Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN giúp học sinh tiếp cận, lý giải tình yêu cuộc sống trong bài thơ vội vàng của xuân diệu theo hướng mở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.16 KB, 18 trang )

Mục lục
Nội dung

Thứ tự
1

A. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.
2.
3.
4.
2

3
4
5

Lý do chon dề tài
Mục đích
Đôi tượng
Phương pháp nghiên cứu

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

I. Cơ sở lý luận
II. Thực trạng vấn đề
III. Các giải pháp tiến hành giải quyết vấn đề
1.Tìm hiểu chung về tác giả và bài thơ
2 2.Tiếp cận, lý giải tình yêu cuộc sống trong bài
thơ Vội vàng của Xuân Diệu theo hướng mở


2.1Thời gian trong bài thơ Vội vàng và cuộc
sống của tác giả Xuân Diệu
2.2 Tình yêu cuộc sống trong bài thơ Vội vàng
2.3 Niềm khát khao giao cảm với đời
2.4 Về nghệ thuật
3. Các dạng đề
4. Hiệu quả của sáng kiến
C. KẾT LUẬN

Trang
1
1

2
2
3
3
3
3
3
6
8
10
11
16
17

1



A. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Chương trình giáo dục phổ thông môn ngữ văn là môn học công cụ. giúp
trang bị cho học sinh công cụ để học tập, sinh hoạt, nhân thức về xã hội con
người, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, đặc biệt là tư tưởng nhân văn và tinh thần
thẩm mỹ. Bản thân văn học nghệ thuật cũng là phương tiện giao tiếp, giao tiếp
tư tưởng, thẩm mỹ. Do đó, nhiêm vụ của công tác giảng dạy môn Ngữ văn trong
trường phổ thông tương đối mặng nề
Môn Ngữ văn trong chương trình phổ thông ngoài những văn bản nhật
dụng ra còn phần lớn là các văn bản văn học nghệ thuật. Đây là phần trọng tâm
của chương trình, cũng là phần có sức khơi gợi những rung cảm, xúc cảm thẩm
mỹ sâu xa nhất trong lòng mỗi con người. Đây cũng là phần tương đối khó đối
với học sinh vốn là nhưng đứa trẻ đang trưởng thành, ăn chưa no lo chưa tới. Ở
chương trình lớp 11, trong phong trào Thơ mới xuất hiện một loạt những bài thơ
đặc sắc như: Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử, Tràng giang- Huy Cận, Vội vàng Xuân Diệu đều là những thi phẩm hết sức độc đáo về mặt nghệ thuật, nội dung,
cách cảm nhân sự vật…Đặc biệt là bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, bài thơ tôi
thấy học sinh rất khó tiếp cận, chiếm lĩnh.
Đọc và học bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu, tất cả chúng ta đều nhận
thấy tình yêu cuộc sống cháy bỏng và cuồng nhiệt của thi sĩ. Nhưng để truyền
thụ những tri thức giúp học sinh hiểu một cách sâu sắc về bài thơ, đặc biệt là
truyền cho học sinh tình yêu cuộc sống, thái độ sống tích cực của ông không
phải là dễ.
Làm thế nào để học sinh có thể lý giải một cách thấu đáo niềm yêu sống
mãnh liệt của thi sĩ? Cũng như giải mã những tín hiệu nghệ thuật của bài thơ?
Đã không ít giáo viên có những hướng giải quyết vấn đề hết sức thỏa đáng.
Là người đứng trên bục giảng, lại tiếp xúc với đối tượng học sinh ở Trung
tâm giáo dục thường xuyên, là đối tượng có xuất phát điểm thấp, tôi chọn đề tài
nghiên cứu: “Giúp học sinh tiếp cận, lý giải tình yêu cuộc sống trong bài thơ
Vội vàng của Xuân Diệu theo hướng mở” mà theo tôi thấy có thể dễ và gần với
tư duy, nhận thức, lứa tuổi của học sinh Trung tâm. Với mục đích giúp các em có

cái nhìn rõ hơn, sâu hơn, mạch lạc hơn về Xuân Diệu và về bài thơ “Vội vàng”
2. Mục đích nghiên cứu
Giúp học sinh có cái nhìn sâu hơn, cụ thể hơn, mới hơn về bài thơ Vội
vàng của tác giả Xuân Diệu
Đưa ra nhiều hướng chiếm lĩnh một thi phẩm văn học
Đáp ứng yêu cầu đổi mới dạy học văn trong nhà trường phổ thông của
ngành giáo dục.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Tác giả Xuân Diệu được nhìn nhận trong thế giới của Thơ mới (1932-1945)
- Bài thơ “Vội vàng” được đặt trong tập “Thơ thơ” – thơ Xuân Diệu trước năm
1945
- Tiếp cận và lý giải tình yêu cuộc sống trong bài thơ Vội Vàng của Xuân Diệu
theo hướng mở
4. Phương pháp nghiên cứu

2


- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp xử lý: Trên phương pháp dạy học phù hợp qua kinh
nghiệm của bản thân.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
Việc dạy và học môn Ngữ văn trong trường phổ thông trước và nay luôn
là vấn đề lớn đối với thầy và trò. Trong đó dạy học thơ lại là vấn đề lớn hơn.
Xuất phát từ đặc trưng của thơ, thơ là hình thức phản ánh cuộc sống, thể hiện
những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giầu hình ảnh và có nhịp
điệu, thêm nữa mỗi nhà thơ lại có một phong cách thể hiện riêng…, điều này rất
khó đối với học sinh trong tiếp nhận văn bản thơ.

Các tác phẩm Thơ mới được học trong chương trình là những tác phẩm
hay, lạ, đặc sắc… Phương pháp tiếp cận khác so với thơ ca trung đại mà các em
được học ở lớp 10.
Xuân Diệu là nhà thơ có cảm xúc phức tạp, đa chiều, là “nhà thơ mới nhất
trong các nhà thơ mới”. Thơ ông vừa trữ tình vừa mang tính luân đề. Trong thơ
(cũng như trong cuộc đời thực) ông luôn rạo rực, say mê tình yêu với đất nước,
với con người, cuộc sống trần thế. Có thể nói ông đã đóng “mác” Xuân Diệu vào
nền thơ hồi ấy, đóng góp một không gian, một thế giới Xuân Diệu. Các cụ cổ
điển (thơ trung đại) không có khuynh hướng tạo không gian đặc thù, không gian
riêng, nhìn chung thơ cũ đều: sâu sắc, thâm trầm, khái quát nhưng không gian
thơ vẫn là không gian thực trung của cõi người. Đôi lúc Thế Lữ, Tản Đà cũng có
vươn lên khỏi không gian phi thực bằng cách bay lên tiên. Tiên thì đẹp, thì lãng
mạn quá rồi nhưng mất dấu mặt đất, mất chất diệp lục của sự sống, của nắng trời
thì cô tiên ấy chẳng khác nào bức tượng thạch cao.
Xuân Diệu lại khác, ông đã tạo cho mình một thế giới, một không gian
riêng, Xuân Diệu bám lấy trần gian rồi kì ảo hóa nó, tạo nên một trần gian kỳ ảo,
kỳ ảo mà đậm vị trần gian. Hay nói cách khác không gian thơ của Xuân Diệu
nồng ấm da thịt trần gian đa sự, giàu sức sống.
Xuân Diệu đã mang đến chốn nước non lặng lẽ này một lối sống hết sức
hiện đại: lối sống cao độ giao cảm, tận hưởng, tận hiến. Một quan niệm thẩm mỹ
hiện đại: lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp.
Xuân Diệu là một cây bút có nhiều tìm tòi và cách tân nghệ thuật ngôn từ;
lối diễn đạt chính xác, thông tin cụ thể, tỉ mỉ, mang tính vi lượng.
Trên hết những vấn đề đã nói ở trên, đó là ở Xuân Diệu có một tâm hồn đặc biệt
nhạy cảm với thời gian… Như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nói:
Nghiên cứu Xuân Diệu trước hết phải nghiên cứu yếu tố thời gian.
Với tất cả những phức tạp trong thơ Xuân Diệu như đã nói ở trên, Tôi đã
hướng dẫn học sinh cách tiếp cận mở để lý giải tình yêu cuộc sống trong bài
Vội vàng của Xuân Diệu.
II. Thực trạng của vấn đề


