Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SKKN một số biện pháp chuẩn bị tâm thế tốt cho trẻ 5 6 tuổi ở trường mầm non nga thủy bước vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 31 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
2.3.Các giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Chuẩn bị về mặt thể lực cho trẻ
2.3.2. Chuẩn bị về mặt phát triển trí tuệ cho trẻ thông qua hoạt
động học và hoạt động góc.
2.3.3. Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ cho trẻ
2.3.4. Rèn luyện cho trẻ một số kỹ năng cần thiết
2.3.5. Cho trẻ làm quen với trường tiểu học thông qua tham quan
và qua chủ đề “Trường tiểu học.
2.3.6. Phối kết hợp cùng phụ huynh
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1

Trang
1


1
2
2
2
2
2
4
5
5
7
10
15
16
17
19
19
19
20


Giáo dục mầm non là ngành học mở đầu trong trong hệ thống giáo dục
quốc dân, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp giáo dục con người. Mục tiêu của
Giáo dục mầm non là hình thành cơ sở ban đầu về nhân cách con người phát
triển toàn diện.
Trong những năm gần đây, khi điều kiện kinh tế phát triển, sự quan tâm,
đầu tư của nhiều bậc phụ huynh chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 lại càng mạnh mẽ
hơn, quyết liệt hơn, đó là một biểu hiện thực sự đáng mừng.
Tuy nhiên, chuẩn bị những gì cho trẻ, đầu tư như thế nào cho đúng cái trẻ cần
khi bước vào lớp 1lại là vấn đề đang rất cần trao đổi, định hướng. [1]
Với lứa tuổi mầm non, chúng ta cần quan tâm nhất là trẻ lứa tuổi mẫu giáo

lớn vì trẻ lứa tuổi này chuẩn bị bước vào lớp 1, một bước ngoặt vô cùng quan
trọng đối với trẻ [2].Trẻ mẫu giáo lớn chuyển lên lớp 1 rất non nớt, bởi vì trẻ
đang sống trong một môi trường được sự chăm lo chu đáo của các cô giáo mầm
non về cả dạy dỗ và nuôi dưỡng, được các cô chăm sóc chu đáo nhiệt tình như
người mẹ thứ hai của mình. Cho nên trẻ ở trong một môi trường hoàn toàn mới
lạ trẻ sẽ khó tiếp cận và thích nghi ngay được. Bởi vậy việc chuẩn bị mọi mặt
cho một trẻ vào lớp 1 được coi là hết sức quan trọng. Trong những năm gần đây,
khi điều kiện kinh tế phát triển, sự quan tâm, đầu tư của nhiều bậc phụ huynh
chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 lại càng mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Đó là một biểu
hiện thực sự đáng mừng. Tuy nhiên, chuẩn bị những gì cho trẻ, đầu tư như thế
nào cho đúng cái trẻ cần khi bước vào lớp 1 lại là vấn đề đang rất cần trao đổi,
định hướng. Thực tế cho thấy rất nhiều vị phụ huynh vì quá lo lắng, quá nóng
vội nên đã “sắm sửa” cho trẻ những “hành trang” không cần thiết, thậm chí rất
sai lệch. Có thể kể ra một số sai lầm các bậc phụ huynh thường mắc phải như:
Cho trẻ vào lớp 1 chưa đúng tuổi: Có thể nói việc cho trẻ vào lớp 1 khi chưa tròn
6 tuổi là điều hết sức tai hại. Bởi lẽ khi chưa tròn 6 tuổi thì chắc chắn các yếu tố
về thể lực, kĩ năng, tâm lí, ngôn ngữ…chưa đáp ứng với các yêu cầu vận động,
sinh hoạt, học tập, giao tiếp của học sinh lớp 1. Trẻ hơn nhau một vài tháng là
khác hẳn nhau về khả năng tiếp thu, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp. Chính
vì vậy kết quả học tập không cao hay dạy trước cho trẻ những bài trong chương
trình, sách giáo khoa lớp1. Nhiều phụ huynh vì quá nôn nóng, lo lắng đã bắt con
học trước cả mấy tháng hè, kể cả đánh vần, tập viết, làm toán, kể chuyện… theo
sách giáo khoa lớp 1, thậm chí cả các tài liệu tham khảo, nâng cao! Chính vì vậy
khi bước vào lớp 1 trẻ sẽ rất nhàm chán, mất hứng thú, chủ quan, không tập
trung ngay khi các con phải học những bài học đầu tiên mà không có gì mới mẻ,
thích thú.
Ở lứa tuổi mẫu giáo, vui chơi là hoạt động chủ đạo. Thông qua hoạt động
vui chơi, trẻ phát triển trí tuệ, thể chất, tình cảm quan hệ xã hội, thẩm mĩ…[3],
qua đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Nhưng lên lớp 1 học tập lại
là hoạt động chủ đạo. Vậy làm thế nào để trẻ có một kiến thức, một hành trang

vững vàng để trẻ mạnh dạn tự tin, sẵn sàng bước vào một môi trường mới không
hụt hẫng về tâm lý cũng như có những tố chất sẵn sàng cho việc học lớp 1? Đó
2


là một câu hỏi không chỉ khiến tôi và các bạn đồng nghiệp trăn trở mà đó là câu
hỏi cho cả gia đình, nhà trường và toàn xã hội .
Thấy được tầm quan trọng trong việc tạo tiền đề, cơ sở vững chắc cho trẻ
mầm non chuyển sang giai đoạn mới đầy hào hứng, mong chờ không bở ngỡ
trước sự mới lạ xung quanh cũng như nhận thức rõ nhu cầu của phụ huynh và
đặt niềm tin vào trường mầm non, mong muốn nơi đây trang bị cho con em
mình về kiến thức lẫn tinh thần để Trẻ tự tin bước vào lớp 1.Bản thân tôi luôn
trăn trở và bằng những kiến thức đã học cũng như qua nhiều năm kinh nghiệm
đứng lớp 5 tuổi tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp chuẩn bị
tâm thế tốt cho trẻ 5-6 tuổi bước vào lớp 1 ở trường mầm non Nga Thủy ”.
Nhằm giúp cho trẻ có một tâm thế vững vàng khi bước vào lớp 1.
1.2. Mục đích nghiên cứu
+ Đánh giá thực trạng sự phát triển của trẻ về các mặt như: Thể chất, tâm
lý, trí tuệ, các kỹ năng cơ bản cần thiết cho việc học tập.
+ Tìm ra các biện pháp giúp trẻ lớp mẫu giáo lớn chuẩn bị tâm thế sẵn sàng
bước vào lớp 1.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Các cháu trong độ tuổi lớp mẫu giáo 5-6 tuổi Lớp Hoa Hồng tại trường
Mầm Non Nga Thủy
1.4.Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
Giáo viên lựa chọn, sưu tầm các nguồn tài liệu có nội dung liên quan đến đề
tài nghiên cứu, để vận dụng và đưa ra các biện pháp tổ chức thực hiện cho phù
hợp.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.

- Để tìm hiểu, nắm bắt đặc điểm, tình hình của trẻ, giáo viên đi điều tra ghi
chép đầy đủ các thông tin về trẻ.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
Tổng hợp cụ thể từng tiêu chí, các biểu bảng và điều chỉnh, xử lý số liệu
phù hợp với nội dung đề tài
- Phương pháp trực quan, mimh hoạ
Dùng trực quan (vật thật, đồ chơi, hành động mẫu…) cho trẻ quan sát, rèn
luyện sự nhạy cảm của các giác quan, thoả mãn nhu cầu tiếp nhận các thông tin .
- Phương pháp tác động bằng tình cảm
Dùng cử chỉ vỗ về, vuốt ve, gần gũi, cùng với những điệu bộ, nét mặt, lời
nói âu yếm để tạo cho trẻ những cảm xúc an toàn, tin cậy thoả mẫn nhu cầu giao
tiếp.
- Phương pháp thực hành.
Tổ chức cho trẻ hành động, thao tác trực tiếp, đồ chơi, sử dụng các yếu tố
chơi, các trò chơi đơn giản thích hợp để kích thích trẻ hoạt động…
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
3


2.1. Cơ sở lý luận
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là mục tiêu của giáo dục mầm non và là mục
đích đầu tiên ban hành Bộ chuẩn trẻ em 5 tuổi. Tâm lý sẵn sàng đi học của mỗi
trẻ phụ thuộc vào sự chuẩn bị đúng đắn, đầy đủ của trường mầm non và đặc biệt
là quan niệm của các bậc phụ huynh.
Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 là chuẩn bị cho trẻ tàn diện về thể lực, nhận
thức, ngôn ngữ, tình cảm xã hội, các kỹ năng cần thiết trong hoạt động học tập
bằng phương pháp phù hợp với sự phát triển của trẻ.
Theo các công trình nghiên cứu khoa học, trẻ em dưới 6 tuổi cơ tay còn yếu
khi cầm but chỉ viết được những nét sổ, nghiêng, cong. Vì thế trẻ chỉ nên tô theo
những nét có sẵn, tập điều khiển cơ tay để dần dần học viết nét chữ. Khi học

