Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số giải pháp sử dụng trong việc dạy học bài 8 định dạng văn bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 20 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Thực hiện Nghị quyết 40/2000/NQ-QH của Quốc hội và Chỉ thị số
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới chương trình và phương
pháp giảng dạy ở bậc giáo dục phổ thông. Đến nay, đổi mới giáo dục phổ thông
đã trở thành một khâu đột phá quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, trong
đó đặc biệt chú trọng đến phương tiện dạy học, đối tượng dạy học và phương
pháp dạy học.
Hiện nay trong lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy học môn tin học
nói riêng đề cập khá nhiều phương pháp và kĩ thuật dạy học: phương pháp thảo
luận, phương pháp đặt câu hỏi, phương pháp chia nhóm …
Các cách thiết kế bài giảng hiện nay nhằm mục đích áp dụng phương
pháp hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực ham muốn học hỏi, tư duy
sáng tạo, năng lực tự giải quyết vấn đề, rèn luyện và phát triển năng lực tự học
sáng tạo, nghiên cứu, nghĩ và làm việc một cách tự chủ… Đồng thời để thích
ứng với sự phát triển tư duy của học sinh trong xã hội mới và tiếp cận với các
công nghệ tiên tiến trong xã hội, trên thế giới. Bên cạnh đó, trong các kỹ thuật
dạy học mới, vai trò của người thầy có sự thay đổi là: “hướng dẫn học sinh biết
tự mình tìm ra hướng giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập,
biết cách làm việc độc lập, làm việc tập thể. Thầy là người định hướng, là người
cố vấn giúp học sinh tự đánh giá, cũng như giúp học sinh luôn đi đúng con
đường tìm hiểu, lĩnh hội kiến thức…”.
Xuất phát từ thực tiễn giảng dạy cho đối tượng học sinh tại Trung tâm
Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên (GDNN-GDTX) Thọ Xuân tôi
thấy rằng, để đạt hiệu quả cao trong mỗi phần học, buổi học cần có cách thiết kế
bài giảng cho phù hợp với nội dung kiến thức; phương pháp, phương tiện dạy
học phải phù hợp với từng đối tượng học sinh. Để qua mỗi phần học, buổi học
học sinh thích thú với kiến thức mới, qua đó hiểu được kiến thức đã học trên
lớp, đồng thời học sinh thấy được tầm quan trọng của vấn đề và việc ứng dụng
của kiến thức trước hết để đáp ứng những yêu cầu của môn học, và quan trọng
hơn là việc áp dụng được trọng thực tiễn trong đời sống xã hội.


Đối với Bài 8: “Định dạng văn bản” trong sách nghề tin học văn phòng
lớp 11, mục đích của bài học là hệ thống lại ý nghĩa và các nội dung định dạng
văn bản cơ bản, đồng thời giúp cho học sinh thành thạo việc định dạng kí tự và
định dạng đoạn văn theo mẫu hoặc theo các quy định hiện hành; đối với cách
dạy hiện nay là cung cấp kiến thức trước rồi mới đi vào thực hành sẽ tạo cho học
sinh sự nhàm chán trong việc tiếp thu bài giảng. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy
tôi luôn trăn trở làm thế nào để các em có thể tiếp thu tốt các kiến thức đưa ra
đồng thời vận dụng các kiến thức đó vào thực hành như thế nào. Tôi muốn từ
các ví dụ thực tế để mô tả một cách trực quan cho học sinh thấy được sự khác
nhau cần thiết trong việc định dạng văn bản.
Từ lí do trên tôi xin trình bày sáng kiến kinh nghiệm “Một số giải pháp
sử dụng trong việc dạy học bài 8 - Định dạng văn bản”. Thông qua đề tài này
1