3


Xuân Diệu là một tác gia lớn, với nhiều đóng góp cho văn học nước nhà
nhưng thời lượng học về ông trong chương trình phổ thông còn quá ít, học sinh
không có điều kiện để tìm hiểu sâu sắc về tác giả cũng như thi phẩm “Vội
vàng”.
Hơn nữa, “Vội vàng” lại là thi phẩm đặc sắc, có thể nói là tiêu biểu cho
phong cách thơ Xuân Diệu. Thi phẩm chứa chan cảm xúc xuân tình, song nó
cũng là một tác phẩm luận đề, vừa nồng nàn một tình yêu thiên nhiên, cuộc sống
lại vừa băn khoăn, trăn trở. Chính thi sĩ đã từng trăn trở “Tôi sung sướng. Nhưng
vội vàng một nửa”.
Mặt khác, đối tượng học sinh Trung tâm giáo dục thường xuyên vốn có
xuất phát điểm thấp lại không có điều kiện để mở rộng kiến thức, vốn sống nên
khi bắt gặp một tác giả phức tạp như Xuân Diệu các em thường lúng túng. Bài
kiểm tra thường bị điểm kém, cách triển khai vấn đề còn gặp nhiều vấn đề.
Xuất phát từ những lí do trên và qua thực tế dự giờ của đồng nghiệp,
chúng tôi đã lựa chọn đề tài này. trong khuôn khổ một sáng kiến kinh nghiệm có
điều gì còn khiếm khuyết mong các đồng chí thông cảm!
III. Các giải pháp tiến hành để giải quyết vấn đề
1.Tìm hiểu chung về tác giả và bài thơ
Xuân Diệu "1916 - 1985" bút danh Trảo Nha tên khai sinh là Ngô Xuân
Diệu. quê cha huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh; quê mẹ Gò Bồi xã Tùng Giãn huyện
Tuy Phước tỉnh Bình Định. Xuân Diệu lớn lên ở Qui Nhơn dạy hoc ở Mỹ Tho,
sau đó ra Hà Nội sống bằng nghề viết văn. Ông tham gia mặt trận Việt Minh
trước
cách mạng tháng 8 năm 1945. Cả cuộc đời ông gắn bó với nền văn
học dân tộc.
Xuân Diệu là nhà thơ "Mới nhất trong các nhà thơ mới" (Hoài Thanh)

.Ông đã đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, nguồn cảm xúc mới,
một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.
Ông là
nhà thơ của tình yêu, mùa xuân và tuổi trẻ. Ông được nhà nước
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996)
Tác phẩm chính: Thơ thơ 1938), Gửi hương cho gió(1945) Riêng chung
(1960), Mũi Cà Mau - Cầm tay (1970)
Bài thơ Vội vàng được in trong tập Thơ thơ
2.Tiếp cận và lý giải tình yêu cuộc sống trong bài thơ Vội vàng theo hướng
mở
2.1. Thời gian trong bài thơ “Vội vàng” và cuộc sống của tác giả Xuân
Diệu
* Thời gian trong bài thơ “Vội vàng”
Để hiểu được “Vội vàng”, phải hiểu được yếu tố thời gian trong thơ ông.
Xuân Diệu luôn băn khoăn về thời gian. con người sinh ra từ thời gian. Mà thời
gian có không gian của nó. Chính vì sự mâu thuẫn không thể giải quyết được
giữa tình yêu cuộc sống và thời gian đời người nên Xuân Diệu đã trải lòng trong
“Vội vàng”. Lo sợ trước thời gian trôi chảy mà Xuân Diệu phải rên lên:
“ Mà Xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
Xuân Diệu không phải là người đầu tiên nhận thức về thời gian. Các nhà
thơ xưa cũng đã từng nói:

4


“Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê”
(Nguyễn Du)
Hay: - “ Thời gian như bóng câu qua cửa sổ”
- “ Thời gian như bóng ngả sau lưng”

Có người nói thời gian vun vút thoi đưa…là một nhà thơ mới có lẽ một
trong những cái mới nhất mà Xuân Diệu mang đến là ý thức con người về sự
trôi chảy của thời gian, thời gian của sự sống, đời người.
Xuân Diệu chọn cách nói của riêng mình, xây dựng thủ pháp nghệ thuật
tương phản đối lập để chỉ ra đời người là hữu hạn và mùa xuân, tuổi trẻ của một
đời người là một đi không trở lại
“Xuân đang tới, nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian;
Nói lam` chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lạị
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt....
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi ?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa ?”
Cả một hệ thống tương phản: “ tới – qua; còn non – sẽ già; hết – mất;
rộng – chật; vô hạn – hữu hạn”,….. Cứ như nước thời gian mạch nguồn tuôn ra.
Cách nhìn nhận thời gian vô cùng tinh tế độc, lạ: trong cái hiện tại đã bắt đầu
trong quá khứ, cái đang có cũng đang mất dần đi. Đây cũng là quan niệm chưa
từng có trong thơ truyền thống.
Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian tuần hoàn, lặp lại, nhịp thời
gian muôn đời không đổi, chính vì thế con người bao giờ cũng sống ung dung tự
tại. Nhưng với thi sĩ lãng mạn, thời gian một đi không trở lại, cuộc sống vận
động trong sự phát triển vừa phủ định, vừa khẳng định và cái phủ định nằm ngay

trong cái khẳng định.
“Tới – non” là sự khởi đầu của một quá trình còn “qua – già” là sự kết
thúc của quá trình gắn với dự cảm về tương lai. Các từ “hết – mất” gợi sự chấm
dứt của một quá trình sống. Cụm từ “Mùa xuân” được lặp lại nhiều lần trong ba
dòng thơ chỉ ra một quá trình vận động của thời gian đồng thời cũng đập vào ý
thức của người đọc, lay tỉnh ý thức về thời gian. Thời gian trôi đi đồng nghĩa với
sự sống tàn phai và điều ấy làm lòng người đau đớn, hối tiếc, nhất là khi lòng
người ham sống thì càng ý thức rõ về sự tàn phai, cái tất yếu của thời gian. Khi
hiểu được triết lý thời gian của thi sĩ, người đọc sẽ càng đồng cảm với khát vọng
cháy lòng “Muốn tắt nắng, buộc gió” của ông.