viết sớm, cơ tay yếu, trẻ dễ cầm bút tùy tiện sai tư thế ngồi viết và cách cầm bút.
Ngoài ra, khi phải ngổi nhiều để tập viết, làm toán trẻ sẽ căng thẳng và mệt mỏi,
cảm thấy bị áp lực. Và nguy cơ tiềm ẩn nhất là khi đã biết trước các kiến thức
của lớp 1, vào năm học, bé dễ chán và có thái độ chủ quan ảnh hưởng đến kết
quả học tập.
Hầu hết các bậc phụ huynh Việt Nam cũng nhận thấy tầm quan trọng của
việc chuẩn bị cho bé trước khi vào lớp 1, bởi trường tiểu học là một thế giới rất
lạ lẫm đối với bé. Ở đó, bé buộc phải trở nên độc lập hơn so với ở trường Mầm
non hay ở nhà. Không chỉ phải “biết ăn, biết ngủ” như trước đó, nay bé còn phải
“biết học hành”. Áp lực học tập, tuân thủ kỷ luật ở trường tiểu học có thể khiến
nhiều bé có tâm lý sợ đi học, ngay cả với những bé vốn mạnh dạn trong giao tiếp
Nhiều phụ huynh tìm cách giải quyết bài toán này bằng cách cho bé học
đọc, học viết sớm. Dù việc đọc thông, viết thạo có thể mang lại cho bé có một số
lợi thế trước mắt so với bạn cùng trang lứa khi bắt đầu vào lớp 1; nhưng mặt
khác nó cũng khiến bé có tâm lý chủ quan, lơ là, cho rằng mình “biết rồi” nên
không chú ý bài giảng. Chưa kể là việc học sớm như vậy có thể làm cho tuổi thơ
của trẻ ngắn lại mà về lâu dài, lợi thế có được từ điều đó sẽ không tồn tại mãi.
Theo chỉ thị số 2325 ngày 28/6/2013 của Bộ GD&ĐT thực hiện không dạy
trước chương trình lớp 1 cho trẻ mẫu giáo [4]
Để tiếp tục quán triệt thông tư số 17/2012TT-BGDĐ ngày 16/05/2012 về
việc ban hành cấm dạy thêm học thêm, dạy trước chương trình lớp 1.[5]
Trẻ em như búp trên cành nhưng nhu cầu mong muốn con được đọc thông,
viết thạo ngày càng lớn của các bậc phụ huynh ngày càng tăng, vì thế đòi hỏi ch
mẹ và người làm giáo dục phải có sự thống nhất, để mầm non tương la được
phát triển toàn diện nhất.
Để đáp ứng yêu cầu trên đòi hỏi khi chuyển tiếp giữa mầm non và tiểu học
phải đảm bảo sự kế thừa, tính khoa học, những kiến thức đã được hình thành ở
lứa tuổi mầm non cần phải được củng cố và mở rộng, hoàn thiện ở mức độ cao
hơn giúp trẻ không bị những thay đổi đột ngột khi chuyển từ hoạt động chủ đạo
là vui chơi sang hoạt động học tập ở trường tiểu học.

4


2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
* Thuận lợi:
- Đối với nhà trường:
Trường mầm non Nga Thủy là trường đạt chuẩn quốc gia mức độ II. Cở
sở vật chất tương đối khang trang, sạch đẹp và thoáng mát, có 9 phòng học và có
đủ các phòng chức năng, hàng năm được phụ huynh quan tâm góp phần mua
trang thiết bị cho việc dạy và học của trường. BGH nhà trường nhiệt tình năng
động đã chỉ đạo dạy và học nâng cao chất lượng.
-Đối với giáo viên:
Nhà trường có đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững
vàng trên chuẩn 97% trong. Vì vậy hầu hết giáo viên đều có kinh nghiệm, có
tinh thần đoàn kết, yêu nghề, mến trẻ, tìm tòi sáng tạo. Bản thân là giáo viên có
kinh nghiệm chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5 tuổi , năng động hăng say nhiệt tình với
công việc có tinh thần trách nhiệm giúp đỡ bạn bè động nghiệp cùng tiến bộ, tôi
luôn phấn đấu trong mọi lĩnh vực công tác hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
-Đối với Trẻ:
100% trẻ đúng độ tuổi 5- 6 tuổi, 100% trẻ đã học qua lớp mẫu giáo bé, mẫu
giáo nhỡ nên rất có ý thức và nề nếp học tập, vui chơi, vệ sinh.
Trẻ 5-6 tuổi được phổ cập giáo dục ra lớp 100% nên mức độ nhận thức tương
đối đồng đều , chính vì vậy việc truyền đạt đến trẻ cũng gặp nhiều thuận lợi.
- Đối với phụ huynh:
Nhiều phụ huynh trẻ rất nhiệt tình quan tâm tới việc học tập của các con.
Quan tâm ủng hộ và kết hợp chặt chẽ với giáo viên trong việc chăm sóc và giáo
dục trẻ.
* Khó khăn:
- Cơ sở vật chất : Về đồ dùng đồ chơi trong quá trình phục vụ học tập, vui
chơi cho trẻ chưa nhiều, chưa phong phú nên chưa thực sự vận dụng linh hoạt và

phát huy hết công dụng của đồ dùng đồ
- Đối với giáo viên: Chưa sáng tạo, sử dụng các biện pháp một cách linh
hoạt để dạy trẻ đáp ứng yêu cầu của chương trình và những thay đổi của xã hội.
- Đối với trẻ: Có một số trẻ do điều kiện bố mẹ đi làm ăn xa ở với ông bà
nên điều kiện sinh hoạt chưa đảm bảo dẫn đến tình trạng suy dinh dưỡng rất
nhiều và còn nhút nhát chưa mạnh dạn trong mọi hoạt động.
- Đối với phụ huynh: Tuy nhiên bên cạnh đó có một số phụ huynh làm
nghề tự do, buôn bán, bận nhiều công việc nên nhiều khi còn chưa quan tâm chú
trọng đến việc học của trẻ. Sự phối hợp cùng cô giáo rèn nề nếp cho trẻ ở nhà
còn hạn chế. Một số gia đình do không nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi,
nôn nóng về việc học hành của con cái nên vội vã cho con học trước chương
trình, hay cho đi học chữ trước.
* Kết quả của thực trạng (khảo sát chất lượng đầu năm tháng 9/ 2018)
Đầu năm học 2018- 2019 khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp Mẫu
giáo 5 tuổi Hoa Hồng. Tôi đã tiến hành khảo sát số trẻ trên lớp của mình như sau:
5


Phụ lục 1 a
2.3. Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Nâng cao chất lượng thể lực cho trẻ trong lớp.
Phát triển thể lực cho trẻ là yếu tố quan trọng, với trẻ thì vận động là một
nhu cầu không thể thiếu, vì qua vận động trẻ sẽ hình thành các năng lực và
trưởng thành. Việc học của trẻ trong giai đoạn này cũng đặc biệt cần vận động,
bắt trẻ ngồi một chỗ và học là điều bất khả thi. Do đó khi thực hiện giải pháp
này tôi đã bám vào mục tiêu cần đạt cho trẻ đó là:
+ Khoẻ mạnh, cân nặng và chiều cao phát triển bình thường theo lứa tuổi.
+ Có một số tố chất vận động: nhanh nhẹn, mạnh mẽ, khéo léo và bền bỉ
+ Thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng, đúng tư thế.
+ Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận động nhịp nhàng,

biết định hướng trong không gian.
+ Có kĩ năng trong một số hoạt động cần sự khéo léo của đôi tay.
+ Có một số hiểu biết về thực phẩm và ích lợi của việc ăn uống đối với sức
khoẻ.
+ Có một số thói quen, kĩ năng tốt trong ăn uống, giữ gìn sức khoẻ và đảm
bảo sự an toàn của bản thân. [5]
Ngay từ đầu tháng 9 của năm học 2018-2019 tôi đã cùng với nhà trường kết
hợp với nhà trường và trạm y tế xã Nga Thủy cân đo khám sức khoẻ định kỳ cho
trẻ để chấm biểu đồ tăng trưởng về cân nặng, chiều cao, phân loại bệnh tật, tôi
theo dõi ghi kết quả lên góc tuyên truyền để phụ huynh tiện theo dõi. Trao đổi
với phụ huynh về tình hình học tập, chế độ sinh hoạt, ăn uống nghỉ ngơi, đặc
biệt là tình hình sức khỏe…Những trẻ ăn chậm, biếng ăn, ít ngủ , ít vận động…
Để cô giáo và phụ huynh phối kết hợp chăm sóc trẻ.
Ví dụ : Trong lần cân đo, khám sức khỏe định kỳ vào tháng 9/2018. Lớp tôi có
5/32 = 16% cháu bị suy dinh dưỡng. Ngoài việc thông báo kết quả trên góc tuyên
truyền với phụ huynh, trong giờ đón trả Trẻ, Tôi đã trao đổi với phụ huynh có con
bị suy dinh dưỡng phối hợp cùng với cô giáo nuôi dưỡng chăm sóc cháu đúng khoa
học, bổ sung thêm chế độ ăn cho cháu như gửi sữa, đồ ăn cho Trẻ đến trường để cô
động viên trẻ ăn thêm ngoài bữa chính và bữa phụ ở trường.
Trẻ càng nhỏ thì nhu cầu dinh dưỡng càng cao, trong những năm đầu của
cuộc sống nhu cầu phát triển cả về thể chất và tinh thần đặc biệt trong giai đoạn
trẻ từ 0 - 6 tuổi là thời gian trẻ phát triển đầy đủ các yếu tố về thể chất và tinh
thần nên nhu cầu dinh dưỡng là rất quan trọng.
Chuẩn bị về mặt thể lực cho trẻ không đơn thuần là chuẩn bị về chiều cao
và trọng lượng cơ thể mà còn là sự chuẩn bị về chất, năng lực làm việc bền bỉ,
dẻo dai có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp, độ khéo léo của
bàn tay, tính nhanh nhạy của các giác quan….
Xác định được điều đó Tôi đã thực hiện một chế độ sinh hoạt ăn uống, nghỉ
ngơi , luyện tập, dạy trẻ rèn luyện một cách khoa học và hợp lý về thời gian và
đặc điểm phát triển riêng của từng trẻ.

