2013”
của tác giả Nguyễn Văn Giàu - Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số T1(2)+T2(1)/2014. Trên
cơ sở phân tích các quy định của Hiến pháp năm 2013, tác giả phân tích các quy định của

LĐĐ năm 2013 đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp, bao gồm quy định các trường hợp
THĐ tại Điều 61, Điều 62; các quy định về bồi thường, hỗ trợ và TĐC, như điều kiện,
nguyên tắc bồi thường, các khoản hỗ trợ, quy định về giá đất khi bồi thường.
Bài viết “Bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi NNTHĐ theo LĐĐ năm 2013” của tác giả
Phạm Thu Thủy - Tạp chí Luật học số 11/2014. Bài viết phân tích các khái niệm bồi
thường, hỗ trợ, TĐC; nguyên tắc và giá đất bồi thường, vấn đề hỗ trợ và TĐC theo quy
định của LĐĐ năm 2013. Tác giả chỉ ra các vướng mắc khi áp dụng các quy định này


16
như: Quy định NNTHĐ đang sử dụng đất vào mục đích nào thì được giao đất có cùng
mục đích sử dụng ít có tính khả thi trong trường hợp THĐ nông nghiệp, vì quỹ đất
nông nghiệp gần như đã được giao hết; Quy định trường hợp bồi thường bằng tiền
theo giá đất tại thời điểm thu hồi tồn tại nhiều bất cập bởi sau khi thu hồi một thời
gian NN mới chi trả được tiền bồi thường do thủ tục thực hiện phức tạp.
Cuốn sách “Báo cáo tổng hợp hỗ trợ tiếp cận các nguồn lực phát triển cho người
dân TĐC thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế” của Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn
Quản lý tài nguyên (CORENARM), Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội (CSRD)
và Tổ chức ICCO, Nhà xuất bản Nông nghiệp (2014). Cuốn sách gồm 06 phần nghiên
cứu về hiện trạng xây dựng các công trình thủy điện, các chương trình TĐC, thực trạng
về di dân giải phóng mặt bằng từ các công trình thủy điện, quy trình thu hồi và công tác
bàn giao đất trên địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; những tác động về môi
trường và xã hội của việc di dân TĐC từ các công trình thủy điện. Mặc dù phạm vi
nghiên cứu là địa bàn thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế nhưng báo cáo đã chỉ ra
thực trạng, bất cập mang tính phổ biến của việc THĐ, bồi thường và TĐC. Cụ thể là
LĐĐ và Hiến pháp có sự mâu thuẫn về trưng dụng, trưng thu và trưng mua tài sản; chính
sách thu hồi và bồi thường liên tục thay đổi dẫn đến khó khăn trong thực thi. Theo đó,
trong thời gian ngắn nhưng chính sách sau cao hơn chính sách trước dẫn đến sự so sánh,
khiếu nại từ phía người bị THĐ; giá đền bù quá thấp, chỉ bằng 45%, thậm chí có nơi
bằng 25% giá thị trường; chính sách “đất đổi đất” hầu như không thực hiện được; khu

TĐC không đáp ứng được yêu cầu về diện tích, độ phẳng, hạ tầng.
Đề tài khoa học cấp bộ (2014) “Cơ sở pháp lý của quản lý NN đối với đất đai
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” của Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam, do tác giả Phạm Hữu Nghị làm chủ nhiệm. Đề tài đánh giá
thực trạng cơ sở pháp lý của quản lý NN đối với đất đai ở nước ta tại thời điểm LĐĐ
năm 2013 vừa có hiệu lực thi hành, phân tích những thiệt hại do THĐ trên các phương
diện kinh tế (bao gồm các thiệt hại về đất, công sức đầu tư, tài sản trên đất, ngừng trệ sản
xuất - kinh doanh, thiệt hại vô hình khác), phương diện xã hội (bao gồm thiệt hại do cuộc
sống, sản xuất bị đảo lộn; tâm lý người dân bất an, lo lắng, không yên tâm lao động sản
xuất; mất thời gian để thích nghi cuộc sống mới hoặc không thể thích nghi được),
phương diện chính trị (nếu không giải quyết tốt quyền lợi kinh tế, không giải quyết hài
hòa lợi ích giữa các bên sẽ gây bất ổn xã hội, mâu thuẫn nội bộ tăng cao, khiếu nại đông
người, làm giảm lòng tin của người dân; làm ảnh hưởng và rạn nứt khối liên minh công
nông; gây ra tệ nạn xã hội; ảnh hưởng vấn đề an ninh lương thực). Bên cạnh những ưu