5


Ý thức thời gian của Xuân Diệu đã thể hiện những nghiền ngẫm triết học
rất tinh tế, rất có chiều sâu. Điều đáng nói là Xuân Diệu quá nghiêng về cái qua,
cái già nên rất lo sợ về cái chết, cái mất. Vì thế, Xuân Diệu trở nên vội vàng đến
cuống quýt. Câu thơ ở những dòng tiếp theo có màu sắc bi kịch của nhận thức
tràn vào tâm hồn và cảm xúc:
“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân của trời đất có thể tuần hoàn nhưng đời
người có giới hạn mà tuổi trẻ thì lại ngắn ngủi. Trong khi đó khao khát của con
người là vô biên: khao khát mùa xuân, tình yêu, tuổi trẻ,…Thế nhưng khao khát
chủ quan không chiến thắng được điều kiện khách quan.
“ Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật”
Xuân Diệu không hề giấu giếm những cảm xúc, những suy nghĩ, những
bâng khuâng, nuối tiếc hay giận hờn. Xuân Diệu là thế, bao giờ cũng thành thực
ngay cả trong những cảm xúc sâu kín nhất.
Nỗi đau, thời gian vừa mang tính bi kịch vừa là kết quả của tình yêu. Bởi

nếu không yêu cuộc sống đến tha thiết, sâu sắc thì sao con người biết đau khi
nhận ra thời gian luôn trôi chảy, không gì là mãi mãi, nhất là mùa xuân, tuổi trẻ
càng ngắn ngủi, hữu hạn.
Với Xuân Diệu cuộc sống nơi vườn trần đều ít nhiều mang bi kịch về thời
gian:
“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”
Xuân Diệu nhìn vào đâu cũng thấy mất mát, chia ly. Nỗi đau thấm vào
từng cơn gió, tiếng chim. Gió khẽ hờn, chim ngừng hót vì sợ thời gian trôi chảy.
Với Xuân Diệu chỉ có thời tươi, thời phai, chính vì sợ cái thời phai mà thi sĩ đã
thốt lên lời than:
“ Chẳng bao giờ, Ôi!Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”
Ở đây câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa đã làm nổi bật nổi lòng
vừa băn khoăn, lưu luyến, ….đó cũng là sắc tình rất riêng của “Vội vàng”. Chỉ
có Xuân Diệu mới nhận ra tất cả: màu thời gian, mùi thời gian, sắc thời gian và
tuổi trẻ. Cái tôi của Xuân Diệu là cái tôi khát thèm sự sống, yêu sự sống đến rát
bỏng, hết mình. Chính vì yêu đời, tha thiết với cuộc sống mà cái tôi ấy không
muốn bỏ qua dù chỉ là một giây, một phút cuộc sống hiện tại:
“Mở miệng vàng… và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi”
(Mời yêu)
Xuân Diệu rất đồng cảm với Bô–Đơ Le khi ông từ bỏ trường phái tượng
trưng Pháp từng thốt ra: “ Ôi đau đớn thời gian ăn cuộc sống”
Cho nên không để thời gian trôi chảy, cái tôi ấy tìm cách vượt thời gian
bằng cả tốc độ sống và cường độ sống. Cái tôi Xuân Diệu ấy từng thể hiện khát
vọng mãnh liệt muốn “Tắt nắng, buộc gió” để níu giữ mãi mãi vẻ đẹp của cuộc
sống như nhà phê bình Hoài Thanh nói: “Cái tôi của Xuân Diệu không còn là
con hổ ngự trị nơi rừng xanh, không cần là con chim đại bàng bay một lần chín


6


vạn dặm”, cái tôi ấy quyết định cứ sừng sững nơi cõi trần, yêu để sống, cổ động,
tích cực, giục giã, vội vàng. Xuân Diệu chọn lối sống động trước để bắt kịp
mạch chảy của thời gian: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.
Thi sĩ cũng chủ động, tích cực, kêu gọi, nhắn nhủ, yêu cầu mọi người hãy
tận hưởng những gì ngon nhất, đẹp nhất mà thiên nhiên, cuộc đời ban tặng.
Thiên nhiên mùa xuân ở thời điểm mà vạn vật dậy hương, rộn rã âm thanh và
tràn đầy sức sống. Khi đối diện với cuộc sống ấy hãy giao cảm và hưởng thụ ở
mức độ và cường độ cao nhất. Đó chính là niềm hạnh phúc kỳ diệu nhất, thái độ
tôn vinh sự sống, trả cho sự sống cái mùa xuân trần thế đích thực. Có thể nói
Xuân Diệu đã mang đến cho chốn nước non lặng lẽ này một quan niệm nhân
sinh mới mẻ, tiến bộ
* Thời gian với cuộc sống thường ngày của tác giả Xuân Diệu
Theo nhà nghiên cứu và phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh – Trong
cuốn hồi ký về Xuân Diệu, ông đã phát hiện ra ở Xuân Diệu lúc sinh thời rất sợ
thời gian và luôn tìm cách để chiến thắng thời gian:
Xuân Diệu là tấm gương lao động quyết liệt và miệt mài: đọc sách, dịch
sách, viết văn, viết thơ, nói chuyện,…Ông lao động không ngừng nghỉ. Cả trong
lúc nghỉ ngơi ông cũng không ngừng học tập. Những lúc rỗi rãi ông thường mở
nhạc cổ điển ra nghe, ông nói: Cứ nghe mãi dù không hiểu nó cũng thấm được
vào người.
Xuân Diệu lao động miệt mài như vậy cũng là cách ông chống lại thời
gian, chống lại cái chết – nghĩa là trở thành bất tử - bất tử trong lòng người.
Xuân Diệu rất sợ chết – Từ thuở thiếu thời ông đã nghĩ đến cái chết đã lo đến
khi giã từ cõi đời này mà không ai nhớ đến mình. Để người đời không quên
được mình, để được sống mãi với nhân loại, ông đã chọn cách đến với thơ, ông
gọi là “thơ trái tim”. Văn chương, thơ phú là phương tiện để ông sống mãi trong
lòng người đọc, một thứ vũ khí chống lại cái chết. Có thể nói cả cuộc đời lao