6


Bên cạnh đó, tôi tham mưu với ban giám hiệu nhà trường phân phối chế độ
sinh hoạt hợp lý cho trẻ theo mùa để trẻ được đảm bảo ăn đủ lượng ( ăn đủ suất,
ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng như: Chất đạm, chất béo, chất bột dường, chất vi
ta min và muối khoáng), ngủ đủ giấc.
Ví dụ 1: Bữa chính cho trẻ ăn từ 10h30p đến 11h, trẻ ngủ trưa dậy, vận
động nhẹ nhàng sau đó ăn bữa phụ từ 14h30 đến 15h, khoảng cách các bữa ăn
cách nhau 4 tiếng đến 4.5 tiếng lúc đó lượng thức ăn của các bữa trước đã hấp
thụ gần hết cả bữa chính và bữa phụ cần phải cho trẻ ăn hết xuất mới đảm bảo
lượng kalo cần thiết trong ngày theo quy định.
Ví dụ 2: Trong giờ ăn tôi phân công trực nhật đếm số bạn ở tổ mình và xếp
bát, thìa cho bạn, thông qua hoạt động này trẻ còn được học một số quy luật
trong phép đếm 1-1, một bạn 1 bát, 1 thìa, 1 khăn.
Hoạt động lao động tập thể cũng góp phần cho trẻ làm quen đến những ảnh
hưởng của cá nhân với tập thể điều này rất quan trọng khi trẻ lên lớp 1.
Ví dụ: Ở lớp, Tôi luôn chú ý rèn luyện cho trẻ có thói quen vệ sinh, khả
năng tự phục vụ của bản thân như:
+ Vào thời điểm học và chơi: Trẻ tự cất đồ dùng sau khi tham gia vào các
hoạt động học có chủ định, đồ chơi sau khi chơi xong, cất sách vở tập tô vào túi
đựng riêng của mình.
+ Vào giờ ăn: Trẻ tự sắp xếp bàn ăn, Trẻ tự xúc cơm ăn, tự rửa tay, rửa mặt
trước và sau khi ăn, tự xếp bát vào chậu gọn gàng sau khi ăn xong.
+ Giờ ngủ: Trước khi ngủ Trẻ tự lấy chăm gối. Sau giờ ngủ tự gấp và cất
chăm gối, tự chải đầu, mặc quần áo...
Các thói quen này rất có ích đối với trẻ. Từ những thói quen này sẽ hình
thành ở trẻ sự đoàn kết cùng nhau làm việc, tính độc lập, không phụ thuộc, ỷ lại
vào người khác.
Phụ lục 2a

Hay qua các giờ phát triển vận động của lứa tuổi như: đi chạy trèo leo, bò
bằng bàn tay cẳng chân tôi hướng dẫn trẻ cách bò cách phối hợp tay nọ chân kia
rèn cho trẻ sự khéo léo của đôi bàn tay của các giác quan như trẻ tự xỏ quai dày,
tự cài cúc áo…
Việc cho trẻ luyện tập những vận động cơ bản như vậy sẽ giúp trẻ tăng
cường sức đề kháng cho cơ thể. Giúp cơ thể khoẻ mạnh.
Ngoài những giờ luyện vận động cơ bản cho trẻ, tôi còn đẩy mạnh việc
luyện tập thể dục sáng cho trẻ dưới nhiều hình thức để trẻ hứng thú tham gia như
tập với vòng gậy thể dục, tập theo băng đĩa nhạc…. Ngoài ra tôi còn luyện cho
trẻ các bài tập Aerobic với các động tác vừa sức. Đây là một trong những biện
pháp phát triển thể lực tốt nhất cho trẻ vì trẻ được luyện tập đều đặn, giúp các cơ
phát triển săn chắc và bền bỉ.
Phụ lục 2b
* Kết quả: Thể lực của trẻ lớp tôi có nhiều tiến bộ rõ rệt:
7


- Trẻ ăn ngon miệng hết xuất, hấp thu tốt, 100% trẻ tăng cân qua các kỳ
cân. Hình thành ý thức văn minh, lịch sự trong ăn uống.
- Trẻ ngủ sâu, ngon giấc, đảm bảo thời gian. Sau khi ngủ dậy trẻ tỉnh táo,
nhanh nhẹn.
- Trẻ nhanh nhẹn, khéo léo, tích cực tham gia các hoạt động của trường của lớp.
- 100% trẻ đạt các chỉ số về phát triển thể chất theo bộ chuẩn phát triển trẻ
em 5 tuổi.
- Tham gia hội khỏe bé mầm non cấp trường đạt giải nhất
- 100% trẻ đạt kênh bình thường
2.3.2. Chuẩn bị về mặt phát triển nhận thức cho trẻ thông qua hoạt
động khám phá khoa học, làm quen với toán, làm quen với chữ cái.
Mục tiêu của lĩnh vực nhận thức cho trẻ là trẻ :
+ Ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi các sự vật, hiện tượng xung

quanh.
+ Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý, ghi nhớ có
chủ định.
+ Có khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề đơn giản theo những cách
khác nhau.
+ Có khả năng diễn đạt sự hiểu biết bằng các cách khác nhau (bằng hành
động, hình ảnh, lời nói...) với ngôn ngữ nói là chủ yếu.
+ Có một số hiểu biết ban đầu về con người, sự vật, hiện tượng xung quanh
và một số khái niệm sơ đẳng về toán.
+ Nhận biết được 10 số đầu [6]
Với mục tiêu cần đạt cho trẻ ở cuối độ tuổi này vai trò rất quan trọng đối
với việc chuẩn bị tâm thế sẵn sàng đi học của trẻ cũng như việc làm quen với
những sinh hoạt gần gũi với hoạt động học tập. Vì vậy trẻ cần phải rèn luyện về
các thao tác trí tuệ, có sự hiểu biết về bản thân, gia đình, môi trường xung
quanh, các biểu tượng định hướng về không gian, thời gian đồng thời có kỹ năng
thực hiện hoạt động trí óc như: So sánh, phân tích, tổng hợp…những nội dung
này có nhiều hơn ở hoạt động khám phá khoa học và làm quen với toán.
* Thông qua hoạt động khám phá khoa học:
Khám phá khoa học là phương tiện để giao tiếp và làm quen với môi trường
xung quanh, để giao lưu và bày tỏ nguyện vọng của mình hình thành và nhận
thức sự vật, hiện tượng xung quanh mà giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn với
thiên nhiên, với xã hội cho trẻ. Thông qua môn học này hình thành cho trẻ kỉ
năng quan sát, tư duy, phân tích tổng hợp khái quát. Khám phá khoa học với trẻ
mầm non là quá trình tham gia các hoạt động thăm dò, tìm hiểu thế giới tự nhiên
qua đó giúp trẻ được hoạt động và tự phục vụ bản thân. Những công việc đó có
thể sẽ là bài học trải nghiệm tốt cho trẻ về khoa học.
Khi nói đến trẻ mầm non không ai không biết trẻ ở lứa tuổi này rất thích
tìm hiểu, khám phá môi trường xung quanh, bởi thế giới xung quanh thật bao la
rộng lớn, có biết bao điều mới lạ hấp dẫn và còn có bao lạ lẫm khó hiểu, trẻ tò
8



mò muốn biết, muốn được khám phá. Khám phá khoa học mang lại nguồn biểu
tượng vô cùng phong phú, đa dạng, sinh động, đầy hấp dẫn với trẻ thơ, từ môi
trường tự nhiên (cỏ cây, hoa lá, chim ….) đến môi trường xã hội (công việc của
mỗi người trong xã hội, mối quan hệ của con người với nhau …) và trẻ hiểu biết
về chính bản thân mình, vì thế trẻ luôn có niềm khao khát khám phá, tìm hiểu về
chúng. Khám phá khoa học đòi hỏi trẻ phải sử dụng tích cực các giác quan chính
vì vậy sẽ phát triển ở trẻ năng lực quan sát, khả năng phân tích, so sánh, tổng
hợp… nhờ vậy khả năng cảm nhận của trẻ sẽ nhạy bén, chính xác, những biểu
tượng, kết quả trẻ thu nhận được trở nên cụ thể, sinh động và hấp dẫn hơn. Qua
những thí nghiệm nhỏ trẻ được tự mình thực hiện trong độ tuổi mầm non sẽ hình
thành ở trẻ những biểu tượng về tinh cam xã hội chính là cơ sở khoa học sau này
của trẻ khám phá tìm tòi
Trong giờ học khám phá khoa học của trẻ tôi tạo điều kiện để trẻ tri giác,
tìm tòi và khám phá. Trong tiết học khám phá này tôi đã cho trẻ khám phá các
loài côn trùng nói chung và côn trùng ong, bướn ,kiến.. nói riêng. Qua tiết học
trẻ có được hiểu biết về đặc điểm, lợi ích, công dụng một cách gần gũi và chân
thực nhất.
Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới động vật” với đề tài “Tìm hiểu một số loại côn
trùng” tôi thay đổi hình thức hoạt động với tên gọi rất ngộ nghĩnh “Ngày hội côn
trùng” với các phần hoạt động như sau:
phần 1: Màn trình diễn của các côn trùng
Là phần trình diễn thời trang của các côn trùng đi xung quanh lớp để tất cả
các trẻ được quan sát kỹ, để cho hoạt động này được tốt tôi những bộ trang phục
bằng ni lông, các loại giấy bóng hoa. Trang trí lên đó là các hoa văn thật sặc sỡ
phù hợp với từng loại côn trùng. Khi màn trình diễn bắt đầu trẻ rất hứng thú và
tham gia vào hoạt động một cách rất tích cực.
Phần 2: Tìm hiểu và khám phá
Ở phần này đòi hỏi sự tập trung chú ý và hoạt động tích cực của trẻ. Khi

khám phá đến loại côn trùng nào tôi cho trẻ đóng vai côn trùng đó ra và tự giới
thiệu về mình và yêu cầu trẻ được quan sát phải nhận xét về loại côn trùng đó,
tôi để trẻ tự đàm thoại trao đổi với nhau còn cô chỉ là người hướng lái gợi mở
cho trẻ.
Phần 3: Cùng nhau thi tài
Ở phần này tôi cho trẻ tham gia vào các trò chơi để cũng cố những gì trẻ
vừa được quan sát tôi tổ chức 2 trò chơi một trò chơi động một trò chơi tĩnh. Với
trò chơi tĩnh tôi đọc câu đố theo dấu hiệu của côn trùng để trẻ tìm và giơ hình
ảnh lên còn trò chơi động tôi cho trẻ thi đua theo tổ bật qua suối, hay bật qua
vòng..lên tìm và phân loại côn trùng có ích cho con người.
* Thông qua hoạt động khám phá làm quen với toán:
Cùng với hoạt động khám phá khoa học hoạt động cho trẻ làm quen với
toán ở trường mầm non là một trong những hoạt động phát triển ở trẻ năng lực
nhận thức, khả năng so sánh, tư duy lôgic, ghi nhớ, khái quát, tổng hợp….Là
9


