Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN hướng dẫn tìm hiểu truyện ngắn rừng xà nu của nguyễn trung thành theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh lớp 12 ở trung tâm GDTX DN lang chánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.36 KB, 20 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.

Rừng xà nu là truyện ngắn tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn dòng văn học 1945 - 1975 được giảng dạy trong nhà trường
THPT. Tuy nhiên, từ trước đến nay tác phẩm này thường được nhiều giáo viên
giảng dạy như một tác phẩm văn xuôi tự sự và chỉ chú ý khai thác nó ở khía
cạnh hành động nhân vật, hình tượng cây xà nu. Đặc trưng thi pháp thể loại,
những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn Trung
Thành và sức tác động của tác phẩm tới tâm hồn, tình cảm, nhận thức của lớp
thanh niên trẻ học đường chưa được giáo viên quan tâm đúng mức.
Xuất phát từ những lí do cơ bản trên, tôi chọn đề tài “Hướng dẫn tìm hiểu
truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành theo đặc trưng thi pháp
thể loại cho học sinh lớp 12 Trung Tâm GDTX-DN Lang Chánh"với mong
muốn góp một phần công sức bé nhỏ vào việc đổi mới phương pháp dạy học tác
phẩm văn chương trong nhà trường nói chung và phương pháp dạy - học truyện
ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành trong chương trình ngữ văn lớp 12
THPT nói riêng.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.

Dưới góc nhìn của khoa học phương pháp, tôi mong muốn thông qua một
tác phẩm cụ thể hiểu hơn về Nguyễn Trung Thành- Nguyên Ngọc, cung cấp
những minh chứng xác thực cho việc hiểu biết một giai đoạn văn học rất cụ thể
của chúng ta và những đóng góp của nhà văn cho văn học Việt Nam hiện đại, có
cách nhìn đúng đắn hơn về dạy - học truyện ngắn ở trường phổ thông sao cho
đúng đặc trưng thi pháp thể loại. Đề tài đã mạnh dạn nghiên cứu truyện ngắn
Rừng xà nu theo đặc trưng thi pháp thể loại và chỉ ra sự đổi mới của Nguyễn
Trung Thành trong truyện ngắn Rừng xà nu
- Thông qua hệ thống các phương pháp và biện pháp thích hợp (phù hợp
với thời gian, đối tượng), thiết kế giáo án sao cho việc tiếp nhận truyện ngắn
Rừng xà nu có hiệu quả nhất.


1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU.

Đối tượng mà đề tài nghiên cứu là nghiên cứu đặc trưng thi pháp truyện
ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành cho học sinh lớp 12 ở Trung tâm
GDTX-DN Lang Chánh năm học 2015-2016
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Đề tài sử dụng một số phương pháp chính:
- Phương pháp nghiên cứu tác phẩm theo đặc trưng thể loại, nghiên cứu về tác giả.
- Phương pháp phân tích so sánh, tổng hợp, thống kê.
- Các phương pháp: dự giờ, khảo sát, đánh giá......
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.

2.1.1. Những sáng tạo trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Nguyễn
Trung Thành.
1


- Nguyễn Trung Thành là nhà văn viết hay nhất về đề tài Tây Nguyên
+ Khái niệm về đề tài: "đề tài" là một thuật ngữ dùng để chỉ phạm vi các
sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời sống của tác phẩm nghệ thuật. Khái quát hơn
đề tài thể hiện phạm vi miêu tả trực tiếp của tác phẩm nghệ thuật( Theo từ điển
Bách khoa toàn thư)
+ Nguyễn Trung Thành là người đầu tiên trong số các nhà văn cách mạng
thành công với đề tài Tây Nguyên. Đọc tác phẩm của ông, người đọc đều nhận
thấy vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ, nên hoạ trong khung cảnh thiên nhiên và tâm
hồn con người miền núi. Với truyện ngắn Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành đã
vượt xa các nhà văn cùng viết về Tây Nguyên bởi cách lựa chọn hình tượng
thiên nhiên: Cây xà nu - loài cây chỉ có ở mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ - để nói

về con người làng Xô Man, rộng hơn là dân tộc Việt Nam trong cuộc đối đầu
lịch sử đã anh dũng chiến đấu và chiến thắng giặc Mỹ xâm lược.
- Nguyễn Trung Thành đã xây dựng thành công một cốt truyện mang
đậm chất sử thi
+Khái niệm về cốt truyện: Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện,
biến cố, hành động trong tác phẩm thể hiện mối quan hệ qua lại giữa tính cách
trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
(Theo từ điển Bách khoa toàn thư)
+ Rừng xà nu có hai cốt truyện đan lồng: một về cuộc đời của nhân vật Tnú
và một về cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man. Cả hai cốt truyện được xây dựng
trên cái trục mâu thuẫn là cuộc đấu chọi trực tiếp của một tập thể anh hùng với kẻ
thù. Nói cách khác, một bên là sự tàn phá huỷ diệt của giặc Mỹ và bè lũ tay sai, một
bên là ý chí, sức chiến đấu; sức sống mãnh liệt của dân làng Xô Man.
Việc xây dựng cốt truyện mang đậm chất sử thi giúp cho bạn đọc lần đầu
tiên hiểu thêm về con người sử thi Tây Nguyên trong phạm vi một truyện ngắn.
- Sự dồn nén một tư tưởng tối đa trong một dung lượng tối thiểu
+ Khái niệm về dung lượng: "dung lượng" là số lượng, nội dung tối đa có thể
chứa đựng bên trong vật gì( theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học- 2003).
+ Cách xử lý tài tình của nhà văn đã khiến Rừng xà nu tuy dung lượng
nhỏ (chỉ 22 trang) nhưng chất sử thi thấm đẫm từng tính cách nhân vật, từ sự
kiện, hình ảnh, sức khái quát qua hình tượng nhân vật điển hình, đến sự chọn
lựa, chắt lọc các sự kiện khiến lịch sử sống động và tinh tế. Đó không chỉ là lịch
sử của làng Xô Man mà còn là lịch sử của nhân dân Tây Nguyên, dân tộc Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Cách sắp xếp mạch truyện giúp người đọc thâm nhập vào những chiều
kích khác nhau của tác phẩm
+ Từ câu văn mở đầu ngắn gọn độc đáo:
Câu văn 9 chữ mở đầu của tác phẩm: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn
giặc”. Đúng là chỉ trong chưa đầy mười chữ mà dựng lên được cả một tư thế của sự
sống trong sự đối diện với cái chết, của cái tồn sinh trong vòng đe doạ của sự huỷ

diệt bạo tàn, cách mở của truyện thật cô đúc gọn gàng mà vẫn đầy uy nghi, tầm vóc.
+ Đến sự tiếp diễn mạch truyện đầy hấp dẫn.
2


Có hai mạch truyện đan lồng. Mạch nổi của tác phẩm chính là chuyện về
người anh hùng Tnú. Mạch ngầm ẩn chứa sau đó lại là lời khẳng định vai trò của
tập thể anh hùng và cuộc chiến đấu đầy gian khổ, đau thương nhưng anh dũng
của nhân dân Xô Man nói riêng và nhân dân Tây Nguyên nói chung.
- Nguyễn Trung Thành đã tìm tòi, sáng tạo nên những tình huống
truyện vừa độc đáo, vừa mới mẻ, dồn nén được nhiều vấn đề, nhiều ý tưởng
+Khái niệm về tình huống: Là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự
kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tửng
của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. (theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn
ngữ học- 2003).
+Sự trở về của Tnú sau ba năm đi lực lượng đã làm sống dậy tất cả các
nhân vật, sự kiện và gắn với các nhân vật và sự kiện đó là cây xà nu. Đó chính
là tình huống đẩy câu chuyện phát triển. Không có tình huống Tnú trở về, câu
chuyện về nhân vật anh hùng sử thi Tnú, về lịch sử chiến đấu quật cường của
dân làng Xô Man bị lùi vào quá khứ, chỉ còn nằm trong trí nhớ của những người
già (như cụ Mết).
Bên cạnh tình huống chủ đạo đó, còn có những tình huống phụ, góp phần
tạo độ căng làm cho tác phẩm có tính hấp dẫn đặc biệt.
Tình huống phụ thứ nhất: Tnú không cứu sống được vợ con. Với tình
huống này, tác giả đã giúp người đọc thấy được tội ác của kẻ thù, đồng thời đưa
ra một bài học cách mạng: Sự đơn độc, liều lĩnh rất dễ dẫn đến thất bại.
Tình huống phụ thứ hai: Tnú bị giặc bắt và đốt cháy mười ngón tay. Tnú
phải trả một giá đắt cho cuộc đấu tranh tự phát của mình nhưng anh lại có một
kinh nghiệm lớn: “Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”.
Tình huống phụ thứ ba: Làng Xô Man nổi dậy giết chết mười tên giặc. Sự