động nghệ thuật quyết liệt của Xuân Diệu là quá trình chiến đấu với cái chết.
Để chống lại thời gian Xuân Diệu luôn đòi hỏi cao độ, ông rất sợ người ta
lạnh nhạt với mình, nên sinh ra hay hờn dỗi. Xuân Diệu rất thích đi nói chuyện –
đi nói chuyện là yêu cầu tự thân của ông. Ông có nhu cầu được tiếp xúc, được
nói chuyện với nhiều người, thật nhiều người. Được thêm một người biết mình
ông rất sướng nên ai mời ông cũng đi, từ các bà cấp dưỡng đến nông trường viên
mời là ông đi ngay. Thậm chí ông còn gợi ý để người ta mời. Đương thời, ông
thích được nói chuyện với sinh viên và giáo viên vì những đối tượng này sẽ giúp
ông sống lâu hơn và sống được nhiều hơn trong lòng nhân gian.
2.2 Tình yêu cuộc sống trong bài thơ “Vội vàng”
Xuất phát từ mối lo sợ thời gian trôi chảy, về sự ngắn ngủi của kiếp người,
về cái chết như là một kết cục không thể tránh khỏi. Sống là hạnh phúc lớn lao
kỳ diệu, mà sống là tận hưởng và tận hiến. Đời người ngắn ngủi, cần tranh thủ
sống hết mình, sống đã đầy, thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, chạy đua
với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã gấp gáp trong Xuân Diệu.
“Vội vàng” là hai từ diễn tả đầy đủ nhất động thái sống của Xuân Diệu.
Hoài Thanh từ khi viết thi nhân Việt Nam đã nhận thấy “Xuân Diệu say đắm
tình yêu, say đắm cảnh đời, sống vội vàng, cuống quýt” nên đặt cho bài thơ tựa

7


đề “Vội vàng” đó hẳn là cách tự bạch, tự họa của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ
rất hiểu mình.
Quan điểm sống ấy mang ý nghĩa tích cực nhằm phát huy cao độ cái tôi cá
nhân trong thời đại của tác giả.
* Những ước muốn kỳ dị, ngông cuồng
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi”
Những lời tuyên bố kỳ dị, ngông cuồng đó thực chất bên trong lại chứa
đựng một khát vọng đẹp: Chặn đứng bước đi của thời gian để vĩnh viễn hóa vẻ
đẹp của cuộc đời hay nói cách khác: Xuân Diệu dùng thơ để vĩnh cửu hóa
khoảng cách, vĩnh cửu hóa sự sống.
Bốn dòng thơ với điệp khúc “Tôi muốn” Xuân Diệu đã để cái tôi xuất
hiện như một sinh mệnh vô cùng đẹp đẽ, khẳng định vị trí của mình, cái tôi khát
khao “tắt nắng, buộc gió” để níu giữ lại vẻ đẹp của trời đất “Màu đừng nhạt mất,
hương đừng bay đi”. Chính cái ham muốn ấy đã hé mở một lòng yêu cuộc sống
bồng bột mà vô cùng tha thiết rạo rực cũng rất đắm say của thi sĩ với thế giới
thắm sắc, đượm hương này.
*Thiên đường trên mặt đất
Như đã nói ở trên, cái lãng mạn của Xuân Diệu nồng ấm da thịt trần gian
đa sự, giàu sức sống. Xuân Diệu bám lấy trần gian rồi kỳ ảo hóa nó rồi tạo nên
một trần gian kỳ ảo. Có điều cái kỳ ảo của Xuân Diệu đậm vị trần gian nên có
sức sống lâu bền.
Đó là một thế giới đầy mầu sắc, hương vị, âm thanh, ánh sáng. Vạn vật
dưới ngòi bút của Xuân Diệu đều trở nên mới mẻ, hấp dẫn, ngọt ngào tình tứ,
rạo rực, đương ở độ xuân thì. Đó là cái chấp chới của ong bướm, xao xuyến của
lá cành, e ấp tình tứ của yến anh.
Việc sử dụng cụm từ “này đây” 5 lần diễn tả sự sống ngồn ngộn, phơi bày,
sự phát hiện liên tiếp vẻ đẹp của sự sống từ cỏ cây, hoa lá đến dáng vẻ mê say,…
tất cả đang ở độ đẹp nhất, lên hương nhất. Có người nhận xét: “Thiên nhiên
trong thơ Xuân Diệu hiện lên như một mảnh vườn tình ái mà vạn vật đương lúc
lên hương” lại có người nhận xét: “Xuân Diệu yêu thiên nhiên, tả thiên nhiên mà
thực chất là đang tình tự với thiên nhiên”.
Điệp từ “này đây” như một lời mời gọi nồng nàn tha thiết, thi sĩ muốn chỉ
cho người đọc thấy cuộc sống hiện ra với rất nhiều dáng vẻ, tất cả cứ ngồn ngộn,
tươi rói, trẻ trung:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

8


Những hình ảnh, sắc màu, âm thanh cứ tự nhiên tràn vào trong thơ của
Xuân Diệu ngọt ngào và quyến rũ. Đó là cái tình tứ của ong bướm, là màu xanh
tràn sức sống của hoa đồng nội, là những chuyển động tinh tế của cành lá phơ
phất, là âm thanh rạo rực của yến anh,…qua những phát hiện của thi nhân tất cả
cũng trở nên mới mẻ, tình tứ và dạt dào nhựa sống, đọc mỗi dòng thơ của Xuân
Diệu dường như ta bắt gặp cái ngạc nhiên xen lẫn thú vị của thi nhân trong mỗi
lần khám phá vẻ đẹp của tự nhiên, cuộc sống.
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét:“Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai,
xua ai nấy về hạ giới” với Xuân Diệu, cõi đời trần thế như giữa mùa xuân. Tình
yêu hiện hữu như một bữa tiệc thịnh soạn. Thi sĩ dẫn dắt người đọc khám phá,
phát hiện những gì tuyệt vời nhất của tự nhiên tạo vật: từ ong bướm say tuần
tháng mật đến hoa cỏ yến anh đang ở độ nồng nàn phơi phới.
Xuân Diệu đã phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất, thiên đường ấy
chính là cuộc sống quanh ta. Những câu thơ phơi phới, trẻ trung gợi ra điệu sống
trẻ, tiếng lòng trẻ. Những tia nắng của buổi bình minh như ánh mắt của người
thiếu nữ. Chỉ một hình ảnh thôi nhưng nó làm cho vạn vật đất trời trở nên ấm áp
và Xuân Diệu ngỡ ngàng nhận ra:
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
Một chữ “ngon” đã chuyển đổi cảm giác một cách thần tình, lạ và táo bạo.
Xuân Diệu đã cụ thể hóa vẻ đẹp của tháng giêng để người đọc có thể cảm nhận