những yếu tố quan trọng phát triển trí tuệ làm tiền đề, tạo tâm thế tự tin bước
vào lớ 1. Song bản chất của toán là khô cứng, đòi hỏi tính chính xác cao mà đặc
điểm tâm lý trẻ mầm non là “Học mà chơi, chơi mà học” thì việc truyền thụ
kiến thức đến với trẻ là rất khó. Chính vì vậy tôi đã lồng ghép yếu tố chơi vào
trong mỗi giờ dạy để đem lại hiệu quả học tập tốt nhất:
- Tôi nghiên cứu thật kỹ các tài liệu, chương trình cho trẻ làm quen với toán
để có được những kiến thức cơ bản nhất, chính xác nhất cung cấp cho trẻ.
- Trong mỗi giờ học tôi luôn nghiên cứu tìm tòi những hình thức hấp dẫn
thu hút trẻ. Tổ chức các trò chơi theo chủ đề nhằm củng cố ôn luyện các kiến
thức toán mà trẻ vừa học. Vừa được học, vừa được chơi trẻ rất thích thú và giúp
trẻ nhớ lâu hơn
- Tôi xây dựng môi trường làm quen với toán quanh lớp học. Động viên trẻ
tham gia trang trí lớp cùng cô, trang trí phù hợp chủ đề và lồng ghép nội dung

làm quen với toán vào các góc nhóm.
- Trong góc “Bé vui học toán’’ tôi trang trí góc mở cho trẻ hoạt động. Học
đến số nào tôi cho trẻ gắn số, vẽ, xé, cắt, dán các hình ảnh mà trẻ yêu thích theo
nội dung chủ đề và gài vào bảng theo đúng số lượng, theo các yêu cầu mà cô
đưa ra. Trẻ cũng được rèn kĩ năng phân chia, thêm bớt ngay tại bảng. Điều này
không những giúp khắc sâu kiến thức toán đã học mà còn củng cố kĩ năng tạo
hình cho trẻ.
- Ngoài ra tôi cũng chú ý đến việc làm đồ dùng sáng tạo để kích thích trẻ
học tập.
Ví dụ: Ở chủ đề “Thế giới thực vật” với đề tài “Lập số 6, nhận biết số 6”
Chủ đề “Thế giới thực vật” với các phần hoạt động như sau:
* Phần 1: Ôn số lượng trong phạm vi 5
- Cô cho trẻ đếm các loại quả (5 quả na, 4 quả cam, 3 quả táo, 5 quả dâu tây) và
lấy thẻ số tương ứng
* Phần 2: Dạy trẻ lập số mới và nhận biết số 6
+ Cô cho trẻ lấy rổ đồ chơi, hỏi trẻ trong rổ có gì?
- Cho trẻ xếp tất cả các chú thỏ ra
- Lấy 5 củ cà rốt tặng cho các chú thỏ (Xếp tương ứng mỗi chú thỏ là một củ cà
rốt)
- Nhóm thỏ và cà rốt như thế nào với nhau?
- Nhóm nào nhiều hơn? Nhiều hơn là mấy? Vì sao?
- Nhóm nào ít hơn? Ít hơn là mấy? Vì sao?
+ Muốn cho số cà rốt nhiều bằng số thỏ phải làm thế nào? (Thêm 1 củ cà rốt).
Cho trẻ lấy thêm 1 củ cà rốt
- Hai nhóm như thế nào với nhau?
- Như vậy 5 củ cà rốt thêm 1 củ cà rốt bằng mấy?
- Cho trẻ đếm 2 nhóm nhiều lần, cho các tổ đếm, cá nhân đếm.
+ Để chỉ nhóm số lượng là 6 ta dùng thẻ số 6. Cô cho trẻ đọc và cho trẻ chọn số
6 đặt vào hai nhóm
10



- Cô cho trẻ nhận xét chữ số 6, rồi cô khái quát lại
+ Cô cho cả lớp đếm số thỏ và cà rốt
+ Cô cho trẻ cất số cà rốt bằng cách bớt dần số củ cà rốt
* Phần 3: Luyện tập
+ TC: Ai nhanh hơn
- Cô cho trẻ tìm xung quanh lớp các nhóm có số lượng 6
+ TC: Bé nào khéo hơn
Cho trẻ vẽ thêm quả cho đủ số lượng là 6
* Kết quả:
- Trẻ nắm chắc các kiến thức của lĩnh vực nhận thức. Tích cực, chủ động,
hứng thú khi tham gia các hoạt động cho trẻ làm quen với toán và khám phá
khoa học. Lĩnh vực nhận thức 32/32 cháu đạt
2.3.3. Chuẩn bị về mặt ngôn ngữ cho trẻ
Mục tiêu cần đạt cho trẻ ở lĩnh vực này là:
+ Có khả năng lắng nghe, hiểu lời nói trong giao tiếp hằng ngày.
+ Có khả năng biểu đạt bằng nhiều cách khác nhau (lời nói, nét mặt, cử chỉ,
điệu bộ…).
+ Diễn đạt rõ ràng và giao tiếp có văn hoá trong cuộc sống hàng ngày.
+ Có khả năng nghe và kể lại sự việc, kể lại truyện.
+ Có khả năng cảm nhận vần điệu, nhịp điệu của bài thơ, ca dao, đồng
dao phù hợp với độ tuổi.
+ Nhận và đọc đươc chữ cái
+ Có một số kĩ năng ban đầu về việc đọc và viết. [7]
- Trong mọi hoạt động học tập, vui chơi tôi luôn tạo mọi điều kiện, khuyến
khích trẻ lớp mình phát biểu ý kiến của bản thân trẻ. Khuyến khích trẻ trao đổi,
giao tiếp với các bạn cùng lớp, cùng nhóm. Tạo các tình huống để trẻ được thảo
luận với nhau. Luôn động viên trẻ mạnh dạn, tự tin.
- Thông qua hoạt động làm quen văn học tôi luôn chú trọng việc cung cấp

từ mới, giải thích các từ khó cho trẻ trong các bài thơ, câu chuyện giúp trẻ hiểu
sâu hơn về nội dung của những bài thơ, câu chuyện đó. Ngoài ra, tôi còn tổ chức
các hoạt động cho trẻ đóng vai các nhân vật trong chuyện, thể hiện các lời thoại
của nhân vật từ đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc, phong phú, thể hiện
cảm xúc, tình cảm trong lời nói giúp trẻ giao tiếp tự tin hơn trong cuộc sống.
- Thông qua hoạt động làm quen chữ cái tôi luôn luôn chú ý cách rèn cho
trẻ phát âm chuẩn, chính xác, dạy trẻ cách ghi nhớ, miêu tả đặc điểm, cấu tạo
của các chữ cái. Do đặc điểm phát âm của địa phương trẻ hay phát âm ngọng
một số từ (l - n; ă - â) nên tôi chú trọng việc sửa ngọng cho trẻ. Tôi hướng dẫn
trẻ cách đặt lưỡi và mở miệng đúng cách để phát âm cho chuẩn.
Ví dụ: Khi phát âm chữ n: Hơi mở miệng và ấn lưỡi xuống
Khi phát âm chữ l: Mở miệng đặt lưỡi trên vòm họng và đẩy hơi ra ngoài.

11


- Thông qua các giờ chơi hoạt động góc tôi luôn rèn cho trẻ có kỹ năng tự
thỏa thuận, phân vai chơi với nhau. Dạy trẻ giao tiếp giữa các vai chơi với nhau
và giữa các góc chơi với nhau.
- Dạy trẻ cách giao tiếp văn minh lịch sự với bạn bè, với người lớn, người
thân trong gia đình.
- Chú ý nghe trẻ nói và diễn đạt. Từ đó phát hiện ra những câu, từ trẻ sai để
sửa cho trẻ kịp thời.
- Uốn nắn, sửa sai cho những trẻ nói ngọng, nói giọng địa phương: Phát âm
sai giữa l và n
Việc làm quen với chữ viết được được tôi bố trí và tạo cơ hội để được diễn
ra ở mọi lúc mọi nơi tự nhiên và hứng thú cho trẻ.
Ví dụ 1: Khi cho trẻ vui chơi tôi cũng chuẩn bị giấy bút ở mỗi góc chơi,
góc bác sĩ trẻ dùng bút ghi tên bệnh nhân, góc bán hàng ghi tên các mặt hàng,
góc khoa học ghi lại các kết quả nghiên cứu.