17
điểm, pháp luật về THĐ còn tồn tại những bất cập như giá đất bồi thường thấp so với
giá thị trường, thời gian thực hiện thu hồi và bồi thường kéo dài, THĐ nông nghiệp
tràn lan mà chưa chú trọng quyền lợi của nông dân, cuộc sống của người dân sau
THĐ không được cải thiện. Những bất cập này đã dẫn đến tình trạng khiếu nại, tố cáo
có chiều hướng gia tăng về số vụ và tính phức tạp.
Bài viết “Vấn đề hỗ trợ khi NNTHĐ trong LĐĐ năm 2013” của tác giả Phạm
Văn Võ - Tạp chí Luật học số 1/2015. Bài viết phân tích chính sách hỗ trợ khi
NNTHĐ, bao gồm sự cần thiết của chính sách hỗ trợ khi NNTHĐ, mối quan hệ giữa
chính sách hỗ trợ và chính sách bồi thường; đối tượng được hỗ trợ; hình thức, điều
kiện và các khoản hỗ trợ (bao gồm hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất; hỗ trợ đào
tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm; hỗ trợ TĐC; hỗ trợ khi THĐ công ích của
xã, phường, thị trấn và hỗ trợ khác) theo LĐĐ năm 2013 và Nghị định số
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi

NNTHĐ (sau đây gọi tắt là Nghị định số 47/2014/NĐ-CP).
Đề tài khoa học cấp NN (2015) “Sở hữu, quản lý và sử dụng đất đai trong
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của Tạp chí Cộng sản
do tác giả Vũ Văn Phúc làm chủ nhiệm. Liên quan đến pháp luật về bồi thường khi
NNTHĐ, đề tài đã chỉ ra những vấn đề nổi cộm trong THĐ, bồi thường, giải phóng
mặt bằng, hỗ trợ, TĐC, bao gồm: Một là, việc THĐ, bồi thường chưa có một cơ chế
giải quyết rõ ràng, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa NN, nhà đầu tư và người có đất bị
thu hồi; Hai là, chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC chưa hợp lý, tính khả thi thấp; Ba
là, nông dân được hưởng lợi ít nhất từ đất đai khi THĐ nông nghiệp do đền bù thấp
dẫn đến cuộc sống vẫn nghèo, thậm chí nghèo hơn trước khi THĐ; Bốn là, sau khi
THĐ nông nghiệp và chuyển sang đất phi nông nghiệp có giá cao hơn nhiều lần nông
nghiệp nhưng khoản chênh lệch giá này điều tiết vào ngân sách NN còn thấp, chủ yếu
rơi vào tay chủ đầu tư nhận đất và người đầu cơ đất; Năm là, giá NN sử dụng để đền
bù cho dân khi THĐ quá thấp so với giá giao dịch trên thị trường (nhiều ý kiến cho
rằng chỉ bằng 30 - 40% giá giao dịch thành công trên thị trường).
Đề tài khoa học cấp bộ (2016) “Khắc phục bất cập trong cơ chế, chính sách,
pháp luật về đất đai ở Việt Nam hiện nay góp phần phòng ngừa tham nhũng” của Ban
Nội chính Trung ương do tác giả Vũ Thu Hạnh làm chủ nhiệm. Liên quan đến pháp luật
về bồi thường khi NNTHĐ, đề tài đã chỉ ra những bất cập trong cơ chế, chính sách và
pháp luật về bồi thường khi NNTHĐ tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, bao gồm: Một là,
THĐ để thực hiện các dự án phát triển kinh tế, xã hội vẫn chưa giải quyết được hài hòa


18
lợi ích của các bên do phạm vi THĐ còn khá rộng, khó tránh khỏi sự lạm dụng đối
với các dự án này; Hai là, cơ chế, chính sách và pháp luật đất đai hiện hành ghi nhận
sự tham gia của người dân trong quá trình lập, thẩm định phương án bồi thường, hỗ
trợ, TĐC nhưng chưa rõ ràng, cụ thể tạo ra “kẻ hở” dẫn đến tình trạng tham nhũng
khi THĐ; Ba là, giá đất bồi thường còn thấp, việc điều tiết lợi ích chưa hợp lý, chưa
chú trọng đến lợi ích của NN và người có đất bị thu hồi dẫn đến tình trạng khiếu kiện

đông người, kéo dài, làm tăng chi phí đầu tư, ảnh hưởng môi trường đầu tư và là nơi
phát sinh tham nhũng, tiêu cực lớn nhất, nhiều nhất.
Đề tài khoa học cấp bộ (2016) “THĐ và giải quyết khiếu nại về THĐ ở Việt Nam
hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra
Chính phủ) do tác giả Đinh Văn Minh làm chủ nhiệm. Đề tài chỉ ra các nguyên nhân dẫn
đến khiếu nại khi THĐ theo LĐĐ năm 2013. Thứ nhất, về nguyên nhân khách quan: Một
là, do quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho nhu cầu về đất tăng lên thúc đẩy giá
đất tăng cao dẫn đến lợi ích liên quan đến đất lớn; Hai là, chính sách liên quan đến lợi
ích người SDĐ còn nhiều bất cập, nhất là giá đất chưa phù hợp và thường xuyên thay
đổi; Ba là, THĐ nhưng không ưu tiên trả bằng đất mà trả bằng tiền, điều kiện tại khu
TĐC không bằng khu dân cư có đất bị thu hồi; Bốn là, ý thức chấp hành pháp luật của
một bộ phận người dân còn hạn chế nên đòi hỏi quyền lợi vượt quá quy định. Thứ hai, về
nguyên nhân chủ quan: Một là, cơ chế, chính sách trong lĩnh vực quản lý đất đai hiện nay
chưa chú ý đúng mức quyền lợi của người dân; Hai là, công tác chỉ đạo, điều hành và
quản lý đất đai còn yếu kém, bị buông lỏng; Ba là, chưa có chế tài hoặc xử lý không
cương quyết nhiều dự án treo; Bốn là, khi thực hiện dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế

- xã hội, nhiều địa phương, ban quản lý dự án chưa thực hiện đầy đủ quy định, quy
trình THĐ và chưa làm tốt công tác tuyên truyền về mục đích, ý nghĩa của THĐ;
Năm là, công tác thanh tra, kiểm tra chưa được chú trọng đúng mức và việc giải quyết
khiếu nại từ cơ sở đến các cấp chưa kịp thời, có biểu hiện qua loa, có trường hợp giải
quyết không đúng hoặc không giải quyết.
Dự án điều tra cơ bản cấp bộ (2016) “Đánh giá thực trạng đảm bảo các quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cộng đồng trong các dự án có THĐ nông nghiệp” của
Viện Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) do tác giả Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm. Thông
qua hoạt động điều tra cơ bản về THĐ nông nghiệp ở nước ta, dự án đã phân tích, đánh
giá nhu cầu tất yếu khách quan của việc THĐ nông nghiệp; những tác động tích cực, tiêu
cực và yêu cầu phát triển bền vững của việc THĐ nông nghiệp; những bất cập khi THĐ
nông nghiệp, như thực tế không có đất để bồi thường, giá đất bồi thường thấp, các chính



19
sách hỗ trợ thấp và không đảm bảo để ổn định cuộc sống sau THĐ ... Từ những phân
tích này, dự án kết luận rằng: Chính sách, pháp luật THĐ nông nghiệp chắp vá, thiếu
đồng bộ và thiếu sự ổn định cần thiết; cơ chế thực thi chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội và quyền lợi chính đáng của người có đất nông nghiệp bị
thu hồi; tình trạng nông dân không có đất là một vấn đề vừa mang tính kinh tế, vừa
mang tính chính trị - xã hội, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi, không đơn giản và có tính
dây chuyền với phát triển bền vững đất nước như thất nghiệp, di dân, “giàu tạm thời,
nghèo bền vững”, tệ nạn xã hội, tâm lý mất niềm tin vào chính quyền.
Bài viết “Bất cập trong quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục THĐ vì mục
đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng” của tác giả Châu Hoàn Thân - Tạp chí Khoa học, số 44 (2016). Bài viết chỉ ra
những bất cập về trình tự, thủ tục THĐ của LĐĐ năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi
hành, đó là có nhiều văn bản quy định về nội dung này, hạn chế trong quy định về hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và TĐC; quy định về trình tự, thủ tục THĐ chưa thống nhất.
Đề tài khoa học cấp bộ (2017) “Cơ chế pháp lý bảo đảm thực hiện nguyên tắc đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do NN đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” của Viện
Khoa học Pháp lý (Bộ Tư pháp) do tác giả Võ Đình Toàn làm chủ nhiệm. Khi đánh giá
thực tế vận hành cơ chế pháp lý bảo đảm nguyên tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
NN đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý từ thực tiễn thực hiện THĐ và công tác
bồi thường, hỗ trợ, TĐC, đề tài nhận định việc THĐ theo LĐĐ năm 2013 đã khắc phục
được tình trạng THĐ tràn lan như trước, sàng lọc được các nhà đầu tư có năng lực bảo
đảm đưa đất vào sử dụng, không để đất đai lãng phí; các quy định về bồi thường, hỗ trợ,
TĐC từng bước được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế thị trường,
bảo đảm tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị THĐ. Bên cạnh những ưu điểm, việc
THĐ còn một số hạn chế như căn cứ THĐ để phát triển kinh tế - xã hội tạo điều kiện cho
các nhà đầu thư THĐ ồ ạt để “ôm đất”, “giữ đất” để bán kiếm lời, nhiều dự án “treo”
cũng sinh ra từ đây trong khi người dân không có đất để sinh sống và sản xuất phải di cư
tự phát đến đô thị hoặc xuất khẩu lao động; có nhiều dự án phát triển kinh tế - xã hội

tương tự nhau nhưng có dự án chính quyền đứng ra THĐ, có dự án doanh nghiệp thỏa
thuận với người SDĐ; giá đất nông nghiệp được bồi thường thấp hơn rất nhiều giá thị
trường mang lại lợi ích cho nhà đầu tư nhưng thiệt hại cho người bị THĐ.
Các bài viết sau đây được đăng trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Chính sách, pháp
luật TĐC: Từ lý thuyết đến thực tiễn” do Trường Đại học Luật - Đại học Huế và Trường
Kinh doanh - Đại học QUEENSLAND (Australia) tổ chức ngày 14/12/2017 tại Thừa


×