bất lực của vợ con Tnú đã đem lại bài học kinh nghiệm, chân lý cách mạng cho
người dân Xô Man: chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo.
- Hình tượng cây xà nu- một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Trung Thành
Hình tượng xà nu xuất hiện rất nhiều lần trong tác phẩm. Tác giả đã miêu
tả nó bằng một giọng văn thiết tha, đầy sức biểu cảm xen lẫn khâm phục, tự hào.
Vẻ đẹp lãng mạn của xà nu được miêu tả ở màu sắc, mùi vị, tư thế khoẻ
khoắn và sự sinh sôi nảy nở mạnh mẽ không gì ngăn cản nổi. Bên cạnh đó, hình
tượng cây xà nu còn mang ý nghĩa tượng trưng. Nó gắn bó, thân thuộc với đời
sống và chiến đấu, tượng trưng cho phẩm chất và sức sống bền vững, quật khởi
của dân làng Xô Man nói riêng, Tây Nguyên bất khuất nói chung. Đó cũng là
biểu tượng cho khát vọng tự do, sự vĩnh cửu bất tận của con người sử thi.
Xà nu là sự kết hợp hai vẻ đẹp: dũng mãnh và trữ tình, khốc liệt và nên thơ,
đau thương và tươi sáng. Cây, rừng xà nu là hình tượng nghệ thuật độc đáo, trở
thành tâm điểm của nỗi nhớ và suy tư về một miền đất tươi đẹp, giàu truyền thống.
- Sự khéo léo trong việc lựa chọn những chi tiết nghệ thuật đắt giá
Những chi tiết được xem là điểm huyệt, giàu giá trị nội dung tư tưởng và
giá trị nghệ thuật, nằm rải rác trong suốt chiều dài của truyện.

3


+ “cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn
xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời”: Sức sống mãnh liệt của
rừng xà nu. Nguyễn Trung Thành đã nói lên được một hiện thực lớn về nhân dân
Tây Nguyên, nhân dân Việt Nam ngày nay: Không lấy huỷ diệt đáp lại huỷ diệt.
Đối lập với huỷ diệt phải là ý chí bảo tồn, ý chí sinh tồn.
+ Hình ảnh ngọn lửa xà nu: bốn nét vẽ về ngọn lửa xà nu. Thứ nhất, dưới
ngọn lửa xà nu, Tnú đã đọc thư “tuyệt mệnh” của anh Quyết. Thứ hai, mười
ngọn đuốc ở ngón tay Tnú đầy uất hận. Thứ ba, đống lửa xà nu to giữa nhà soi
rõ mười xác giặc ngổn ngang. Thứ tư, “lửa xà nu cháy khắp rừng”. Ngọn lửa xà

nu cứ được vẽ to dần như lòng căm thù giặc được nuôi lớn dần, như sức mạnh
càng ngày càng lớn của người dân Xô Man.
+ Tnú học chữ: người anh hùng Tnú ngay từ nhỏ đã có quyết tâm lớn.
+ Sau ba năm tham gia giải phóng quân trở về, lắng nghe thấy âm thanh
của tiếng chày: người đọc nhận ra thêm một lần nữa vẻ đẹp tâm hồn của Tnú.
+ Bàn tay Tnú: hai bàn tay biết kể về số phận con người.
+ Đôi mắt: Đôi mắt Dít "ráo hoảnh", "bình thản, trong suốt"; Với cụ Mết, đó là
đôi “mắt sáng và xếch ngược”. Đôi mắt của Tnú “như hai cục lửa lớn” đầy căm thù.
Các chi tiết trên là những chi tiết “đắt giá”, nơi tập trung năng lượng thẩm
mỹ, tích tụ đến độ đậm đặc nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
- Xây dựng không gian và thời gian nghệ thuật làm nền cho câu chuyện
+ Một không gian sử thi hoành tráng
Ở Rừng xà nu là không gian sinh hoạt cộng đồng và không gian của núi
rừng hùng vĩ, nên thơ. Những khoảng không gian nhỏ bé đã được “cộng đồng
hoá” cùng không gian rộng lớn trở thành không gian có tính biểu tượng, không
gian nghệ thuật, cắt nghĩa vẻ đẹp kì vĩ, phi thường của con người. Tác giả đã
lồng không gian thực tại với không gian sử thi tạo nên một không gian vừa thực,
vừa ảo làm say lòng người đọc mọi thế hệ.
+ Sự độc đáo trong cách sắp xếp thời gian nghệ thuật
Đời sống của nhân vật được diễn ra trong các thời gian mang tính sự kiện
nối tiếp. Trong thời gian của các biến cố lịch sử và sự kiện xã hội, tính cách, số
phận của nhân vật dần dần được hoàn thiện. Tính thuyết phục bởi sự độc đáo
của cách sắp xếp thời gian nghệ thuật trong tác phẩm ở chỗ:
Thứ nhất là thời gian dồn nén: Thời gian chỉ có một đêm nhưng tái hiện
cuộc đời của một nhân vật anh hùng, lịch sử của cả dân tộc.
Thứ hai, là thời gian đảo ngược: Từ hiện tại trở về quá khứ. Sự đảo ngược
thời gian là một dụng ý của nhà văn nhằm nhấn mạnh và khắc sâu những thời
điểm và sự kiện nêu bật tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Thứ ba, thời gian có tính chất đồng hiện: Xen lẫn quá khứ- hiện tại- tương
lai. Dù ở bất cứ thời gian nào, hoàn cảnh nào, những cuộc chạy tiếp sức không

biết mệt mỏi của người dân Xô Man cũng chính là truyền thống lịch sử ngàn đời
của dân tộc ta.

4


Thông qua cách xây dựng thời gian nghệ thuật, tác giả muốn thể hiện mối
quan hệ giữa những con người trong sự kế thừa, thể hiện được sự phát triển
truyền thống của dân tộc.
2.1.2 Một cái nhìn nghệ thuật về thế giới tạo nên sự kì diệu của một
mãnh lực hướng vào sáng tạo và sản sinh suy tư
- Cái nhìn nghệ thuật- Sự khởi nguyên cho những sáng tạo và suy tư
+ Hệ thống điểm nhìn nghệ thuật phong phú, linh hoạt
Cái nhìn nghệ thuật của nhà văn trong mỗi tác phẩm chính là cái nhìn bao
quát thông qua hệ thống các điểm nhìn nghệ thuật.
Ở rừng xà nu hệ thống điểm nhìn nghệ thuật khá phong phú, được nhà
văn lựa chọn phối hợp linh hoạt đã trở thành phương tiện nghệ thuật thể hiện
quan niệm của nhà văn về hình tượng con người sử thi.Truyện ngắn có sự di
chuyển điểm nhìn để tạo thành trường nhìn đa dạng. Song, dù ở bất kì điểm nhìn
nào, nhà văn cũng luôn thể hiện sự thống nhất của góc nhìn, ở khoảng cách trần
thuật, ở cách cảm thụ và đánh giá.
+ Sự lựa chọn, sử dụng và sáng tạo ra những phương tiện, ngôn ngữ nghệ
thuật mới, lạ, độc đáo, giúp cho nhà văn chạm khắc nên những hình tượng nghệ
thuật đẹp và kỳ vĩ.
. Ngôn ngữ mang sắc thái lịch sử trang trọng, thiên về diễn tả cái anh
hùng, cái cao cả đem lại cái hồn cho sự vật.
. Sử dụng một số biện pháp tu từ như ẩn dụ, so sánh, tượng trưng.v.v, thể
hiện sự thành kính, ngợi ca.
. Sử dụng nhiều kiểu câu khác nhau tạo nên cái lạ, cái mới trong cấu trúc câu.
. Đa dạng hoá, cá tính hoá ngôn ngữ nhân vật.