nó một cách cụ thể nhất, sâu sắc nhất. “Cặp môi gần” diễn tả một tình yêu ở độ
đắm say nhất, nồng nàn tha thiết nhất. Mùa xuân mang vẻ đẹp mơn mởn, tình
tứ, ngọt ngào khiến tất cả chúng ta đều khao khát tận hưởng. Câu thơ của Xuân
Diệu như truyền đến cho người đọc cái phần ngọt ngào nhất của tự nhiên và
cuộc đời hay nói cách khác: Xuân Diệu đã cảm nhận vẻ đẹp của tự nhiên bằng
những từ ngữ có màu sắc nhục cảm.
Có người từng nói Xuân Diệu bước ra khỏi chữ tình, Xuân Diệu không
còn là Xuân Diệu nữa, thi sĩ đã xem mùa xuân như một giai nhân và yêu mùa
xuân bằng cảm xúc của một người tình. Nếu trong thơ xưa vẻ đẹp của tự nhiên
luôn là thước đo chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người. Với Xuân Diệu thì ngược
lại, chỉ có con người, mùa xuân tuổi trẻ mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp.
Để có thể vẽ được những nét vẽ thần tình về thiên đường nơi mặt đất như
vây, quả là Xuân Diệu có một trái tim đa tình, một tâm hồn đa cảm, luôn nhìn
cuộc sống bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn. Với thi sĩ, mùa xuân, tuổi trẻ, tình
yêu là phần ngon nhất của cuộc đời.
2.3 Niềm khát khao giao cảm với đời
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh trong bài “Tư tưởng và phong cách
một nhà thơ lớn: Xuân Diệu” đã viết: “ Tư tưởng nghệ thuật của Xuân Diệu là
niềm khát khao giao cảm hết mình với cuộc đời trần tục, trần thế này”
Xuân Diệu là người đầu tiên đưa vào thơ ca Việt Nam, tình yêu thực sự là
tình yêu. Nghĩa là sự giao hòa tuyệt đối từ nhục thể đến tâm hồn. Một cách tân
quan trọng nữa của Xuân Diệu về thi pháp: Coi con người giữa tuổi trẻ tình yêu
là chuẩn mực của cái đẹp. Đúng thế, thơ ông bao giờ cũng khát khao yêu
thương, khát khao được cảm thông, chia sẻ với người đời. Xuân Diệu luôn tìm
cảm hứng lãng mạn ngay trên cuộc đời trần thế này:

9


“Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ

Một giây cũng cam, một phút cũng đành”
Hay:
“Tôi chỉ là cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đóa nam châm”
Trong tập “Thơ thơ” cái tôi ấy luôn thể hiện niềm khát khao sống mãnh
liệt, huy hoàng, một cái tôi luôn thành thật cho dù có được đón nhận hay không.
Nguyễn Đăng Mạnh có kể trong hồi ký của mình, lúc đương thời Xuân
Diệu rất sợ sự lạnh nhạt của người đời nên bất kể ai đến chơi, đến thăm anh đều
tiếp một cách niềm nở, thậm chí đó là người anh ghét. Chỉ vì sợ lần sau nó
không đến nữa. Anh từng nói: “Người ta yêu vờ yêu vịt còn hơn là lạnh hơn
tiền”
Thì ra Xuân Diệu rất sợ cô đơn, rất lo không ai thương mình, không ai
nhớ đến mình, tìm đến mình. Với “Thơ thơ” Xuân Diệu đã thoát khỏi hệ thống
thi pháp ước lệ của thơ cũ. Ông mang đến cho thơ một cách nhìn mới với một
tâm hồn trẻ trung luôn rạo rựa tha thiết. “Vội vàng” và nhiều bài thơ khác của
Xuân Diệu thường gây ấn tượng với công chúng bởi những lời kêu gọi kiểu :
Nhanh với chứ! Vội vàng lên với chứ! Em ơi em! Tình non sắp già rồi! hoặc
Gấp lên em! Anh rất sợ ngày mai! Đời trôi chảy tình ta không vĩnh viễn!
Khi thi nhân cất cao những lời kêu gọi: Mau lên thôi! Nhanh với chứ! Vội
vàng lên với chứ! Hoài Thanh đã hóm hỉnh nói rằng: “đã làm vang động chốn
nước non lặng lẽ”. “Vội vàng” là lời tự bạch của một cái tôi khát khao giao cảm
với đời. Xuân Diệu đã bày tỏ những cảm xúc yêu thương một cách chân thực
nhất. Không ngần ngại bày tỏ tình yêu sự sống đến cuồng nhiệt, si mê. Nhưng
rồi Xuân Diệu cũng nhận ra cái đẹp không tồn tại vĩnh viễn, thời gian trôi đi,
mùa xuân sẽ qua đi, tuổi trẻ tình yêu sẽ hết,… cho nên ông luôn muốn vĩnh viễn
hóa cái đẹp bằng nguồn sống từ chính mình. Cái đích cuối cùng hay điểm kết
thúc của quá trình vội vàng là khát vọng sống được cụ thể hóa bằng quan niệm
sống tích cực với lời giục giã:
“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”
Nếu như mở đầu bài thơ là một cái tôi sừng sững với khát vọng chặn đứng

thời gian để giữ mãi vẻ đẹp của tự nhiên, trời đất “Nắng đừng nhạt mất, màu
đừng phai” thì ở khổ cuối, cái tôi của Xuân Diệu quyết định bám níu vào sự
sống bằng sự thôi thúc, tận hưởng, chiếm lĩnh từng khoảnh khắc, sắc màu,
hương vị cuộc đời trần thế. Xuân Diệu quan niệm: thời gian mãi mãi mất đi,
tháng ngày hữu hạn trong cái giới hạn ba vạn sáu nghìn ngày, vì thế trong từng
khoảnh khắc của mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu càng trở nên quý giá. Thi sĩ giang
tay đón nhận tất cả những gì là hữu hình hay vô hình, gần hay xa mà cuộc sống
ban tặng. Trong khu vườn tình ái ấy chàng lãng tử Xuân Diệu phiêu du với
“Mây đưa, gió lượn, cánh bướm, tình yêu”. Nếu như hình ảnh nàng xuân trong
thơ Nguyễn Bính gợi vẻ đẹp của gái quê mộc mạc, bình dị thì hình ảnh nàng
xuân trong thơ Xuân Diệu bao giờ cũng hiện lên yêu kiều và rất nồng nàn. Xuân
Diệu như đã bộc lộ cảm xúc trong từng hơi thở, giọng thơ không còn chút băn
khoăn mà tất cả đều trở nên vội vàng, gấp gáp.