Ví dụ 2: In tên trẻ lên khăn mặt, viết tên các đồ chơi trong góc phân vai,
viết tên tiêu đề bức tranh, viết tên lên sản phẩm vẽ, nặn, đồ chơi… của trẻ.
Tôi đã xây dựng môi trường chữ cái mọi lúc mọi nơi tạo cơ hội cho trẻ
được tham gia tiếp cận đọc, viết 29 chữ cái một cách tự nguyện tích cực và thích
thú bởi trẻ rất thích làm người lớn nhất là thích được giống cô giáo vì thế mà
góc chơi tạo hình bao giờ cũng thu hút sự tham gia đáng kể của trẻ. Đặc biệt rất
thích được cùng Tôi trang trí lớp học, làm đồ dùng, làm thiệp chúc mừng…
Tôi tận dụng môi trường hoạt động mọi lúc mọi nơi hay những hoạt động
mà trẻ thích như vui chơi, dạo chơi, hay các hoạt động học có chủ đích: Khám
phá khoa học, hoạt động tạo hình, âm nhạc, làm quen tác phẩm văn học...
Tác động để trẻ thích ứng với hoạt động mới qua 100 câu đố đó là hoạt
động học tập - Hoạt động chủ đạo ở tiểu học sau này.
Phân chia tổ nhóm để trẻ nhận ra vị trí của mình ở tổ nào để sau này trẻ
quen với hoạt động của “ Sao nhi đồng, đội thiếu niên” sau này.
Tôi giao trách nhiệm tự quản cho lớp trưởng, tổ trưởng (báo cáo sĩ số hàng
ngày). Tích hợp phát triển ngôn ngữ với hoạt động làm quen với tác phẩm văn học.
Ví dụ1: Hàng ngày tôi có thể hỏi trẻ về sĩ số lớp để trẻ có thể biết được
hôm nay văng bạn nào,đồng thời cũng qua đó các tổ trưởng nắm được sĩ số của
tổ mình
Ví dụ 2: Các con có thích tập tô chữ p, q không? Vậy tô thế nào thì đẹp
(trùng khít nét mờ), làm thế nào để tô chữ đẹp (ngồi, cầm bút đúng tư thế). Đối
với những bài đầu như o, ô, ơ hay a, ă â, thì cô dùng lời ngắn gọn và hình ảnh
trực quan (trường tiểu học) để hướng sự mong muốn của trẻ vào việc tập tô, viết,
ngồi đúng tư thế.
Phụ lục 4
Ví dụ: Khi dạy trẻ đến chủ đề: “Thế giới động vật” Tôi treo kế hoạch hoạt
động của chủ đề, đánh máy in các bài thơ, bài đồng dao….và găm vào góc tuyên
truyền với phụ huynh để giúp các phụ huynh biết được bé đang học ở chủ đề nào
12



và yêu cầu phụ huynh hưỡng dẫn cho trẻ gạch chân chữ cái đang học ở trong
tuần. Chằng hạn khi làm quen chữ cái “a, ă, â” tôi đánh và in bài thơ “Bé thổi
cơm”
Và ngược lại với hoạt động làm quen văn học bao giờ tôi cũng lồng ghép
tích hợp cho trẻ tiếp xúc với chữ cái nhiều trong hoạt động này. Tuy trẻ chưa thể
đọc được những dòng chữ đó nhưng bước đầu qua cách dạy này nó tăng sự thích
thú cho trẻ, qua nhiều lần tiếp xúc trẻ cũng dần hiểu được rằng các chữ cái khi
được xếp cạnh nhau thì tạo thành thành tiếng. Nhất là khi cô cho trẻ chơi điền
chữ cái còn thiếu trong tiếng chỉ từ nhân vật, sự vật trong các tác phẩm văn học
- Ví dụ: Khi cô cho trẻ làm quen với truyện “Tích Chu” cô cho trẻ quan sát
tranh nhân vật Tích Chu và đọc từ dưới tranh. Sau đó cô bớt đi các từ dưới tranh
“Tích Ch…” và cho trẻ thi đua phát hiện ra chữ còn thiếu và tìm chữ cái đó để
gắn thêm vào hoặc đến cuối năm học cô có thể cho trẻ cầm bút viết chữ còn
thiếu trong tiếng.
Hiện nay việc sử dụng phương pháp dạy học tích cực trong các bậc học đã
giúp trẻ chuyển hoạt động chủ đạo từ hoạt đông vui chơi sang hoạt động học tập
một cách thuận lợi.
Để đạt được những hiệu quả trên cần tạo điều kiện cho trẻ rèn luyện một
số kỹ năng cơ bản của hoạt động học tập như việc sắp xếp bàn ghế, cách cầm
bút, mở sách, tư thế ngồi đúng…giúp trẻ thích ứng với hoạt động mới. Thông
qua chủ đề “Trường tiểu học” giáo viên cần hướng dẫn trẻ làm quen với các đồ
dùng học tập ở trường tiểu học, thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với sách, bút,
thước kẻ... Hay khi cho trẻ đi tham quan dã ngoại là nơi cho trẻ hiểu được thế
giới xung quanh và cũng là nơi tôi gợi cho trẻ lòng ham muốn đọc chữ.
Ví dụ 1: Như đến công viên tôi đọc cho trẻ nghe những cái bảng quy định
cho mọi người vào công viên như: Không dẫm chân lên cỏ, hoặc khu vực cấm
tới gần ở những nơi có điện tôi giúp trẻ đọc được chữ là rất bổ ích. Hoặc khi tới
các chuồng động vật tôi đọc tên cho trẻ nghe tên các con vật, môi trường sống,
thức ăn, sinh sản của các con vật trẻ lớp tôi đã phát biểu “Sao cô giỏi quá con

vật nào cô cũng biết tên” tôi chưa trả lời thì trẻ khác nói chen vào “Vì cô biết
đọc chữ treo ở bảng”...........
Ví dụ 2: Hướng dẫn trẻ làm quen cách đọc các từ, câu đơn giản như hướng
dẫn trẻ đọc tên trẻ trong bảng danh sách lớp, gọi tên một số đồ vật được ghi trên
những đồ dùng cá nhân, bảng chữ ghi tên đồ vật thường dùng (như bút chì, giấy,
góc Sách…) nhận biết và viết tên của bản thân.
Tôi thường xuyên đọc sách cho trẻ nghe, khi đọc cho trẻ nghe, cô cho trẻ
ngồi cùng hướng với cô, khi trẻ nghe và nhìn cách cô đọc sách trẻ có thể học
được những kiến thức từ nội dung sách, cách sử dụng sách và nguyên tắc đọc,
hướng dẫn Trẻ ý thức giữ gìn và bảo vệ sách.
Thông qua việc đọc sách trẻ khám phá các ký hiệu và mẫu chữ khác nhau,
kích Thích sự tò mò tìm hiểu các từ và chữ cho Trẻ.

13


Tôi thường tổ chức các hoạt động tập tô, tập vẽ giúp trẻ làm quen với các
nét cơ bản của chữ viết tiếng Việt và biết cách đưa nét tạo thành chữ viết.
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ các trò chơi luyện ngón tay nhằm rèn luyện vận
động của các cơ nhỏ và sự khéo léo của các ngón tay, sự phối hợp tay mắt như
chơi buộc dây, cài cúc, xếp hột hạt, chơi lăn bóng, chuyền bóng, ném trúng đích,
… Hoặc Tôi tổ chức các hoạt động tạo hình như vẽ tranh, nặn, xé dán, đồ, in
hình, vò giấy,… đặc biệt các hoạt động có sử dụng bút, giấy như làm sách, hoàn
thiện bức tranh.
Ngay trong sinh hoạt ăn ngủ, đi vệ sinh, học tập tôi cũng hình thành thói
quen đúng giờ giấc, có nề nếp nhằm hình thành ở trẻ khả năng tự kìm chế, thói
quen tốt.
Những trẻ thiếu tập trung Tôi luôn nhắc nhở khéo các bé như ngồi học phải
ngồi ngay ngắn, muốn nói gì phải giơ tay xin phép cô, khi phát biểu phải đứng
ngay ngắn, nói đủ câu, diễn đạt mạch lạc. Tập nhiều lần như vậy trẻ sẽ có thói

quen, nề nếp tốt, khi sang tiểu học trẻ sẽ không bỡ ngỡ, sợ sệt, lo lắng.
Khi nhà trường tổ chức đi thăm quan trường tiểu học thì tôi tạo bầu không
khí hứng thú cho trẻ, khi vào trường giải thích cho trẻ biết các phòng, ban, bàn
ghế đồ dùng, sân chơi, các bảng biểu của trường tiểu học.
Hay khi cho trẻ đi thăm quan dã ngoại là nơi cho trẻ hiểu được thế giới
xung quanh và cũng là nơi tôi gợi cho trẻ lòng ham muốn đọc chữ.
Ví dụ: Khi cho trẻ đi thăm quan sân trường tôi đọc cho trẻ nghe biển chỉ
dẫn từng khu vực như: Vườn cổ tích, vườn rau xanh, vườn cây thuốc nam…hoặc
tôi đọc tên các loại cây trong sân trường cho trẻ nghe. Có trẻ lớp tôi đã hỏi sao
cây nào cô cũng biết tên ? Tôi chưa kịp trả lời thì trẻ khác nói xen vào “ Vì cô
biết đọc chữ treo ở cây”…Trong giờ chơi, giờ ăn, ngủ giáo viên tập cho trẻ biết
sử dụng những đồ dùng sinh hoạt một cách gọn gàng, khéo léo, có thói quen
đúng giờ,có nề nếp. Các nhà khoa học đã khẳng định “ Những vận động của trẻ
bằng bàn tay càng khéo léo, càng phong phú bao nhiêu càng dễ hình thành các
thao tác trí tuệ bấy nhiêu”.
* Kết quả:
Ngôn ngữ của trẻ tiến triển rõ rệt, Trẻ đã nhận biết được ký hiệu chữ cái
mang tên mình trên các đồ dùng cá nhân
Rất nhiều trẻ đã sửa được cách phát âm giữa l và n. Vốn từ của trẻ phong
phú. Trẻ rất mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Trẻ biết diễn đạt một cách rõ ràng,
mạch lạc, không nói ngọng, nói lắp, nói lí nhí.
2.3.4. Chuẩn bị về một số kỹ năng cần thiết cho trẻ chuẩn bị vào lớp 1
Mỗi một hành trình đều cần có những hành trang thiết yếu đi theo. Bước
vào lớp 1 cũng được coi là một hành trình lý thú trong cuộc đời của trẻ. Tuy
nhiên, không phải trẻ nào cũng cảm thấy tự tin để bước vào những hành trình
như thế. Vậy các chúng ta phải làm gì giúp con có một hành trang tốt bước vào
trường học đúng nghĩa đầu đời? Để làm được điều đó, chúng ta cần hiểu: Trẻ
cần những kỹ năng gì trong giai đoạn tiền học đường này? [8]
14