Những sáng tạo trong phương thức miêu tả khiến Rừng xà nu hài hoà được
chất cô đọng của kịch, chất trữ tình của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca.
- Cảm hứng lãng mạn là cội nguồn cho cái nhìn nghệ thuật mới mẻ
+ Khái niệm về cảm hứng lãng mạn: Cảm hứng lãng mạn khẳng định cái
tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng về lý tưởng, về tương lai(Theo từ điển Bách
khoa toàn thư)
+ Truyện ngắn Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết bằng một thứ
xúc cảm mãnh liệt, khác thường. Ông tìm đến hình thức diễn đạt bay bổng, kỳ
diệu để miêu tả cuộc chiến đấu thầm lặng và dũng cảm của nhân dân Tây
Nguyên trong cuộc chiến đấu không cân sức với đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai.
Cảm hứng lãng mạn là cội nguồn cho cái nhìn nghệ thuật mới mẻ, được tập
trung đầy đủ nhất khi nhà văn xây dựng hình tượng "Cây xà nu".
Chính cảm hứng lãng mạn đã chắp cánh cho cái nhìn nghệ thuật của nhà
văn khi đi sâu, khám phá vẻ đẹp của những con người Tây Nguyên, để họ toả
sáng những giá trị đẹp chưa từng thấy và đẩy lên tới mức phi thường.
- Khuynh hướng sử thi giúp cho cái nhìn của tác giả đa chiều và gợi nên
sự kì diệu của một mãnh lực mang đậm sắc thái anh hùng ca
+ Khuynh hướng sử thi là đặc điểm nổi bật của văn học giai đoạn 1945 - 1975.

5


Sử thi là gì? Các tác phẩm được viết theo khuynh hướng sử thi thường
mang những đặc điểm như thế nào ?
“Từ điển thuật ngữ văn học” cho rằng: “sử thi cũn được gọi là anh hựng
ca, là thể loại văn tự sự dài (thường là thơ), xuất hiện sớm trong buổi bỡnh minh
của lịch sử, là một cõu chuyện kể lại cú đầu đuụi, với quy mụ lớn”.
Theo “Từ điển Văn học” thì: “Sử thi là tác phẩm thuộc loại văn tự sự,
miêu tả sự nghịêp của những người anh hùng và các sự kiện anh hùng. Tính
chất sự kiện được phát triển toàn diện trong một giai đoạn trọn vẹn nhất định

của cuộc đời nhân vật, lịch sử xã hội”.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 luôn được viết theo khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm thường viết về những người
anh hùng dân tộc, viết về cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Việt Nam trong
hai cuộc kháng chiến. Các nhà văn quan tâm trước hết đến các sự kiện, các biến
cố lịch sử và thường thiên về khẳng định, ca ngợi chiến công của người anh
hùng - đại diện ưu tú của cộng đồng.
Đặc trưng cơ bản của sử thi là ở chỗ: mối quan hệ của cá nhân và cộng đồng
luôn hài hoà làm một. Mối quan hệ ấy tồn tại như một vòng tròn đồng tâm, cùng
một mục đích, cùng một nhiệm vụ, một niềm hy vọng và lý tưởng, tạo nên cho sử
thi một âm hưởng thật hào hùng, đầy ngợi ca và chất lý tưởng. Cảm hứng sử thi
thường chỉ nảy nở và được nuôi dưỡng bởi những hiện thực hào hùng, giàu vẻ
đẹp lý tưởng, đối lập với cách nhìn đời sống từ góc độ đời tư cá nhân.
Tác phẩm thể hiện khuynh hướng sử thi là tác phẩm dựng lại bức tranh
toàn cảnh của một giai đoạn lịch sử có thật được tái hiện và chi phối số phận,
con đường đi của các nhân vật - những con người thuộc nhiều thế hệ có chung
phẩm chất cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng. Đặc điểm của các tác phẩm mang
tính chất sử thi và anh hùng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, đó là thể loại trung gian
giữa tự sự và trữ tình. Các tác phẩm sử thi thường kể lại sự tích các chiến công
anh hùng của những nhân vật anh hùng dưới dạng một câu chuyện lịch sử có
diễn biến mạnh và hình thức ngôn ngữ hay đạt đến tính thơ. Thứ hai, đó là thể
loại của những cái phi thường trong sự việc và tính cách con người. Do vậy, tính
cách con người sử thi thường đơn giản và đồng nhất. Tác phẩm sử thi không có
chỗ đứng cho cái mờ nhạt, phức tạp. Thứ ba, tác phẩm sử thi ca ngợi sức mạnh
cộng đồng. Nhân vật anh hùng chỉ là đại diện xuất sắc mà thôi.
Văn học Việt Nam từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến 1975 là nền văn
học mang khuynh hướng sử thi bởi nó chủ yếu hướng tới việc phản ánh các biến
cố lịch sử liên quan tới số phận cộng đồng. Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành được viết theo khuynh hướng sử thi. Tính chất sử thi được thể hiện rõ nét
qua đề tài, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, nhân vật...v.v.

+ Nhân vật Tnú- Người anh hùng sử thi được soi chiếu bằng cái nhìn
mang quan niệm thẩm mỹ của thời đại mới
. Tnú là người anh hùng của thời đại mới, cuộc đời anh gắn với lịch sử
sống và chiến đấu của làng Xô Man.

6


. Tnú là tổng thể những sức mạnh của người dân Xô Man, người anh hùng
vừa mang dấu ấn xã hội Tây Nguyên, vừa là sự biểu hiện của tâm hồn, tình cảm
của con người thời đại, chiến đấu chống cái ác, cái dã man của kẻ thù để dành
độc lập - tự do cho tổ quốc.
. Tnú là người anh hùng tiêu biểu cho chân dung những người anh hùng
trong tác phẩm, con người mang tính cách của cộng đồng: rất trung thực, dũng
cảm, ý thức tổ chức kỷ luật cao, hết lòng vì cách mạng, trong anh luôn hừng hực
ngọn lửa của tình yêu thương đồng loại và lòng căm thù giặc sâu sắc.
- Rừng xà nu là bản anh hùng ca ca ngợi sức mạnh cộng đồng, ca ngợi
một sự sống không thể dập tắt, một tư thế sống không biết đến sự cúi đầu,
một tình yêu lý tưởng cháy bỏng của người dân Xô Man nói riêng, nhân dân
Tây Nguyên nói chung
Tác giả đã mô tả thành công sự nối tiếp các thế hệ trong cuộc chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, họ cùng có chung một phẩm chất cao đẹp- phẩm chất của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng.
Thế hệ thứ nhất, cội nguồn của lịch sử, lớp người nuôi dưỡng dòng máu
cách mạng truyền lại cho con cháu mai sau, là thế hệ già làng: Cụ Mết.
Thế hệ thứ hai, là thế hệ của Tnú, Mai, Dít. Họ là những lớp người lớn lên từ
cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, những con người
đó cũng dám hi sinh quyền lợi cá nhân để bảo vệ sự bình yên cho buôn làng.
Thế hệ thứ ba, Heng - sức sống quật cường của người dân Xô Man, được
tác giả miêu tả và cảm nhận ở sự trưởng thành vượt bậc.