10


Sự thay đổi trong đại từ nhân xưng “tôi” đến “ta”, kết hợp với các động từ
mạnh được sử dụng theo lối tăng tiến đã thể hiện trái tim dạt dào với nguồn sống
của thi sĩ . Thể hiện một tình yêu hết mình cho chính cuộc đời này. Trong một
bài văn xuôi Xuân Diệu đã từng muốn lòng mình như phấn thông vàng, đem
tình yêu chia khắp thế gian. Thì ở đây, tình cảm ấy không chỉ còn của riêng
Xuân Diệu nữa, dường như thi sĩ muốn tất cả những người trẻ tuổi, nhất là
những người trẻ lòng, hãy sống hết mình bằng tất cả tình yêu mãnh liệt với cuộc
sống này.
Với Xuân Diệu, cuộc đời trần thế này là một bữa tiệc thịnh soạn với hình
ảnh tươi non đầy hương sắc. Ông đã sử dụng rất nhiều các mỹ từ “cánh bướm
mơn mởn tình yêu cỏ rạng…..” Bằng bút pháp so sánh ẩn dụ thiên nhiên được
cảm nhận bằng da thịt, bằng sự thức nhọn của tất cả giác quan
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”

Ngôn ngữ thơ càng về cuối càng trở nên mạnh mẽ, mang vẻ đẹp trần thế.
Người đọc có cảm giác, ngôn ngữ thơ, hình ảnh thơ không qua dụng công nghệ
thuật mà nó như hiện thực đời sống tràn vào trong thơ. Cảm xúc từ câu thơ trên
tràn xuống câu thơ dưới qua hiện tượng vắt dòng cho thấy cảm xúc của thi sĩ
trước tự nhiên và cuộc đời là không giới hạn.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
-Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người"
Cảm xúc thơ càng trở nên bùng nổ trong một khát vọng chiếm lĩnh, trong
một thái độ sống hoàn toàn chủ động: “từ ôm, say, thâu, riết, cắn” là một hành
trình khát khao hòa nhập – sở hữu – ham muốn đến vồ vập. Xuân Diệu không
chỉ say mê mà còn khát thèm sự sống đến tham lam, cuồng nhiệt. Xuân Diệu
không chỉ yêu sự sống bằng sự bồng bột của trái tim mà bằng ý thức muốn hành
động. Xuân Diệu quả thực đã xây lầu thơ trên mặt đất bằng một tâm hồn rộng
mở với một quan điểm nhân sinh bám riết lấy đời: “ Thà một phút huy hoàng rồi
chợt tắt, còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”.
Không dừng lại ở đó, tác giả còn sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự
tận hưởng: “Chếnh choáng, đã đầy, no nê…..” diễn tả niềm hạnh phúc được
sống cao độ với cuộc đời. Đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh đã
từng nói “Vội vàng là bài thơ ở đó Xuân Diệu có trái tim sôi sục, cặp mắt xanh
non, háo hức. Sự sống với cái tôi trong quan hệ gắn bó với đời, ở nhịp thơ hăm
hở, quấn quýt, ở những hình ảnh táo bạo, đầy rẫy cảm giác và có tính sắc dục”
2.4 Về nghệ thuật
* Nét độc đáo trong cấu tứ

Bài thơ có sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố: trữ tình và chính luận trong
đó chính luận đóng vai trò chủ yếu. Yếu tố trữ tình được bộc lộ ở những rung

11


động mãnh liệt trước vẻ đẹp của tự nhiên và cuộc đời, bên cạnh những ám ảnh
kinh hoàng khi phát hiện về sự mong manh của cái đẹp, của tình yêu, tuổi trẻ
trước sự hủy hoại của thời gian. Mạch chính luận là hệ thống lập luận lý giải về
lẽ sống vội vàng, thông điệp mà Xuân Diệu muốn gửi cho người đọc được trình
bày theo lối quy nạp từ nghịch lý mâu thuẫn đến giải pháp.
* Những cách tân, sáng tạo trong cú pháp và ngôn ngữ thơ:
Xuân Diệu có nhiều sáng tạo trong cách tạo ra cú pháp mới của câu thơ.
Hình ảnh, cách diễn đạt, ngôn từ mới mẻ, lạ, tân kỳ. Ví dụ: Trong đoạn thơ cuối,
tác giả đã táo bạo trong việc sử dụng một hệ thống từ ngữ tăng cấp như “ôm”
(Ta muốn ôm), “riết” (Ta muốn riết), “say” (Ta muốn say), “thâu”(Ta muốn
thâu),…. Và đỉnh cao của hành động tăng cấp là hành động “cắn” vào mùa xuân,
cuộc đời để thể hiện cảm xúc mãnh liệt, cháy bỏng. Tác giả còn sử dụng một hệ
thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”,… diễn tả
niềm hạnh phúc được sống cao độ với cuộc đời.
3. Các dạng đề
Các đề bài sau đây được ra theo cấu trúc của đề thi học kỳ nên phần nghị luận
văn học là 7 điểm và 6 điểm
ĐỀ 1 ( 7 điểm) Cảm nhận của anh / chị về mùa xuân trong bài thơ “ Vội
vàng” của Xuân Diệu và bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử
ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM CHẤM
NỘI DUNG
ĐIỂM
1
- Đảm bảo cấu trúc bài nghị luận: trình bày đầy đủ các phần:

Mở bài, Thân bài, Kết luận
- Đảm bảo đúng quy tắc chính tả, dùng từ đặt câu
- Hành văn trôi chảy, văn viết giàu cảm xúc, thể hiện khả năng
cảm thụ văn học tốt
2
Giới thiệu vấn đề:
1.0
- Cả hai nhà thơ đều là lá cờ đầu của phong trào Thơ mới. Ở
mỗi nhà thơ đều có phong cách riêng, tiếng nói riêng nhưng tựu
trung lại là tình yêu cuộc sống .
- Giới thiệu được cả hai bài thơ đều nói về mùa xuân, nhưng
mỗi nhà thơ đều có cách nói riêng của mình.
3
Giải quyết vấn đề:
0,5
- H/s biết chia vấn đề cần nghị luận ra thành nhiều luận điểm
phù hợp, các luận điểm được triển khai theo trình tự hợp lý, có
liên kết chặt chẽ; sử dụng tốt các thao tác lập luận để triển khai
các luận điểm; sử dụng thành thạo các thao tác phân tích, so
sánh, bình luận; biết kết hợp giữa lý lẽ và đưa dẫn chứng
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, bài thơ cần phân tích
- Phân tích vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của hai bài thơ
3a.
Mùa xuân trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
1,75
- Mùa xuân tràn đầy sức sống, đó là sống mãnh liệt của tuổi trẻ:
ánh sáng, mỗi buổi sáng thần vui hằng gõ cửa… tất cả đang ở
độ nồng nàn phơi phới nhất. Ánh sáng, thần vui …hiện hữu
mỗi ngày


12


3b.

3c.