tôi muốn góp thêm một giải pháp giảng dạy giúp cho học sinh yêu thích môn
học nghề phổ thông hơn đặc biệt là nghề Tin học văn phòng.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Với phương pháp dạy truyền thống như: thuyết trình, luyện tập…. trước
kia trong giờ dạy của giáo viên trở thành một bên cung cấp kiến thức một bên
tiếp nhận, với cách học này học sinh trở nên thụ động thiên về ghi nhớ ít chịu
suy nghĩ dẫn đến chất lượng và hiệu quả giờ dạy không cao. Với phạm vi đề tài
này của tôi áp dụng nhiều phương pháp dạy học vào trong một bài để tạo ra một
giờ học hiệu quả hơn.
Mục đích của đề tài nghiên cứu nhằm giúp cho học sinh có thể tiếp thu bài
một cách tốt nhất, sau buổi học các em vừa nắm tốt được các kiến thức cơ bản
đồng thời có thể thực hiện thành thạo các yêu cầu định dạng, tạo cho các em có
một tiền đề tốt cho các buổi thực hành sau.
Từ việc vận dụng các phương pháp dạy học mà tôi áp dụng trực tiếp đối
với bài 8: “Định dạng văn bản”, tôi thiết nghĩ vẫn áp dụng có hiệu quả đối với

những bài có cấu trúc tương tự như bài: Làm việc với văn bản, bài: Chèn một số
đối tượng đặc biệt… để nâng cao chất lượng giờ dạy.
1.3. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu.
Đề tài này được thực hiện trên nền học sinh 4 lớp trong 2 năm: 11A3 và
11A4 thực hiện ở năm học 2016 – 2017, 11A1 và11A2 thực hiện ở năm học
2017 – 2018 tại Trung tâm GDNN-GDTX Thọ Xuân.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Kết hợp thực tiễn giáo dục ở Trung tâm GDNN-GDTX Thọ Xuân.
- Có nghiên cứu thêm các tài liệu bổ trợ: Nghề tin học phổ thông 11 và
một số tài liệu về các phương pháp dạy học hiện nay.
- Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin để biết thực trạng dạy và học
ở trung tâm để đưa ra được các phương pháp dạy học đối với nghề tin học nói
chung và đối với bài 8 - Định dạng văn bản nói riêng dễ hiểu và dễ nhớ nhất.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trong xu thế phát triển ngày càng cao của xã hội, thì xã hội cũng ngày
càng đổi mới nhiều để tiến kịp với sự phát triển đó. Với mục tiêu đào tạo học
sinh thành những con người phát triển toàn diện về đạo đức và trí tuệ, thẩm mĩ,
các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo. Vì
vậy trong dạy học cần phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh phù hợp với đặc trưng bộ môn, khả năng hợp tác rèn luyện kỹ năng
vận dụng kiến thức vào thực tế, gây hứng thú học tập cho học sinh.
Với nghề Tin học văn phòng việc hình thành cho học sinh kỹ năng nghề
nghiệp vô cùng quan trọng và cần thiết bởi vì điều đó sẽ giúp cho học sinh vững
vàng và tự tin hơn khi vào đời.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1 Thuận lợi – khó khăn:
Có những mặt thuận lợi như:
2



- Được sự quan tâm của lãnh đạo Trung tâm tạo mọi điều kiện để các em
có phòng máy học tập.
- Giáo viên được đào tạo chuyên ngành về tin học để đáp ứng nhu cầu cho
dạy và học tin học.
- Đối với học sinh: đây là môn học trực quan, sinh động nên các em rất có
hứng thú đặc biệt là các tiết học thực hành.
Bên cạnh những mặt thuận lợi đó thì còn gặp nhiều khó khăn như:
- Trung tâm có một phòng máy tính gồm 25 máy tính học sinh và một
máy giáo viên nên tỉ lệ bình quân là 1,5 học sinh/1máy tính. Do đó trong các giờ
thực hành sẽ có 2 bạn ngồi một máy nên sẽ rất mất thời gian trong việc thao tác
vì phải thay đổi vị trí ngồi thực hành (một bạn thực hành trước, một bạn thực
hành sau).
- Phòng máy đã sử dụng lâu năm nên khi thực hành các máy móc thường
gặp sự cố dẫn đến việc học sinh thiếu máy không thể thực hành hết bài học.
- Một số em còn chưa có ý thức việc học, bởi vì đây chỉ là môn học nghề
nên có sự lơi là trong tiếp thu kiến thức cũng như sao nhãng không chịu thực
hành gây khó khăn cho việc học nghề tin.
2.2.2 Khảo sát thực tế
Trước khi thực hiện đề tài này, năm học 2016 - 2017 tôi đã khảo sát thông
qua một giờ dạy trên lớp. Qua việc kiểm tra bài cũ, đánh giá kết quả các em học
bài tôi đã thu được kết quả như sau:
*Về khâu tiếp nhận lý thuyết:
Lớp