- Giọng điệu hào hùng mang âm hưởng của một thời đại anh hùng
Giọng điệu tự hào, ngợi ca ở Rừng xà nu được thể hiện qua:
+ Cách sử dụng hệ thống đại từ nhân xưng, đại từ chỉ thị.
+ Sử dụng những động từ mạnh (làm nổi bật hành động mạnh mẽ, quyết
liệt và tư thế vững chãi của nhân vật sử thi).
+ Sử dụng điệp khúc trần thuật.
+ Những lời văn bình giá trực tiếp của người kể chuyện.
* Giọng điệu kể chuyện có sự thống nhất chặt chẽ: ngợi ca xen lẫn căm
thù, động viên, khích lệ. Song, giọng điệu chủ đạo của tác phẩm vẫn là tự hào,
ngợi ca mang âm hưởng hào hùng bi tráng.
“Rừng xà nu” là tác phẩm hài hoà mang đậm chất cô đọng của kịch, chất
trữ tình của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca. Ra đời trong thời điểm hào
hùng của lịch sử, thông qua việc đi sâu phản ánh một địa phương điển hình, gan
dạ chiến đấu để từ đó nâng lên thành những sự việc có tầm vóc thời đại cùng
giọng điệu trần thuật có màu sắc anh hùng ca, Rừng xà nu đã khái quát thành
công tầm vóc vĩ đại, không khí hào hùng pha chút màu sắc bi tráng cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc.
2.2 THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ.

2.2.1. Tìm hiểu thực trạng dạy - học truyện ngắn Rừng xà nu ở lớp 12 Trung tâm
GDTX-DN Lang Chánh.

7


Tìm hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường là một quá trình sáng tạo ở
giáo viên và học sinh. Coi tác phẩm văn học là đối tượng tiếp nhận của học sinh
là một quan niệm mới, một cách đánh giá mới và một cách xác định lại hoạt
động dạy - học của giáo viên và học sinh cho phù hợp với đặc trưng bộ môn,
đặc trưng thể loại trong những năm gần đây. Trước khi đưa ra một số đề xuất về

phương pháp và biện pháp dạy - học truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành, tôi đã tiến hành điều tra thực trạng dạy - học tác phẩm này ở một
số lớp 12 tại Trung tâm GDTX-DN Lang Chánh
2.2.1.1.Thực trạng về điều kiện kinh tế - xã hội địa phương
- Lang Chánh là một trong 64 huyện miền núi nghèo nhất cả nước nên đời
sống nhân dân còn găp rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn ở mức
cao ( chiếm 50,8% trong đó hộ nghèo là 31,9%; cận nghèo là 19 %) nguồn lực
đầu tư cho giáo dục còn hạn chế, kinh phí đầu tư cho giáo dục còn ít đã ảnh
hưởng không ít đến giáo dục huyện nhà.
- Một số phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học của con em mình.
2.2.1.2 Về phía giáo viên.
- Nhìn chung, các giáo viên đã xác định đúng Nguyễn Trung Thành là nhà
văn tiêu biểu với một tác phẩm điển hình: Rừng xà nu (trong dòng văn học nổi
bật với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn: 1945-1975). Các giáo án đã
bước đầu chú ý đến chủ thể tiếp nhận (học sinh) thông qua việc đặt câu hỏi gợi
mở, định hướng.
- Hạn chế: + Hầu hết các giáo viên hiện nay vẫn giảng dạy Rừng xà nu
như một truyện ngắn tự sự thông thường. Nhiều giáo viên đã không khai thác
được chất sử thi - anh hùng ca và cảm hứng lãng mạn của tác phẩm mà biến tác
phẩm, biến giờ văn trở thành giờ thuyết giảng về chính trị.
+ Hệ thống câu hỏi còn đơn điệu tẻ nhạt. Chủ yếu vẫn là những câu hỏi kể
lại các chi tiết, sự kiện như: là gì? như thế nào? Việc đặt câu hỏi để phân loại
học sinh, câu hỏi nêu vấn đề để tạo tình huống có vấn đề còn rất hạn chế.
+ Cách soạn giáo án và nội dung lên lớp của một số giáo viên hiện nay đã
làm cho tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành lẫn với các tác phẩm
khác cùng thời.
+ Nhiều giáo viên không định lượng được thời gian và nội dung chính cần
được giảng dạy.
+ Giáo viên chỉ chú trọng đến phân tích mà quên phương pháp đọc.
+ Giáo viên chưa quan tâm đến các hoạt động liên môn.

1.2.1.3.Về phía Học sinh.
- Chất lượng đầu vào thấp nên ảnh hưởng chung đến kết quả học tập
- Học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn dẫn đến chưa hiểu bài,
không nắm bắt được kiến thức cơ bản nên hiệu quả học tập chưa cao
- Số học sinh trọ học xa gia đình chưa tự giác và ý thức học tập chưa cao.
- Xét về tâm lý lứa tuổi, các em học sinh lớp 12 đã xuất hiện tính tự giác
trong quá trình hình thành thế giới quan. Nhận thức đã có sự phán xét của một tư
duy phát triển, không phải còn ở mức độ cảm tính. Số học sinh yêu thích tác
8


phẩm Rừng xà nu chiếm không nhiều. Có đến 81% học sinh cho rằng Rừng xà
nu là một tác phẩm tự sự chứ không phải là tác phẩm trữ tình.
2.2.1.4. Phần giới thiệu về tác phẩm và câu hỏi hướng dẫn học bài trong
sách giáo khoa.
Là một tác phẩm hay đòi hỏi chủ thể tiếp nhận phải có một năng lực nhất
định. Việc đưa tác phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành vào chương
trình văn học lớp 12 là có cơ sở khoa học bởi tác phẩm được đánh giá là có giá
trị đích thực (mang cái độc đáo khác lạ so với các tác phẩm cùng thời), phù hợp
với trình độ tiếp nhận của học sinh lớp 12.
Những câu hỏi thuần tuý về mặt nội dung hoặc nghệ thuật đã được hạn chế.
Tuy nhiên, những câu hỏi này còn rất khái quát. Các câu hỏi dường như mới chỉ tập
trung khai thác ở khía cạnh sử thi. Cảm hứng lãng mạn, các chi tiết nghệ thuật đặc
sắc cũng là một trong những thành công của Nguyễn Trung Thành thông qua tác
phẩm này nhưng cũng chưa thực sự được các nhà soạn giả chú ý tới.
Các câu hỏi hướng dẫn học bài ở Rừng xà nu chưa thực sự khơi gợi được
niềm đam mê của học sinh (chưa quan tâm đến nhu cầu và hứng thú của bản
thân học sinh), còn nặng tính chủ quan của các nhà soạn giả.
2.2.2 Những vấn đề đặt ra.
Tìm hiểu tác phẩm văn học trong nhà trường nói chung và tác phẩm Rừng

xà nu của Nguyễn Trung Thành nói riêng đòi hỏi một quá trình sáng tạo của cả
giáo viên và học sinh. Tuy nhiên khuynh hướng giảng dạy vẫn thiên về giáo
viên, về phương pháp trình bày, về lối dạy tái hiện tiếp thụ. Vấn đề hứng thú học
văn của học sinh chỉ có thể giải quyết một cách đồng bộ bằng nhiều phương
pháp, biện pháp trên nhiều phương diện.
2.2.3. Một số đề xuất về hướng dẫn tìm hiểu truyện ngắn Rừng xà nu
của Nguyễn Trung Thành.
Dạy học bám sát đặc trưng thi pháp loại thể là việc dẫn dắt học sinh khám
phá, phát hiện, phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ
thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Đây là một trong những phương pháp
dạy học bổ sung hữu ích cho cách dạy học truyền thống. Dạy học bám sát đặc
trưng thi pháp loại thể cũng là yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học trong nhà
trường hiện nay."Một trong những con đường đi vào tác phẩm văn chương là
nhận diện được loại thể". Đứng trước yêu cầu trên, với phạm vi của sáng kiến,
tôi xin được đưa ra một số nguyên tắc nhằm khai thác hết giá trị của tác phẩm
(dạy- học đi đúng hướng) của thể loại này nói chung và truyện ngắn Rừng xà
nu của Nguyễn Trung Thành nói riêng.
- Những nguyên tắc cơ bản khi dạy - học truyện ngắn ở Trung Tâm GDTX
-DN Lang Chánh.
+ Dạy - học truyện ngắn theo đúng đặc trưng thi pháp thể loại.
+ Dạy - học truyện ngắn phải hướng vào học sinh- chủ thể của quá trình
tiếp nhận tác phẩm.
- Một số phương pháp và biện pháp hướng dẫn học sinh tiếp nhận
truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn Trung Thành.
9


+ Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện ngắn Rừng xà nu thông qua hoạt
động đọc tác phẩm.
. Lý luận về vấn đề đọc - hiểu:

Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu và
chữ viết,dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và sử
dụng bộ máy phát âm ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.( Theo từ
điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ học 2003)
Hiểu là phát hiện và nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối
tượng nào đó và ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn là sự bao quát hết nội
dung và có thể vận dụng vào đời sống.(.( Theo từ điển tiếng việt - Viện ngôn ngữ
học 2003)
. Giáo viên yêu cầu học sinh tìm đọc những tài liệu viết về Rừng xà nu và
tác giả Nguyễn Trung Thành. Đối với tác phẩm, yêu cầu học sinh đọc kỹ trước
khi lên lớp, hướng dẫn học sinh cách đọc phù hợp trong từng câu, từng chữ.
Việc đọc phải làm vang lên âm hưởng sử thi hào hùng thấm đẫm chất lãng mạn,
thể hiện cuộc đấu tranh anh dũng, bi tráng của đồng bào Xô Man trong cuộc
chạm trán không cân sức với kẻ thù.
Giọng chủ đạo cần đọc của cả tác phẩm là dứt khoát, tự hào, thiêng liêng,
trang trọng. Chú ý tập trung đọc nhiều vào đoạn miêu tả hình tượng Tnú - người
anh hùng vừa mang dấu ấn xã hội Tây Nguyên, vừa là sự biểu hiện của tâm hồn,
tình cảm của con người thời đại; đoạn miêu tả rừng xà nu- một biểu tượng nghệ
thuật độc đáo, biểu tượng cho khát vọng tự do, cho sức mạnh, cho sức sống
mãnh liệt, sự vĩnh cửu bất tận của con người sử thi.
+ Định hướng cho học sinh tiếp nhận truyện ngắn Rừng xà nu thông qua
hoạt động phân tích.
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn, có rất nhiều vấn
đề cần được khai thác. Tuy nhiên, với thời lượng chỉ là 2 tiết, giáo viên không
thể hướng dẫn học sinh phân tích tất cả các vấn đề theo đúng đặc trưng của
truyện ngắn mà chỉ nên định hướng cho học sinh phân tích hình tượng nghệ
thuật, tình huống truyện, những chi tiết nghệ thuật tiêu biểu (tất cả phải được đặt
trong tính chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm), đích cuối cùng là làm nổi bật cảm
hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi ở tác phẩm.
+ Hướng dẫn học sinh tiếp nhận truyện ngắn Rừng xà nu thông qua hoạt

động phân tích.
Rừng xà nu là tác phẩm hài hoà được chất cô đọng của kịch, chất trữ tình
của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca. Bởi vậy, từ chi tiết, ngôn ngữ, giọng
điệu, hình tượng, nghệ thuật.v.v đều chứa đựng những cái mới, lạ, độc đáo có thể
phân tích. Song, giáo viên có thể lựa chọn một vài điểm sáng thẩm mĩ để phân
tích nhằm tạo tâm thế, cảm xúc và sự chú ý cho học sinh khi đến với tác phẩm:
Cái mới trong việc lựa chọn tiêu đề của tác phẩm và cái độc đáo trong xây
dựng hình tượng cây xà nu.
Cái mới, cái lạ trong ngôn ngữ kể chuyện.
Cái mới trong giọng điệu.
10


+ Hướng dẫn học sinh tự bộc lộ thông qua hệ thống câu hỏi và qua trao
đổi, đánh giá.
Đối với truyện ngắn Rừng xà nu, sau khi yêu cầu học sinh đọc kĩ tác phẩm
ở nhà, tôi đưa ra một số câu hỏi nêu vấn đề trong giờ học
Sau khi đọc kĩ và bước đầu tự tìm tòi, khám phá các vấn đề khác của tác
phẩm ở nhà, học sinh sẽ có nhu cầu được trao đổi, đánh giá và bộc lộ những
quan điểm riêng cũng như nhu cầu giải quyết những câu hỏi nêu vấn đề được
giáo viên nêu ra trong suốt hai tiết học. Khi tiếp nhận và dạy - học truyện ngắn
phải có sự kết hợp của nhiều phương pháp, biện pháp. Song, các phương pháp
và biện pháp như: đọc, tiếp cận đồng bộ, phân tích, dạy học nêu vấn đề.v.v vẫn
luôn được coi là những phương pháp chủ lực. Sự kết hợp linh hoạt, nhuần
nhuyễn của phương pháp và biện pháp này tức là chúng ta đã đi đến đích quan
trọng cuối cùng trong quá trình tiếp nhận văn học.
2.3 THIẾT KẾ GIAO ÁN THỂ NGHIỆM DẠY - HỌC TRUYỆN NGẮN
RỪNG XÀ NU CỦA NGUYỄN TRUNG THÀNH THEO ĐẶC TRỪNG THI
PHÁP THỂ LOẠI.


2.3.1. Mục đích, yêu cầu.
- Kiến thức cơ bản: Giúp học sinh:
+ Nắm được tư tưởng chủ đề của tác phẩm, từ nghệ thuật xây dựng hình
tượng trung tâm (hình tượng cây xà nu, hình tượng tập thể Xô Man anh hùng) hiểu
được vẻ đẹp phẩm chất, sức sống bất diệt của thiên nhiên và con người Tây
Nguyên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
+ Nắm được đặc trưng thi pháp (khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng
mạn), những sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật viết truyện ngắn của nhà văn
Nguyễn Trung Thành.
- Kỹ năng: Rèn luyện cho học sinh các kỹ năng:
+ Phân tích truyện ngắn theo đặc trưng thi pháp thể loại
+ Bình luận và tự bộc lộ
- Giáo dục: Bồi dưỡng cho học sinh:
+ Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tôn trọng và biết ơn giá trị
truyền thống lịch sử của cha ông.
+ Khát vọng vượt lên mọi khó khăn, thử thách; sẵn sàng hy sinh hạnh phúc
riêng vì lợi ích cộng đồng: "Mình vì mọi người".
+ Hiểu biết hơn về thiên nhiên và con người Tây Nguyên.
2.3.2. Tiến trình giờ học: (Tiết 59, 60)
2.3.2.1. ổn định tổ chức.
2.3.2.2. Kiểm tra bài cũ.
2.3.2.3. Bài mới:
a. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác giả:
- Câu hỏi 1: Cuộc đời Nguyễn Trung Thành có gì nổi bật? Các sáng tác
chính của nhà văn?
- Câu hỏi 2: Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành có những
nét độc đáo như thế nào?
11



* Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và nhấn mạnh những nét
chính:
- Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu. Sinh ngày 5/9/1932,
quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
- Ông thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ. Là nhà văn có thời gian dài gắn bó với Tây Nguyên và bén
duyên đặc biệt với mảnh đất này.
- Các tác phẩm chính: (sách giáo khoa)
- Đôi nét về phong cách nghệ thuật:
+ Tài năng văn học của Nguyễn Trung Thành được hình thành từ thực tiễn
cách mạng, từ cuộc sống gian khổ của người lính và từ yêu cầu của sự nghiệp
chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
+ Các sáng tác luôn mang đậm chất sử thi thể hiện ở hình tượng người anh
hùng tiêu biểu cho phẩm chất lý tưởng, sức mạnh cộng đồng - những người anh
hùng trong hành động với những tính cách phi thường.
+ Thiên nhiên kỳ vĩ, dữ dội đầy huyền thoại.
+ Thời gian luôn gắn với các sự kiện và biến cố lịch sử.
+ Ngôn ngữ ngắn gọn, giọng văn ngợi ca trang trọng, hào hùng, có sức lôi
cuốn mãnh liệt.
b. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm:
* Tri thức đọc - hiểu: Vừa đảm bảo cho sự tiếp cận đồng bộ, vừa góp phần
định hướng cho sự tiếp nhận cảm xúc đầy đủ và hệ thống. Cụ thể:
- Tri thức về tác giả, tác phẩm.
- Tri thức về thể loại truyện ngắn.
* Hướng dẫn đọc: Rừng xà nu được viết theo khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn, giọng đọc chủ đạo phải thể hiện được sự tự hào, thiêng liêng, trang
trọng, ngợi ca. Từ việc đọc đúng, đọc diễn cảm đối với tác phẩm này được coi là
biện pháp đọc chủ yếu, làm sao cho phù hợp với từng đoạn, từng nhân vật. Cụ thể:
- Đoạn miêu tả cây xà nu: giọng mạnh mẽ thể hiện sức sống mãnh liệt không
gì ngăn cản nổi; giọng thiết tha, thán phục trước vẻ đẹp lãng mạn của xà nu.