Chính vì vậy bên cạnh chuẩn bị cho trẻ kỹ năng hoạt động học tập, Tôi còn
rèn luyện cho trẻ một số kỹ năng cần thiết để trẻ tự tin, vững vàng bước vào lớp
1 đó là:
+ Rèn luyện cho con kỹ năng quan sát: Đây là một trong những kỹ năng
quan trọng để giúp trẻ tự tin trong cuộc sống. Một đứa trẻ có khả năng bao quát
tốt thường dễ hòa đồng với mọi người hơn những đứa trẻ khác. Hơn nữa, việc
rèn luyện cho con có kỹ năng quan sát tốt sẽ giúp con dễ dàng bắt nhịp với việc
học ở lớp 1 hơn. Để làm được điều này, chúng ta nên thường xuyên đưa con ra
ngoài chơi và nói chuyện cùng con, cùng con quan sát những sự vật xung quanh.
+ Rèn luyện cho con khả năng tập trung: Trẻ bước vào lớp 1 được coi
như bước sang một môi trường mới, hoàn toàn khác. Thầy cô mới, bạn bè mới,
cách học mới. Trẻ không còn được thay đổi trò chơi một cách liên tục mà thay
vào đó là một tiết học 45 phút. Việc cha mẹ rèn luyện cho con khả năng tập
trung tốt sẽ giúp con thấy bài học ở trường thú vị hơn, con tiếp thu bài dễ hơn và
không bị mệt mỏi. Việc rèn luyện khả năng tập trung cho trẻ cần thời gian và
tính kiên trì. Các bậc cha mẹ cần tạo cho trẻ không gian yên tĩnh và một khoảng
thời gian riêng tư. Có thể là những trò chơi ráp hình, LEGO hay những trò chơi
tư duy khác.
+ Dạy con ngồi học đúng tư thế: Đây được coi là một trong những kỹ
năng tối quan trọng mà trẻ cần có được khi bước vào môi trường học tập thật sự.
Việc ngồi học đúng cách không chỉ giúp cho các bé học tập hiệu quả hơn mà còn
bảo vệ thị lực của bé. Ngày nay, đã có rất nhiều công cụ hỗ trợ việc ngồi học
đúng tư thế của bé như bàn học, ghế ngồi, đèn chiếu sáng. Cha mẹ cũng có thể
mua cho con bức tranh về tư thế ngồi học và cùng con rèn luyện hàng ngày.
Điều này chắc chắn sẽ mang lại những hiệu quả cho con bạn.
+ Kỹ năng sống tự tin: Tôi luôn chú ý giúp Trẻ phát triển sự tự tin, lòng tự
trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng
như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn
cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi.

Ví dụ: Khi trò chuyện ở mọi lúc mọi nơi, Tôi đặt ra những câu hỏi giúp Trẻ
tự tin xử lý được các tình huống xảy ra như: Nếu bị lạc đường Con sẽ Tìm đến ai
để hỏi? Nếu bị ai đó bắt nạt con sẽ làm gì?.....
+ Kỹ năng giao tiếp: Tôi cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý
tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của
mình trong thế giới xung quanh. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng
đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc,
viết, làm toán và khám phá khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một
ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp
nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẵn sàng học
mọi thứ.

15


Ví dụ: Trẻ biết giới thiệu về bản thân và gia đình mình trước đám đông,
Biết mình đang học ở lớp, trường nào và địa chỉ nhà mình ở đâu? Biết cách ứng
xử với mọi người xung quanh. Học cách lắng nghe mọi người và đối đáp.
+ Dạy con cách làm việc nhóm: Đây là một trong những kỹ năng thiết yếu
trong môi trường học tập hiện đại. Trẻ biết làm việc nhóm cũng là khi trẻ
hòa đồng thực sự với bạn bè. Trẻ hiểu cách kiềm chế cảm xúc, bày tỏ ý
kiến, bảo vệ ý kiến cũng như lắng nghe ý kiến của người khác. Điều này
không chỉ giúp trẻ có được kiến thức tốt nhất mà còn giúp trẻ có những
người bạn “cùng tiến” thực sự.
Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát tôi giúp trẻ học cách cùng làm việc
với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp
tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn.
Phụ lục 5
Ví dụ: Trong hội thi “Bé khỏe - Bé khéo tay có phần thi “Chung sức” Tôi
luôn động viên khuyến khích Trẻ cùng hợp tác, thi đua cùng các bạn trong đội

hoàn thành thành công việc, tạo ra sản phẩm.
+ Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát
khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để
khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu
chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí
não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được.
Ví dụ: Khi kể chuyện cho trẻ nghe tôi đặt ra những câu hỏi gợi mở để trẻ tự
trả lời
+ Ngoài ra, Tôi còn dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ
kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập:
Ví dụ: Dạy cho trẻ về tinh thần trách nhiệm có thể là một nhiệm vụ không
dễ dàng như Biết mời mọi người trước khi ăn, không được bốc bải, không làm
rơi vãi, không vừa ăn vừa nói nhồm nhoàm.v.v.hoặc khi thời tiết thay đổi trẻ biết
tự mình mặc áo vào và cởi áo ra….
* Kết quả
- Trẻ lớp tôi rất mạnh dạn tự tin. Tích cực, chủ động tham gia các hoạt
động. Có ý thức trong mọi hoạt động của trường của lớp:
+ Trẻ biết tự cất, lấy các đồ dùng cá nhân đúng nơi qui định.
+ Trẻ mạnh dạn, tự tin, hay trò chuyện cùng cô và các bạn, nói được suy
nghĩ của mình.
+ Trẻ chủ động hơn khi tham gia các hoạt động, trò chơi, biết rủ nhau cùng
chơi, phân vai chơi trong nhóm, sáng tạo các hình thức chơi theo cá tính của trẻ.
+ Trẻ có ý thức tự phục vụ bản thân cũng như chấp hành tốt các nội qui,
qui định của lớp.
2.3.5. Cho trẻ làm quen với trường tiểu học thông qua tham quan và
qua chủ đề “Trường tiểu học”.
16



Để chuẩn bị tâm lý sẵn sàng bước vào lớp 1 cho trẻ thì việc cho trẻ làm
quen với Trường Tiểu Học là việc làm rất quan trọng không thể thiếu. Đây là
một trong những hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ của nhà trường tạo cho trẻ
không khí vui tươi, phấn khởi và hào hứng khi tham gia, giúp trẻ chuẩn bị tâm
thế sẵn sàng lên lớp 1. Thăm quan Trường tiểu học trẻ được thăm các lớp học,
gặp gỡ các anh chị học sinh tiểu học và một số nhà chức năng, phòng thư viện,
phòng họp...giúp cho trẻ có thêm hiểu biết về các hoạt động học tập, vui chơi,
trang phục của các anh chị học sinh tiểu học. Từ đó, giáo dục trẻ tinh thần tập
thể, tính tổ chức, kỷ luật, biết chấp hành các nội quy, quy định trong trường học
và có tinh thần sẵn sàng làm quen với mái trường tiểu học, mong muốn được đi
học ở trường tiểu học.
Phụ lục 6
Ví dụ: - Thông qua chủ đề “Trường tiểu học” cô cho trẻ làm quen với đồ
dùng, sách vở, bàn ghế, các hoạt động ở tiểu học: như chào cờ đầu tuần, sinh
hoạt lớp, các môn học… Qua đó cung cấp cho trẻ những hiểu biết ban đầu về
nơi mà trẻ sẽ học tập sắp tới.
Ví dụ: Tạo hình: tôi cho trẻ vẽ các đồ dùng học tập ở lớp 1 như vở, sách,
bút, thước kẻ, tẩy, hộp bút…Cho trẻ sưu tầm tranh ảnh về trường tiểu học để
cùng cô trang trí lớp và dán vào vở thủ công.
HĐKP tôi cung cấp cho trẻ một số kiến thức về trường tiểu học như khi
học tiểu học các con sẽ được học các môn học như Tiếng Việt, Tự nhiên xã hội,
….các môn học đó không giống như ở trường mầm non, các con sẽ được biết
thêm nhiều điều bổ ích, các con sẽ được học cùng trường với các anh các chị lớp
trên, sẽ có nhiều bạn hơn, bạn nào giỏi sẽ được quàng khăn đỏ ,…
Hay qua hoạt động LQVH - Hoạt động giáo dục âm nhạc tôi cho trẻ làm
quen với trường tiểu học qua các câu truyện các bài thơ, bài hát như “Bé vào lớp
1”, “Chào lớp 1”, “Lớp chúng mình”, “Em yêu trường em”. Qua đó giúp trẻ hiểu
và gần gũi hơn với trường tiểu học và lớp 1.
- Ngoài ra tôi vun đắp tình yêu, niềm vui thích đi học lớp 1 cho trẻ giúp trẻ
nhận thấy sự cần thiết của việc học ở lớp 1 qua các hoạt động hàng ngày.