4

- Xuân Diêu luôn yêu mùa xuân, yêu cuộc sống một cách vồ
vập và sôi nổi, đắm đuối: “tháng giêng ngon như một cặp môi
gần” thi si luôn muố “ ôm, riết, say, thâu, cắn..”
- Xuân Diệu luôn lo sợ mùa xuân trôi đi:“Xuân đang tới, nghĩa
….”. Bởi ông phát hiện ra quy luật tất yếu của tự nhiên, cái hữu
hạn của cuộc đời, cái ngắn ngủi của tuổi trẻ
- Xuân Diệu thúc dục mọi người hãy sống hết mình và yêu hết
mình, hãy thức nhọn mọi giác quan, để tận hưởng mùa xuân
cuộc đời mùa xuân thiên nhiên: Ta muốn ôm/ riết… cắn…
Mùa xuân trong bài thơ Mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử
1,75
- Hàn Mặc Tử viết về mùa xuân không sôi nổi, vồ vập, đắm say
như Xuân Diệu mà trần tĩnh, nhẹ nhàng, sâu lắng:
- Khung cảnh mùa xuân hết sức nhẹ nhàng êm ái: Trong làn
nắng ửng, khói mơ tan…. Âm của các từ “ lan, tan, vàng sang”
đủ để diễn tả bước đi khẻ khàng của mùa xuân
- Mùa xuân trong thơ hàn Mặc Tử hết sức tình tứ: “Sóng cỏ
tươi non gợn tới trời” / Bao cô thôn nữ hát trên đồi”. Ở đây
không gian mùa xuân là mùa xuân xanh, nên vạn vật đều thi vị
tình tứ, rộn ràng..
- Mùa xuân ở những câu thơ sau mang đến cái lặng lẽ, một

mình, mang vị ngậm ngùi nuối tiếc. : Chị ấy năm nay còn gánh
thóc … bỏ cuộc chơi. Nhà thơ tiếc cho học và tiếc cả cho mình,
tiếc cho tuổi xuân một đi không trở lại.
Điểm tương đồng và khác biệt về mùa xuân trong hai bài 1,0
thơ
- Sự tương đồng: Cả hai nhà thơ đêu gặp nhau ở tình yêu cuộc
sống tha thiết, sâu nặng. Cả hai nhà thơ đều căng nhọn mọi giác
quan để lắng nghe, cảm, thấu hiểu mùa xuân ở nhiều góc độ.
- Điểm khác nhau giữ hai nhà thơ
*Với mùa xuân Xuân Diệu vồ vập, sôi nổi, đắm say,việc miêu
tả mùa xuân với hàng loạt những hình ảnh non tơ, trẻ trunh,
tươi rói. Hình ảnh này nối tiếp hình ảnh kia ngồn ngộn …Sử
dụng một loạt các động từ mạnh để thể hiện tình yêu nồng say
của mình, sử dụng một hệ thống từ ngữ cực tả sự tận hưởng:
“chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê”,… diễn tả niềm hạnh phúc
được sống cao độ với cuộc đời.
*Với Mùa xuân chín của Hàn Mặc Tử: Trần tĩnh, nhẹ nhàng,
sâu lắng: Bước chân của mùa xuân được mô tả hết sức nhẹ
nhàng. Con người mùa xuân vừa mang vẻ trẻ trung, vui tươi, lại
vừa lặng lẽ đơn chiếc, nhuốm vị biệt li. Cảm xúc của tác giả
ngậm ngùi nuối tiếc.
Kết thúc vấn đề:
0,5
- Đánh giá được những đóng góp của hai nhà thơ trên thi đàn
thơ ca Việt Nam giai đoạn 1930-1945

13


ĐỀ 2: ( 6 điểm) Cái mới trong thơ Xuân Diệu qua đoạn trích sau:

“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ của;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;”
………………….Hết…………………..
ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM CHẤM
NỘI DUNG
1

2

3
3.a

3.b

ĐIỂM

Yêu cầu cần đạt của văn bản nghi luận:
0,5
- Cấu trúc bài nghị luận: trình bày đầy đủ các phần: Mở bài, Thân
bài, Kết luận
- Đảm bảo đúng quy tắc chính tả, dùng từ đặt câu
- Hành văn trôi chảy, văn viết giàu cảm xúc, thể hiện khả năng 0,5
cảm thụ văn học tốt
Giới thiệu vấn đề
- Giới thiệu về Xuân Diệu, bài thơ Vội Vàng và vấn đề cần nghị

luận: Cái mới của thơ Xuân Diệu qua đoạn thơ thứ hai trong Vội
vàng
Giải quyết vấn đề
1,5
- Giải thích sơ lược: “Cái mới trong thơ”: Những cách tân trong
thơ trên hai phương diện nội dung và hình thức
Cái nhìn mới về thế giới:
- Người xưa chỉ nhìn thiên nhiên để “xúc cảnh sinh tình”
- Thế giới mùa xuân trong Vội vàng không mới: Có bướm có
hoa, có cỏ non đồng nội, lá cành, ánh sáng,
- Nhưng Xuân Diệu đã phát hiện mùa xuân với cái nhìn mới:
“Cái nhìn của Xuân Diệu về thiên nhiên, cuộc sống là cái nhìn
tình tứ, xanh non và tràn đầy sức sống. Thi sĩ dẫn dắt người đọc
khám phá, phát hiện những gì tuyệt vời nhất của tự nhiên tạo vật:
từ ong bướm đang ở tuần tháng mật đến hoa cỏ yến anh đang ở
độ nồng nàn phơi phới… Thế giới mùa xuân của Xuân Diệu là
tuổi trẻ, tình yêu
- Thâm chí thi sĩ còn nhìn thiên nhiên bằng con mắt sắc dục
(Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;) Nên thiên nhiên
thường hiện ra với vẻ đẹp xuân tình”, Vì vậy,thế giới thiên nhiên
quen thuộc trở nên mới lại, hấp dẫn, mời gọi.
Cảm nhận mới về thế giới
1,0
- Thơ xưa chủ yếu cảm nhận thế giới bằng thị giác, thính giác,
từ đó gợi hứng làm thơ

14


3.c


3.d

4

- Xuân Diệu cảm nhận thế giới mùa xuân khi “thức nhọn giác
quan” thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác, thậm chí cả chuyển
đổi cảm giác…. khiến cho mùa xuân hiện lên tràn ngập sắc màu,
thanh âm, tràn trề ánh sáng, hương thơm: “của ong bướm này
đây tuần tháng mật… lá của cành tơ phơ phất… Yến anh, khúc
tình si… tháng giêng ngon như một cặp môi gần”…
- Xuân diệu cảm nhận thiên nhiên bằng cả cuồng độ sống cao
nhất, thái độ sung sướng reo vui ngỡ ngàng: “Này đây…Này
đây”
Quan điểm thẩm mĩ mới
1,0
- Thơ cổ lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp của con
người
- Xuân Diệu lấy sự sống của con người giữa tuổi trẻ và tình yêu
làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp trên thế gian này: “Ánh sáng
chớp hàng mi, khúc tình si, tháng giêng ngon như một cặp môi
gần…”.
Nghệ thuật thơ có sự cách tân
1,0
- Hình ảnh táo bạo: “ Tắt nắng, buộc gió”“Ánh sáng chớp
hàng mi, tháng giêng ngon như một cặp môi gần…”.
- Thể thơ tự do với những câu thơ vắt dòng, cách biểu đạt táo bạo
tạo nhịp thơ hăm hở, sôi trào mãnh liệt
- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ để đạt hiệu quả nghệ
thuật cao nhất ( liệt kê, so sánh, ẩn dụ…)

Kết thúc vấn đề:
0,5
- Đoạn thơ hay trong bài thơ, bày tỏ tình yêu say đắm của Xuân
Diệu với cuộc đời, con người
- Cái mới mà Xuân Diệu mang đến qua những vần thơ của mình
là đã góp phần, đưa phong trào thơ mới Việt Nam 1932-1045, đạt
đến đỉnh cao và đóng góp vào công cuộc hiện đại hóa thơ ca Việt
Nam.