- Đoạn Tnú hồi tưởng lại kỷ niệm: giọng cảm thông chia sẻ.
- Đoạn cụ Mết kể chuyện: giọng trầm hùng, hào sảng (gợi không khí trang
trọng, kính cẩn và huyền thoại).
* Tiến trình tổ chức học sinh tìm hiểu tác phẩm.
* Giáo viên nêu vấn đề: Có nhiều cách tìm hiểu tác phẩm. Theo em, tác
phẩm Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành nên tìm hiểu theo bố cục từng
đoạn, theo nhân vật hay theo cách nào khác?
* Học sinh: Trao đổi, thảo luận theo hình thức nhóm, tổ hoặc lớp học và
phát biểu, trình bày ý kiến chung của tập thể hoặc cá nhân.
* Giáo viên hướng dẫn trả lời: Rừng xà nu là một tác phẩm tự sự nhưng
mang đậm chất trữ tình, có phẩm chất của tiểu thuyết. Nếu áp dụng rập khuôn cách
phân tích theo đặc trưng thi pháp thể loại là tối ưu nhưng cần sử dụng một cách linh

12


hoạt. Chính vì vậy, chúng ta sẽ lựa chọn phân tích theo vấn đề, tìm hiểu những nét
lớn, đặc sắc của tác phẩm.
* Bước 1: Sau khi đọc tác phẩm (kết hợp sự chuẩn bị bài ở nhà thông qua
hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài của sách giáo khoa và giáo viên, vốn tri
thức cá nhân), giáo viên yêu cầu học sinh xác định đề tài, chủ đề, tình huống, cốt
truyện, nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm.
Giáo viên hỏi câu hỏi 1: Rừng xà nu ra đời trong hoàn cảnh nào ? Em
hãy tóm tắt một cách ngắn gọn truyện ngắn Rừng xà nu?
Học sinh trả lời:
- Hoàn cảnh ra đời: +Tác phẩm ra đời trong hoàn cảnh mùa hè 1965, Mỹ ồ
ạt đổ quân vào Nam, chuẩn bị cho hàng loạt chiến lược chiến tranh mới. Ban
đầu tác phẩm được đăng trên tạp chí Văn nghệ miền Trung Trung bộ số 2 - 1965,
về sau được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tác
phẩm đến với nhà văn như một thứ định mệnh. Cuộc hành quân cùng Nguyễn

Thi từ Miền Bắc vào, qua rừng xà nu bạt ngàn đầy quyến rũ đã gợi cảm hứng
sáng tác cho ông.
+Tuy các nhân vật trong tác phẩm đều có nguyên mẫu trong đời thực
nhưng không vì thế mà ý nghĩa khái quát của hình tượng nghệ thuật bị giảm đi.
Những con người trong tác phẩm, kể cả cây xà nu, những cánh rừng xà nu đều là
hiện thân của một đất nước anh hùng.
- Tóm tắt tác phẩm:
+ Mở đầu: cánh rừng xà nu bạt ngàn, sức sống mạnh mẽ.
+ Sau ba năm đi lực lượng trở về thăm làng, Tnú nhớ lại những kỷ niệm trước
đây. Gặp lại đầy đủ bà con, đặc biệt là cụ Mết già làng, Dít - em gái Mai. Trong
đêm bên bếp lửa nhà Ưng, cụ Mết đã kể cho dân bản nghe về cuộc đời Tnú: nhiều
hi sinh, đau khổ nhưng vô cùng anh dũng. Nhớ nhất là hai bàn tay bị đốt bằng nhựa
xà nu. Cụ Mết đã cùng dân bản giết chết bọn giặc và giải thoát cho Tnú.
+ Kết thúc: Tnú lại ra đi giữa cánh rừng xà nu trải dài đến ngút tầm mắt.
Giáo viên hỏi câu hỏi 2: Qua tác phẩm này, nhà văn Nguyễn Trung Thành
muốn nói tới điều gì?
Học sinh trả lời: Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, thông
qua hình tượng cây xà nu và tập thể anh hùng Xô Man, tác giả ca ngợi tinh thần
chiến đấu anh dũng, kiên cường của nhân dân Tây Nguyên nói riêng và nhân
dân Việt Nam nói chung trong cuộc chiến đấu kì diệu của dân tộc.
Giáo viên hỏi câu hỏi 3: Em có nhận xét gì về cốt truyện và tình huống
truyện trong Rừng xà nu?
Học sinh trả lời:- Cốt truyện: có hai cốt truyện đan lồng. Một về cuộc đời
của nhân vật Tnú. Một về cuộc đồng khởi của dân làng Xô Man. Cả hai cốt
truyện được xây dựng trên cái trục mâu thuẫn là cuộc đấu chọi trực tiếp của một
tập thể anh hùng với kẻ thù.
- Tình huống: Tình huống Tnú trở về sau ba năm đi lực lượng. Đó là sự trở
về của quá khứ, sự đánh thức quá khứ đau thương mà oanh liệt, rất đỗi tự hào.

13



Giáo viên hỏi câu hỏi 4: Có ý kiến cho rằng: Rừng xà nu rất khó lĩnh hội
hết nội dung bởi tác phẩm đã lồng nhiều lời kể với nhau. ý kiến của em?
Học sinh trả lời: Tác phẩm là câu chuyện về cuộc đời người anh hùng
Tnú. Cuộc đời ấy gắn với lịch sử chiến đấu của dân làng Xô Man do cụ Mết kể
lại. Bên cạnh đó còn có lời kể của tác giả, nhân vật Tnú. Sự đan lồng lời kể vẫn
thể hiện được rõ nội dung chính của truyện. Tất cả xoay quanh "Câu chuyện của
một đời được kể trong một đêm".
* Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích hình tượng nhân vật,
hình tượng cây xà nu, rừng xà nu trong tác phẩm.
Hình tượng cây xà nu:
Giáo viên hỏi câu hỏi 6: Tại sao nói, hình tượng cây xà nu, rừng xà nu là
một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn Nguyễn Trung Thành?
Học sinh trả lời: Trong kết cấu của truyện, cây xà nu là hình tượng nghệ
thuật để liên kết các sự kiện, các chi tiết. Xà nu được miêu tả với hai bút pháp: tả
thực và tượng trưng.
- Xà nu qua bút pháp tả thực:
+ Mang vẻ đẹp hùng vĩ: Thân mọc thẳng, ngọn lao lên trời, ham ánh sáng,
có sức sống bất diệt.
+ Mang vẻ đẹp lãng mạn: Màu sắc, mùi vị, tư thế.
=> Để trình bày mạch cảm xúc của chính mình sang người đọc, tác giả
khéo léo sử dụng hàng loạt động từ, trạng từ gây cảm giác mạnh, bút pháp so
sánh, thủ pháp điện ảnh để miêu tả xà nu. Qua hình tượng xà nu, nhà văn đã tạo
dựng thành công một khung cảnh hoành tráng làm nền cho sự xuất hiện nhân
vật, một không gian thực, cụ thể, đậm đà chất Tây Nguyên, tạo cho tác phẩm
một âm hưởng trữ tình, hào hùng, giàu chất thơ.
- Xà nu qua bút pháp tượng trưng:
+ Hình ảnh cây xà nu được lặp lại suốt chiều dài tác phẩm.
+ Có mặt trong mọi sinh hoạt của đời sống người dân Xô Man.