Ví dụ:: Nếu con ngoan sẽ được lên lớp 1. Muốn trở thành những người tài
giỏi như bố mẹ thì các con cần đi học. Khi trẻ làm được việc tốt, trả lời đúng câu
hỏi thì cô động viên trẻ bằng cách nói: “Đúng là bạn Tuấn chuẩn bị lên lớp 1 nên
bạn rất người lớn, học cũng giỏi hơn.”
- Hay trong các giờ học như giờ tạo hình, làm quen chữ viết ….tôi thường
sử dụng các bài đẹp của các anh chị khoá trước hoặc của các anh chị lớp 1 làm
bài mẫu để hướng trẻ cũng cố gắng làm được như các anh chị đó.
- Tôi tổ chức cho trẻ đi tham quan trường tiểu học: Giới thiệu cho trẻ các
phòng ban, lớp học, đồ dùng, các thầy cô giáo, bác bảo vệ……
* Kết quả:
Trẻ không còn cảm thấy sợ sệt khi cô nói về trường tiểu học nơi mà trẻ sẽ
học tập và vui chơi khi rời xa trường mầm non
17


Trẻ rất hào hứng và hứng thú khi được đi tham quan trường tiểu học. Trẻ
luôn cố gắng để học giỏi hơn, chăm ngoan hơn.
2.3.6. Phối kết hợp cùng phụ huynh
Đa phần trẻ sẽ tự thích nghi được với môi trường mới nếu được cha mẹ
chuẩn bị tâm lí tốt trước khi vào lớp 1:
Cho trẻ làm quen với cặp sách, đồ dùng học tập, cái bút, quyển sách của
mình. Có thể hướng dẫn con biết chiếc bút mở nắp rất nguy hiểm, nên con viết
xong cần đậy lại. Dạy con cách giở sách, cách ghi nhớ, cách xếp sách vở vào
ngăn cặp, cách đeo cặp trên vai. Khi vào năm học, bố mẹ cũng cần quan tâm đến
thời khóa biểu của con để cùng bé chuẩn bị sách, đồ dùng học tập theo đúng
môn học mỗi ngày, tránh để trẻ ngày nào cũng phải mang quá nhiều thứ tới
trường.
Hướng dẫn bé cách ứng phó với các tình huống ở trường như khi muốn đi
vệ sinh và cách tự đi vệ sinh, lúc muốn nêu ý kiến... Quan trọng nhất là giúp bé
hòa nhập với môi trường, tăng khả năng tự lập, tự biết giữ sức khỏe, khi nào cởi

áo, mặc áo, lúc nào cần rửa tay...
Dạy trẻ khả năng tập trung, để bé nhanh chóng làm quen với môi trường
học mới. Khi con ở nhà, bố mẹ có thể tạo ra các cuộc thi như cả nhà kể chuyện
cho nhau nghe, tập tô xem ai khéo hơn, nói về các chủ đề gần gũi với bé trong
khoảng 30 phút...
Giúp con làm quen với ngôi trường mới. Bố mẹ có thể dẫn bé tới trường,
lớp mới vài lần trước khi con đi học thực sự. Hãy chỉ cho bé thấy lớp mới có
những khác biệt như thế nào so với lớp ở trường mầm non của con. Chỉ cho con
thấy những đồ vật đáng yêu ở nơi mới, một cây bàng xòe tán như chiếc ô che
nắng, chiếc trống trường biết kêu "tùng tùng tùng" gọi các con vào lớp hay báo
hiệu đến giờ chơi... Hãy giúp con cảm thấy môi trường mới có nhiều điều thú vị,
gần gũi với bé.
Hầu hết các bậc phụ huynh cũng nhận thấy tầm quan trọng của việc chuẩn
bị cho bé trước khi vào lớp 1, bởi trường tiểu học là một thế giới rất lạ lẫm đối
với bé. Ở đó, bé buộc phải trở nên độc lập hơn so với ở trường mẫu giáo hay ở
nhà. Không chỉ phải “biết ăn biết ngủ” như trước đó, nay bé còn phải “biết học
hành”. Áp lực học tập, tuân thủ kỷ luật ở trường tiểu học có thể khiến nhiều bé
có tâm lý sợ đi học, ngay cả với những bé vốn dạn dĩ trong giao tiếp.
Nhiều phụ huynh tìm cách giải quyết bài toán này bằng cách cho bé học
đọc học viết sớm. Vì vậy, khi các bé mầm non vừa được nghỉ hè, cha mẹ đã tìm
chỗ gửi con đến nhà giáo viên dạy tiểu học để nhờ các cô rèn chữ, tập đọc, làm
toán. Thực ra, việc lo trước tưởng có lợi, nhưng đôi khi lại phản tác dụng. Vì khi
biết trước, đến trường học lại, các bé sẽ thấy nhàm chán, không chú ý, dẫn đến
sự thiếu tập trung. Mặt khác, khi học ở nhà, giáo viên chỉ chú ý đến việc dạy sao
để học sinh đọc được, viết được mà không chú ý rèn cho các cháu kỹ năng học
tập, kỹ năng làm việc trong tập thể, nhóm, dẫn đến sự thiếu thống nhất trong
phương pháp dạy học, làm trẻ thiếu tự tin
18



Làm thế nào để chuẩn bị cho bé vào lớp 1 một cách tự tin và vững vàng
nhất? Để có được tâm thế đó, bé phải biết được cách làm chủ bản thân mình và
làm chủ việc học, chứ không phải là biết đọc biết viết. Và quan trọng hơn, cần có
một môi trường giúp bé chuyển tiếp giữa gia đình/trường mẫu giáo và trường tiểu
học. Đó là một môi trường mà bé vẫn được chơi đùa, được tận hưởng tuổi thơ
nhưng cũng được làm quen dần với những kỹ năng học tập cũng như những kỹ
năng sống thiết yếu để tự tin giao tiếp, hòa nhập với những người xung quanh.
Mặc khác không ít những phụ huynh lại phó mặc con mình cho trường
mầm non dẫn đến việc không tạo ra được sự thống nhất trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ, dẫn đến hiệu quả chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không cao. Chính vì
vậy việc tuyên truyền và phối kết hợp với phụ huynh trong việc chuẩn bị cho trẻ
vào lớp 1 là rất quan trọng.
Chính vì vậy với vai trò là người chuẩn bị tâm thế cho trẻ vững tin bước
vào lớp 1trong các giờ đón trả trẻ tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh về
tình hình học tập của trẻ trên lớp nhất là hai môn toán và chữ cái. Qua đó cũng
nắm bắt được nhu cầu, nguyện vọng của phụ huynh trong công tác chuẩn bị cho
con em mình vào lớp 1.Từ đó tôi tư vấn giúp phụ huynh trong việc lựa chọn
trường, lớp, thời điểm chuẩn bị cho trẻ vào trường tiểu học.
- Tôi đã tuyên truyền và tư vấn cho phụ huynh của lớp mình những nội
dung sau:
+ Chuẩn bị thể lực cho trẻ là một việc làm quan trọng đòi hỏi chúng ta phải
có sự quan tâm sâu sắc. Một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp cho trẻ
phát triển năng lực hoạt động trí tuệ ở trường phổ thông. Người lớn cần phải
hiểu điều đó để tránh cho trẻ suốt ngày phải ngồi tập đọc, tập viết, tập tô, tập vẽ
…. như một học sinh phổ thông thật sự.
+ Dạy trẻ biết cách ứng xử với mọi người xung quanh, lễ phép, kính trọng
người lớn nhằm chuẩn bị dần cho trẻ thích ứng với những quan hệ xã hội ở
trường phổ thông.
+ Giúp trẻ diễn đạt điều mình muốn một cách mạch lạc, rõ ràng.
+ Phụ huynh cần kết hợp với giáo viên để biết cách dạy trẻ phát âm 29 chữ

cái trong chương trình mẫu giáo, cách làm quen với các mẫu chữ in thường, viết
thường, in hoa.
+ Xây dựng cho trẻ một góc học tập gọn gàng, đẹp mắt, phù hợp với điều
kiện sẵn có của mình nhằm giúp trẻ thích thú đối với việc ngồi vào bàn học.
+ Giúp trẻ chọn lựa sách, đọc sách cho trẻ nghe và trẻ có thể “đọc vẹt” sách
nhưng việc đọc như thế có một ý nghĩa quan trọng và rất cần thiết cho việc học
đọc sau này. Ngoài ra cần chọn đồ chơi phù hợp với lứa tuổi trẻ đặc biệt là đồ
chơi chữ cái, số.
+ Phụ huynh cần tạo cho trẻ thói quen tự lập bằng cách khuyến khích trẻ
thực hiện trọn vẹn một vài công việc nhà đơn giản, tự tạo một thời gian biểu học
tập - vui chơi và nghiêm túc thực hiện thời gian biểu ấy.

19


+ Có thể dẫn trẻ đến thăm trường Tiểu học và chỉ cho trẻ biết các phòng,
lớp học, sân chơi…
Kết quả: Phụ huynh của lớp đã phối hợp với giáo viên của lớp rất tốt trong
việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1.
Phụ huynh rất tin tưởng giáo viên. Và đã có nhứng biện pháp và kế hoạch
để giáo dục và chuẩn bị tâm thế cho con sẵn sàng bước vào lớp 1.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau quá trình sử dụng các biện pháp nêu trên để chuẩn bị tâm thế cho trẻ
vào lớp 1, thì tôi đã thu được kết quả như sau:
Phụ lục 1b
* Đối với trẻ
Trẻ đã có sự tiến bộ rất nhiều, mức độ đạt tốt, khá tăng lên rõ rệt, mức độ
chưa đạt giảm hẳn , điều đó phần nào chứng minh các biện pháp tôi đưa ra có
tính khả thi trong thực tiễn, nó góp phần làm phong phú thêm nội dung chuẩn bị
tốt tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi bước vào lớp 1.