ĐỀ 3: ( 6 điểm)Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hai đoạn thơ sau:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”
(Trích Vội vàng - Xuân Diệu, Ngữ văn 11, tập 2, NXB
Giáo dục, Tr 22)
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Trích Từ ấy - Tố Hữu, Ngữ văn 11, tập 2, NXB Giáo
dục, Tr 44)
…………….Hết……………….

15


ĐÁP ÁN VÀ BIỂU ĐIỂM CHẤM
NỘI DUNG


1

2

3
3a.

3b.

Yêu cầu cần đạt của văn bản nghi luận:
- Cấu trúc bài nghị luận: trình bày đầy đủ các phần: Mở bài,
Thân bài, Kết luận
- Phần mở bài: biết dẫn dắt hợp lý nêu được vấn đề; phần
thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ
với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần kết bài khái quát
được vấn đề và thể hiện được ấn tượng, cảm xúc sâu đậm
của các nhân
- Đảm bảo đúng quy tắc chính tả, dùng từ đặt câu. Hành văn
trôi chảy, văn viết giàu cảm xúc, thể hiện khả năng cảm thụ
văn thơ tốt
Mở bài :
- Giới thiệu khái quát về hai nhà thơ
- Giới thiệu về hai đoạn thơ ở hai tác phẩm
- Giới thiệu chung về vẻ đẹp về nội dung và nghệ thuật của
hai đoạn thơ
Giải quyết vấn đề
* Đoạn thơ trong bài Vội Vàng
Thí sinh có thể có những cách trình bày khác nhau, nhưng
cần làm nổi bật được
Về nội dung:

Vội vàng là tuyên ngôn sống của một thi nhân đắm say với
cuộc đời, tiêu biểu cho giai đoạn sáng tác trước cách mạng
tháng Tám của Xuân Diệu. ( bài thơ viết năm 1938).
Đoạn thơ thuộc khổ đầu, thể hiện ước muốn của nhà thơ.
Từ đó thấy được vẻ đẹp của lòng yêu đời, cái tôi khao khát,
giao cảm, tận hưởng cuộc sống...
Về nghệ thuật: Điệp ngữ, động từ mạnh, thể thơ ngũ ngôn,
nhịp ngắn...
*Đoạn thơ trong đoạn trích Từ ấy
Về nội dung:
- Từ ấy là tuyên ngôn sống của một người chiến sĩ cộng sản
được sáng tác khi nhà thơ gặp được lý tưởng cách mạng
(1939).
- Đoạn thơ thuộc khổ 2 của bài thơ thể hiện sự thay đổi về
tư tưởng, tình cảm khi gặp được lí tưởng cách mạng... Từ
đó ta thấy được thái độ sẵn sàng, tự nguyện, gắn kết, khát
vọng cống hiến đầy nhiệt huyết của tác giả.
Về nghệ thuật:
- Sử dụng động từ: buộc,
- Sử dụng các biện pháp tu từ: điệp từ, ẩn dụ….

ĐIỂM
0,5

0,5

1,5

1,5


16


3.c

4

- Hình ảnh “hồn tôi”, “hồn khổ”...
* Điểm tương đồng và khác biệt để thấy được vẻ đẹp
riêng của mỗi đoạn
Thí sinh có thể diễn đạt theo nhiều cách khác nhau,
nhưng cần làm nổi bật được:
* Sự tương đồng:
- Ra đời cùng thời (1938).
- Nhân vật trữ tình: Cái tôi tác giả đắm say khao khát sống
hướng tới cuộc đời và con người bằng tình yêu chân thành
mãnh liệt.
- Giọng thơ say mê, cảm hứng lãng mạn. Dùng động từ
mạnh.
* Sự khác biệt:
- Đoạn thơ trong bài Vội vàng
+ Khát vọng của thi sĩ thơ mới: lãng mạn đắm say, cuống
quýt vội vàng....
+ Đối tượng hướng tới là: Tất cả sự cống hiến ở trần gian.
+ Mục đích: Chiếm lĩnh và hưởng thụ -> đó là cái tôi tận
hưởng
- Đọan thơ trong Từ ấy
+ Khát vọng của một thi sĩ, một chiến sỹ cộng sản được hiến
dâng cho lý tưởng cách mạng cho nhân loại cần lao.
+ Đối tượng: tầng lớp quần chúng nhân dân lao khổ.

+ Mục đích: chia sẻ, đồng cảm: tạo khối đời vững chắc đó là
cái tôi tận hiến
Kết thúc vấn đề:
- Khẳng định vẻ đẹp của hai đoạn thơ cả về mặt nội dung và
nghệ thuật.
- Đóng góp của hai nhà thơ đối với sự phát triển của thơ ca
Việt Nam

0,75

0,75

0,5

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng đề tài hướng dẫn học sinh tiếp cận văn bản Vội vàng của
Xuân Diệu theo hướng mở, chúng thôi nhận thấy đã có những hiệu quả nhất
định.
Về phía giáo viên: trong qua trình giảng dạy tác phẩm linh hoạt hơn, có
thể tích hợp nhiều kiến thức môn giúp học sinh nắm rõ vấn đề. Chủ động cho
học sinh khai thác tác phẩm từ nhiều hướng, nhiều chiều, nên việc lĩnh hội tri
thức dễ dàng hơn.
Về phía học sinh: Lớp học hào hứng hơn, học sinh tích cực phát biểu,
trình bày những cảm nhận riêng. Bài làm có sự mở rộng, liên kết, tổng hợp rõ và
sâu sắc hơn. Điểm các bài kiểm tra được nâng lên ở từng năm, chất lượng môn
Ngữ Văn của học sinh khối 11 tăng lên rõ rệt. Cụ thể :

Bảng so sánh
Năm


Số HS

Giỏi (%)

Khá(%)

TB(%)

Yếu(%)

HSG

17


20142015
20152016
So sánh

82

3

14

75

8

2


82

6

23

67

4

5

+3

+9

-8

-4

+3

C. Kết luận :
Trên đây là một vài ý kiến của chúng tôi về một vấn đề lớn, một tác gia
lớn nên không tránh khỏi những thiếu sót, mong các đồng chí bổ sung, góp ý
thêm để bản sáng kiến được hoàn thiện hơn.
Bản thân tôi, qua việc viết sáng kiến kinh nghiêm lần này nhận thấy, vấn
đề đọc hiểu tác phẩm văn học là hết sức quan trọng. Nó có sức thay đổi tình
cảm, nhận thức, thái độ sống của con người.

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
GIÁM ĐỐC

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 05 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Bùi Thị Cúc
Thiều Thị Phước

18



×