+ Tham dự các sự kiện lịch sử trọng đại của dân làng Xô Man.
+ Được miêu tả trong sự ứng chiếu với con người.
=> Tác giả đã sử dụng phép so sánh - nhân hoá để đặc tả xà nu. Đó là một
kiểu ẩn dụ về con người Xô Man, về truyền thống anh hùng cách mạng, bất
khuất của người dân Tây Nguyên nói riêng, nhân dân Việt Nam nói chung.
Tóm lại: Hình tượng cây xà nu là hình tượng mang chất sử thi, kết hợp vẻ
đẹp lãng mạn và anh hùng, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn
Nguyễn Trung Thành.
Giáo viên hỏi câu hỏi 7: Việc sử dụng lối kết cấu trùng điệp về hình ảnh
cây xà nu có ý nghĩa như thế nào?
Học sinh trả lời:
- Gợi không gian xảy ra câu chuyện.
- Đặt tác phẩm vào bối cảnh sử thi (tạo không khí hào hùng và lãng mạn
của các bản anh hùng ca).
- Làm phông nền cho sự xuất hiện của nhân vật.
14


- Khẳng định vị trí trung tâm của hình tượng cây xà nu trong tác phẩm.
Hình tượng tập thể anh hùng:
Lời chuyển của giáo viên: Rừng xà nu đã xây dựng thành công hình
tượng một tập thể anh hùng - Mỗi người một vẻ nhưng họ giống nhau ở sự thuỷ
chung với cách mạng, sự gan góc, dũng cảm trước kẻ thù. Tất cả không cần biểu
hiện ồn ào, nhiều lời nhưng dồn nén biết bao dữ dội. Với Nguyễn Trung Thành,
con người chiến đấu là con người có một tình yêu, một sự gắn bó sâu sắc, bền
chặt với quê hương, do vậy, họ mang được trong mình sức mạnh tổng hợp của
quê hương để vượt lên và chiến thắng mọi hoàn cảnh. Trong tập thể anh hùng ấy,
tiêu biểu là cụ Mết, Tnú, Dít và bé Heng.
Hình tượng nhân vật Tnú: nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Giáo viên hỏi câu hỏi 8: Phân tích những phẩm chất anh hùng của nhân

vật Tnú.
Học sinh trả lời: -Tnú là con người gan góc dũng cảm, táo bạo và trung thực.
* Khi nhỏ:
+ Cùng Mai vào rừng tiếp tế cho cán bộ.
+ Làm liên lạc: không đi theo lối mòn, lựa chỗ thác mạnh vượt qua.
+ Học chữ: tự đập đầu trừng phạt.
+ Giặc bắt: dũng cảm không khai.
* Khi trưởng thành: Thay anh Quyết làm cán bộ. Bị giặc bắt, đốt mười đầu
ngón tay nhưng vẫn chiến đấu. Tham gia giải phóng quân. Tnú không phải là
chú bé Tây Nguyên như trước (chiến đấu tự phát) mà trở thành giải phóng quân
chiến đấu cho một tổ chức có tính tự giác.
- Tnú là người có lòng căm thù giặc sâu sắc và có tính kỷ luật cao.
+ Lòng căm thù giặc xuất phát từ chính tội ác của kẻ thù đã gây ra cho gia
đình, quê hương và cuộc đời anh. Đối với anh, kẻ thù chỉ có một hình dáng, một
khuôn mặt: " Đứa nào cũng là thằng Dục".
+ Nhớ buôn làng nhưng chỉ về thăm theo đúng quy định.
- Tnú là người rất giàu lòng yêu thương:
+ Yêu thương dân làng (cả làng vui mừng đón tiếp anh, anh nhớ tiếng chày).
+ Yêu thương vợ con: chỉ có tay không vẫn xông vào giữa bọn giặc để cứu
vợ con. Hình ảnh Mai lúc nào cũng hiện về trong tâm trí anh (kỷ niệm khi về
đến đầu làng, khi nhìn thấy Dít).
Giáo viên hỏi câu hỏi 9: Em có cảm nghĩ gì về hình ảnh bàn tay Tnú? Hình
tượng nhân vật Tnú giúp em hiểu thêm gì về cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của
người dân Tây Nguyên?
Học sinh trả lời:
+ Đôi bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc được tác giả thể hiện
để làm nổi bật tính cách nhân vật cũng như hiện thực đấu tranh khốc liệt của
nhân dân Miền Nam trong thời kỳ đầu đồng khởi. Đôi bàn tay lúc lành lặn là bàn
tay tình nghĩa. Khi tàn tật rực lửa căm thù. Chính qua đôi bàn tay tàn tật (tàn
nhưng không phế), tác giả đã tố cáo tội ác kẻ thù, giúp người dân Xô Man rút ra

bài học quý giá: không thể chiến đấu với kẻ thù tàn ác bằng sự đơn độc, liều lĩnh
15


bằng hai bàn tay trắng. Muốn chiến thắng phải có sự đoàn kết và "Chúng nó cầm
súng, mình phải cầm giáo!".
+ Qua cuộc đời bi hùng của Tnú giúp người đọc hiểu rõ hơn về âm mưu
thâm độc của kẻ thù: nguyên nhân vì sao nhân dân Tây Nguyên nổi dậy, thấy
được số phận và con đường giải phóng các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại
đấu tranh tự giải phóng.
Hình tượng nhân vật cụ Mết, Mai, Dít, Heng:
Giáo viên hỏi câu hỏi 10: Phân tích nhân vật cụ Mết, Mai, Dít, bé Heng
để thấy rằng lịch sử chiến đấu của dân làng Xô Man là lịch sử chiến đấu của
một sự sống không thể nào dập tắt, một tư thế sống không biết đến sự cúi đầu.
Học sinh trả lời:
Nhân vật cụ Mết:
+ Đây là nhân vật kỳ ảo, mang dáng dấp sử thi huyền thoại.
+ Là hồn thiêng sông núi, hình ảnh Tây Nguyên bất khuất, kiên cường trước kẻ thù.
+ Là ngọn cờ tập hợp dân chúng, là người mang chân lý cách mạng (tiêu
biểu là bài học: " Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!").
+ Là người cha già luôn yêu thương, quan tâm và tin tưởng vào thế hệ trẻ.
Nhân vật Mai:
+ Là lớp xà nu trưởng thành, cùng thế hệ với Tnú.
+ Từ nhỏ đã là đứa trẻ anh hùng.
+ Thông minh, tế nhị, duyên dáng.
+ Có sự dẻo dai, lanh lẹ của người thiếu phụ Tây Nguyên; đức hy sinh tuyệt
vời (vì cách mạng, vì chồng và vì con) của người phụ nữ Việt Nam.
Nhân vật Dít:
+ Giống chị cả về vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn.
+ Từ nhỏ đã tỏ ra là người rất gan dạ trước kẻ thù.

+ Là người có trách nhiệm với công việc.
+ Giàu lòng yêu thương đồng chí, đồng loại.
+ Được dân làng rất mực thương yêu.
Nhân vật bé Heng: Nhanh nhẹn, thông minh, sớm mang trong mình dòng
máu cha anh. Là hiện thân của nhân vật Tnú ngày nhỏ và dự báo một Tnú trưởng
thành trong tương lai.
* Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự bộc lộ cảm xúc (trao đổi, thảo
luận, đưa ra ý kiến chung hoặc riêng) trong việc lựa chọn những chi tiết hay,
tình huống độc đáo, cái mới, lạ v.v của tác phẩm để phân tích.
Giáo viên có thể đưa ra một số câu hỏi để học sinh tranh luận trước khi
chuyển sang phần tổng kết như sau:
(1) Về bí mật của truyện ngắn Rừng xà nu, nhà văn Nguyễn Trung Thành
tự nhận xét: "Rừng xà nu là câu chuyện của một đời được kể trong một đêm",
vậy tại sao tác giả lại chọn nhan đề của tác phẩm là Rừng xà nu? Nếu thay thế
bằng một nhan đề khác, giá trị của tác phẩm có thay đổi?
(2) Đọc truyện ngắn Rừng xà nu, chi tiết nào để lại trong em ấn tượng sâu
sắc nhất? Vì sao?
16