* Đối với phụ huynh:
Qua việc việc áp dụng các giải pháp chuẩn bị tâm thế cho trẻ vào lớp 1,
nhờ đó mà trẻ đã có một tâm thế tốt hơn trước rất nhiều làm cho phụ huynh trẻ
an tâm hơn. Con mình không sợ phải đi học lớp 1 nữa, các bậc phụ huynh phấn
khởi luôn dặt niềm tin ở trường mầm non.
* Đối với bản thân
Về bản thân tôi, qua quá trình thực hiện tôi càng thấy mình được nâng cao
hơn về chuyên môn, phương pháp giảng dạy, đặc biệt là hình thức giảng dạy trẻ
linh hoạt, sáng tạo, tự tin hơn
* Đối với đồng nghiệp: Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài được các đồng
nghiệp góp ý đưa ra rất nhiều những sáng tạo và đã được áp dụng vào các giải pháp
giúp cho đề tài nghiên cứu của tôi đạt hiệu quả cao và được được nhân rộng trong
toàn trường .
* Đối với nhà trường: Chất lượng tổ chức hoạt động với đồ vật cho trẻ nhà
trẻ không ngừng được củng cố và nâng cao, chất lượng giáo dục toàn diện có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ và củng cố vững chắc.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Chuẩn bị tâm thế cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1 có vai trò vô cùng quan trọng. Để
đáp ứng được những nhu cầu của hoạt động học tập khi lên tiểu học, giáo viên
phải luôn chú trọng trang bị cho trẻ về mọi mặt, từ thể lực, nhận thức đến các kỹ
năng sống cơ bản…góp phần tạo cho trẻ một tiền đề tốt, để giúp trẻ tự tin hơn
khi bước vào lớp 1.
Từ những kết quả trên tôi rút ra được kinh nghiệm cho bản thân trong việc
chuẩn bị tốt tâm thế cho trẻ 5 - 6 tuổi bước vào lớp 1 như sau:

20


- Giáo viên phải nắm được đặc điểm tấm sinh lý của trẻ 5 - 6 tuổi. Quan

tâm đến từng cá thể và hiểu được một số tâm tư nguyện vọng của trẻ, luôn tôn
trọng trẻ , từ đó cuốn hút trẻ vào các hoạt động một cách tự nguyện.
- Giáo viên năng động, linh hoạt trong giảng dạy, tìm hiểu tài liệu tự học tự
nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức.
- Giáo viên phải có kiến thức về lớp 1 để giới thiệu trước cho trẻ, biện pháp
hình thức đúng đắn trong quá trình giáo dục trẻ, đảm bảo giáo viên không chỉ là
là cô giáo mà còn là người bạn gần gũi thân thiết với trẻ.
- Phải bám sát kế hoạch lớp từ đầu năm và thực hiện đúng vào các chỉ số
của bộ chuẩn trẻ 5 tuổi
- Cần có ý kiến báo cáo đề xuất kịp thời cho Ban giám hiệu trong quá trình
chăm sóc giáo dục trẻ để đảm bảo sao cho trẻ được chăm sóc tốt nhất cả về thể
chất và tinh thần.
- Phải biết lắng nghe, tham khảo, học hỏi kinh nghiệm, góp ý của Ban giám
hiệu cùng đồng nghiệp để chọn lọc tiếp thu ý kiến hay.
- Làm tốt công tác phối kết hợp gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn làm
được những điều trên đòi hỏi người giáo viên phải luôn trao dồi đạo đức nghề
nghiệp, tác phong nhà giáo, nhất là lòng yêu mến trẻ thơ, luôn mong muốn trẻ
phát triển hài hoà hoàn thiện.
3.2. Kiến nghị: Nhà trường, mỗi cô giáo phải thật sự tâm huyết, trách nhiệm, có
kế hoạch và linh hoạt trong thực hiện kế hoạch tạo tâm thế cho trẻ vào lớp 1.
Trên đây là những giải pháp, kinh nghiệm mà tôi đã học hỏi và vận dụng
vào tổ chức các hoạt động cho trẻ năm học vừa qua, vẫn còn nhiều thiếu sót và
vụng về rất mong được sự tham khảo góp ý của cấp trên cũng như bạn bè đồng
nghiệp để tôi có thể vận dụng tốt hơn trong sự nghiệp trồng người của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Thủy, ngày 15 tháng 04 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của

mình viết, không sao chép của người khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Vân

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Việt Nam nét.vn

21


2. Nguyễn Ánh Tuyết - “Giáo trình tâm lý trẻ em lứa tuổi mầm non” NXB
Đại học sư phạm.
3. Vai trò của hoạt động vui chơi trong giáo dục trẻ mầm non
4. Báo giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh ra thứ 5 ngày 27/7/2017
5. Hành trang kỹ năng cho trẻ bước vào lớp 1
6. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non mẫu giáo
lớn (5 - 6 tuổi). NXB giáo dục Việt Nam.
7. Dự án tăng cường khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non - NXB
BGD & ĐT Hà Nội, 2013.
8. Tạp chí giáo dục mầm non số 273.
9. Giáo trình: Giáo dục học mầm non - Đào Thanh Âm - Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.
10. Chương trình giáo dục mầm non (Ban hành kèm theo thông tư số
17/2009/TT- BGDĐT ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo) Tái
bản lần thứ 5.

DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO


22


TẠO, CẤP SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO VÀ CÁC CẤP CAO HƠN ĐỂ
XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: NGUYỄN THỊ VÂN
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường mầm non Nga Thủy
TT

1

2
3

4

Cấp đánh
giá, xếp loại
( Phòng, Sở,
tỉnh)

Tên đề tài SKKN

Nâng cao chất lượng giáo dục dinh
dưỡng và vệ sinh an toàn thực phẩm
lớp mẫu giáo 3-4 tuổi trường mầm non
Nga Hưng
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học
tại trường mầm non Thị trấn Nga Sơn
Ứng dụng công nghệ thông tin trong

xây dựng giáo án điện tử cho trẻ 5-6
tuổi ở trường mầm non Nga Thủy

Phòng GD
Nga Sơn
Sở GD-ĐT
Thanh Hóa
Phòng GD
Nga Sơn
Phòng GD
Nga Sơn
Sở GD-ĐT
Thanh Hóa
Một số kinh nghiệm nâng cao chất Phòng GD
lượng hoạt động góc cho trẻ 5-6 tuổi ở Nga Sơn
trường mầm non Nga Thủy

Kết quả
đánh giá
xếp loại
( A,B
hoặc C)

Năm học
đánh giá xếp
loại

A
2012- 2013
C

A

2004- 2005

A
2014- 2015
C
A

2016- 2017

Người lập
Nguyễn Thị Vân

PHỤ LỤC
Phụ lục 1 a: Bảng khảo sát trẻ đầu năm học: (Tháng 9 năm 2018)
23


Đạt
Chưa đạt
Tổng
Số Tỷ lệ Số Tỷ lệ
số trẻ
trẻ %
trẻ %

Nội dung khảo sát
- Lĩnh vực phát triển thể chất


32

27

84

5

16

32

22

68

10

32

32

26

81

6

19


32

24

75

8

25

32

19

60

22

40

- Lĩnh vực phát triển nhận thức
- Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ
- Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ
- Lĩnh vực phát triển tình cảm- kỹ năng xã hội

DANH SÁCH KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM
TT

Họ tên trẻ


- Lĩnh
vực
phát
triển thể
chất

Đ

1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18.

Đỗ Nguyễn Duy An
Vũ Bình An
Dương Hải Anh

Trần Đức Anh
Phạm Đức Anh
Vũ THị Ngọc Ánh
Phạm Thái Bảo
Vũ Ngọc Gia Bảo
Phạm Ngọc Duy
Trần Văn Dương
Phạm Ng Hải Dung
Trần Ng Trung Hiếu
Trần Thanh Huyền
Phạm Thảo Hiền
Nguyễn Lâm Huy
Phạm Ngọc Uyên
Lê Thị Quỳnh Lan
Trần Khánh Linh



x
x
x
x

- Lĩnh
vực
phát
triển
nhận
thức


- Lĩnh
vực
phát
triển
ngôn
ngữ

- Lĩnh
vực
phát
triển
thẩm
mỹ

Đ

Đ

Đ



x
x
x
x
x
x
x
x


x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

x
x
x
x
x
x
x

x
x

x
x
24


x
x

X
x
x
X
x
x
x
x

x
x
x

X
x
X
x

x
x
x
x



x


x
x
x

x
x
x
x
x
x

Đ

x

x

x



x
x
x
x
x

x

x

x
x
x
x
x



- Lĩnh
vực
phát
triển
tình
cảm- kỹ
năng xã
hội

X
x
x

x
x

X
x

x

X



19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30

31
32

Nguyễn Diệu Linh
Nghiêm Thị Ánh Tuyết
Trần Thế Tùng
Hà Nguyện Thu
Lê Quỳnh Trang
Trần Hoàng Minh Nhật
Lê Huỳnh Phúc
Trịnh Hoài Nam
Vũ Khải Phong
Hoàng Thị Kim Ngọc
Phạm Tài Đức
Phạm Quyết Tiến


x

x
x
x
x

x
x
x
x
x

Tạ Minh Dũng
Nguyễn Xuân Phúc

x
x
x
x
x

x
x

x
x
x
x


x
x
x
x

x
x
x
x

x
x

X
x
x

x

6

x
x
x
x
x
24

X

X

x

x

x
x
x
22 10 26

x
x
x
x

x

x

x
x

5

x
x

x
x


x
x
x
x
x
x
x
27

x

X
x
X
X
x
19 13

8

Phụ lục 1 b: Bảng khảo sát Trẻ cuối năm học: (Tháng 3 năm 2019)
Tổng
số
trẻ

Số
trẻ
đạt


Tỷ
lệ
%

32
32

32
32

100
100

0
0

0
0

32

32

100

0

0

- Lĩnh vực phát triển thẩm mỹ


32

31

97

1

3

- Lĩnh vực phát triển tình cảm- kỹ năng xã hội

32

31

97

1

3

Nội dung khảo sát
- Lĩnh vực phát triển thể chất
- Lĩnh vực phát triển nhận thức
- Lĩnh vực phát triển ngôn ngữ

Số trẻ
Tỷ lệ

không
%
đạt

DANH SÁCH KHẢO SÁT TRẺ ĐẦU NĂM
TT

Họ tên trẻ

- Lĩnh
vực
phát
triển thể
chất

Đ

1
2
3

Đỗ Nguyễn Duy An
Vũ Bình An
Dương Hải Anh



x
x
x


- Lĩnh
vực
phát
triển
nhận
thức

- Lĩnh
vực
phát
triển
ngôn
ngữ

- Lĩnh
vực
phát
triển
thẩm
mỹ

Đ

Đ

Đ

x
x

x
25



x
x
x



x
x
x



- Lĩnh
vực
phát
triển
tình
cảm- kỹ
năng xã
hội
Đ

x
x
x





×