(3) Nếu đặt em vào tình huống của Tnú khi phải chứng kiến cảnh người
thân bị giặc tra tấn, em sẽ làm cách nào: ra cứu hay im lặng để giữ bí mật cho
cách mạng ?
Sau khi học sinh trả lời, giáo viên có thể bổ sung hoặc tổng kết ý chính
cho các em về những vấn đề ở các câu hỏi trên.
*Bước 4: Giáo viên định hướng tổng kết và hướng dẫn học sinh học bài ở nhà.
+ Rừng xà nu là tác phẩm được viết theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn. Tác phẩm là bản anh hùng ca ca ngợi sức mạnh cộng đồng, ca ngợi một
sự sống không thể nào dập tắt, một tư thế sống không biết đến sự cúi đầu, một
tình yêu lý tưởng cháy bỏng của người dân Xô Man nói riêng và nhân dân Tây

Nguyên nói chung trong cuộc đối đầu lịch sử.
+ Những sáng tạo trong phương thức miêu tả khiến cho tác phẩm hài hoà
được chất cô đọng của kịch, chất trữ tình của thơ và chất tráng lệ của anh hùng ca.
- Phần làm việc của học sinh ở nhà:
+ Viết một đoạn văn nêu cảm nghĩ của em về truyện ngắn Rừng xà nu?
+ Trả lời câu hỏi: Thế nào là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn?
Phân tích tính sử thi - lãng mạn của truyện ngắn Rừng xà nu? (qua đề tài, chủ đề,
hình tượng nhân vật, không gian, thời gian nghệ thuật, giọng điệu, ngôn ngữ v.v.).
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Bài dạy - học truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành cho học
sinh lớp 12 THPT được phân phối ở chương trình Văn học lớp 12 tập hai (Phần
Văn học Việt Nam) vào tiết 59,60 (theo phân phối chương trình ). Thiết kế giáo
án xong, tôi đã tham khảo nhiều ý kiến của đồng nghiệp và tiến hành dạy thể
nghiệm một số lớp 12 năm học 2015 - 2016. Từ kết quả dạy thể nghiệm cũng
như ý kiến đóng góp rất chân thành của các đồng nghiệp có thể rút ra một số
nhận xét cơ bản sau:
Thứ nhất: Về nội dung kiến thức:
Bài thiết kế thể nghiệm đã cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản cho
học sinh về tác phẩm cũng như tác giả. Luôn bám sát vào đặc trưng thi pháp thể
loại để khai thác hết giá trị độc đáo của tác phẩm. Trong quá trình hướng dẫn
học sinh phân tích tác phẩm, bài dạy - học thể nghiệm đã chú ý làm nổi bật
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn ở tác phẩm.
Thứ hai: Về phương pháp và biện pháp:
Với hệ thống câu hỏi phong phú (tái hiện, sáng tạo, cảm xúc v.v) từ đơn
giản đến nâng cao, kết hợp lời dẫn dắt, gợi ý, định hướng v.v. của giáo viên, bài
thiết kế thể nghiệm đã sử dụng linh hoạt hệ thống các phương pháp và biện pháp
làm sao để phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh. Giáo
viên đã hướng dẫn học sinh từng bước cụ thể: hướng dẫn đọc, hướng dẫn phân
tích, khái quát; học sinh có thể đồng tình, phản đối (tự bộc lộ cảm xúc) sau mỗi

vấn đề mà giáo viên đưa ra, giáo viên không áp đặt cách hiểu, cách cảm nhận
của mình cho học sinh. Chính điều đó đã tạo được bầu không khí văn chương
thực sự trong giờ học. Với giờ học như vậy, không những học sinh cảm thấy say
17


mê với môn học hơn bởi mình được làm chủ kiến thức mà còn góp phần hình
thành những năng lực văn học ở các em.
So sánh, đối chiếu số liệu điều tra sự cảm thụ của học sinh về tác phẩm này
ở học sinh có cùng trình độ khi thực hiện hai phương pháp( phương pháp cũ và
phương pháp dạy học theo đặc trưng thi pháp thể loại )
Kết quả dạy theo phương pháp cũ
Lớp 12 A :sĩ số 35
Mức độ hiểu bài
Tốt
Khá
Trung
Yếu
bình
3
7
12
13
Kết quả dạy học theo phương pháp mới
Lớp 12 B : Sĩ số 35
Mức độ hiểu bài
Tốt
Khá
Trung
Yếu

bình
8
15
11
01
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể là một vấn đề đã
được đặt ra từ lâu trong thực tiễn giảng dạy văn học ở trường phổ thông và cũng từ
lâu là mối trăn trở, suy nghĩ tìm tòi của phần lớn giáo viên THPT. Loại thể văn học
là một vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học có liên quan khăng khít đến
nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định,
đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích, giảng dạy phù hợp với nó. Vì
vậy, vấn đề loại thể văn học trong thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đặt ra
không những như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn là một vấn đề phương pháp.
Nhà văn Nguyễn Trung Thành là nhà văn tiêu biểu của nền văn học 19451975. Truyện ngắn Rừng xà nu xứng đáng là niềm tự hào của cả một đời văn
Nguyễn Trung Thành. Đây là bản anh hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm
hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên nói riêng, cuộc
chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc Việt Nam nói chung. Đó là một tác
phẩm với dung lượng được cô đúc tới mức tối đa (truyện một đời, một cộng
đồng được kể trong một đêm) nhưng nội dung phản ánh lại vô cùng rộng lớn
(cái đêm dài như cả một đời). Cái đặc sắc của truyện chính là không gian sử thi
và thời gian của các sự kiện, biến cố lịch sử đậm chất huyền thoại. Giữa không
gian ấy, nổi bật lên hình ảnh những người anh hùng- những con người luôn được
đặt trong tình huống căng thẳng, nghiệt ngã của chiến tranh để bộc lộ vẻ đẹp
phẩm chất và tính cách của mình. Tất cả được thể hiện bằng ngôn ngữ trần thuật
đầy hào hùng, sôi nổi nhưng cũng rất đậm chất trữ tình. Vậy làm cách nào để
giúp học sinh hiểu đầy đủ nội dung, giá trị nghệ thuật độc đáo của tác phẩm
(trong khi hiện nay văn hoá đọc của học sinh còn nhiều hạn chế và với phạm vi
của 2 tiết học)? Việc giảng dạy Rừng xà nu vì thế không đơn giản và để có một
phương pháp tối ưu khi dạy- học tác phẩm này là vô cùng cần thiết.

18


Từ việc lựa chọn các phương pháp và biện pháp dạy- học truyện ngắn
Rừng xà nu tôi mong muốn tìm ra con đường, cách thức dạy - học thể loại
truyện ngắn nói chung nhằm nâng cao hiệu quả dạy - học văn hiện nay trong nhà
trường THPT. Đó là: tiếp cận đồng bộ (qua hoạt động đọc), phân tích hệ thống
câu hỏi và trao đổi đánh giá .v.v. Dưới sự dẫn dắt, định hướng của giáo viên, học
sinh không chỉ nắm bắt được giá trị độc đáo của tác phẩm một cách có hệ thống,
chính xác, hoàn thiện mà còn kích thích tinh thần tự học, tự chiếm lĩnh tác
phẩm, tạo niềm hứng thú say mê ở các em.
Tôi đã cố gắng để đạt kết quả như ý muốn, song, do còn nhiều hạn chế về
năng lực, chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được
sự chỉ bảo, những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để tôi có thể
hoàn thiện được đề tài nghiên cứu một cách tốt và có ý nghĩa hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................
......................................................................

Lang Chánh, ngày 23 tháng 4 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác


Nguyễn Thị Thanh Hợi

19


Tài liệu tham khảo
1. Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương- NXB ĐHSP.
2. Sách giáo khoa Ngữ Văn Việt nam lớp 12 - NXB GD.
3. Sách giáo viên Ngữ Văn Việt nam lớp 12 - NXB GD.
4. Từ điển “thuật ngữ văn học”.
5. Dạy học theo chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn 12-NXB ĐHSP.
6. Từ điển Tiếng Việt.

20



×