11A3
11A4
Cộng

Lớp


Tổng
số

Giỏi
S
L

%

Khá
SL

%

41
2
4.9
12 29.3
36
0
0
13 36.1
77
2
2.6
25 32.5
* Về kĩ năng thực hành:

TB


Yếu

Kém

SL

%

SL

%

SL

%

14
14
28

34.1
38.9
36.4

10
7
17

24.4

19.4
22.1

3
2
5

7.3
5.6
6.4

Thực hành
Tự thao tác sau khi có Thao tác cần có hướng
Tổng số
Chưa biết thao tác
hướng dẫn
dẫn thường xuyên
SL
%
SL
%
SL
%

11A3
41
8
25.6
20
48.8

13
25.6
11A4
36
6
30.2
21
46.5
9
23.3
Cộng
77
14
18.2
41
53.2
22
28.6
Qua kết quả trên thì đa phần các em nắm kiến thức lí thuyết còn yếu, các
em hay quên và chưa vận dụng vào thực hành được nếu không có sự hướng dẫn
của giáo viên. Thậm chí có những em chưa hề biết về máy tính do khi học
trường cấp Trung học cơ sở không đưa môn tin học vào giảng dạy.
Đối với việc học lý thuyết trước sau đó mới đi vào thực hành sẽ làm cho
giờ học trở nên khô khan hơn, học sinh khi thực hành đôi khi không nhớ được
3


các bước để thực hiện định dạng văn bản. Để soạn thảo và định dạng được văn
bản hoàn thiện đòi hỏi các em phải có kỹ năng trong việc sử lý văn bản, biết
nhận biết được nên làm các thao tác nào trước các thao tác nào sau để rút ngắn

được thời gian soạn thảo một văn bản.
Từ thực tế trên và bản thân tôi là một giáo viên dạy bộ môn Tin học luôn
suy nghĩa phải đưa ra những giải pháp như thế nào để các em nắm lí thuyết chắc
hơn nhớ lâu hơn và vận dụng vào thực hành tốt hơn. Sau một thời gian suy nghĩ
tiến hành thực nghiệm tôi đã thu được những kết quả tốt, sau đây tôi xin đề ra
một số phương pháp dạy học trong bài định dạng văn bản.
2.3. Các phương pháp dạy học sử dụng để giải quyết vấn đề.
Để giúp học sinh nắm vững kiến thức, biết vận dụng kiến thức để thực
hiện được các bài thực hành một cách khoa học và nhanh nhất, tôi đã rút ra kinh
nghiệm dạy bài này như sau:
2.3.1 Sử dụng phương pháp vấn đáp, giải thích, minh họa:
Phương pháp này được thực hiện khi những câu hỏi của giáo viên đưa ra
có kèm theo các ví dụ minh họa (bằng lời hoặc bằng hình ảnh trực quan) nhằm
giúp học sinh dễ hiểu, dễ ghi nhớ. Việc áp dụng phương pháp này có giá trị sư
phạm cao hơn nhưng khó hơn và đòi hỏi nhiều công sức của giáo hơn khi chuẩn
bị hệ thống các câu hỏi thích hợp. Phương pháp này được áp dụng có hiệu quả
trong một số trường hợp, như khi giáo viên biểu diễn phương tiện trực quan.
Đối với “bài 8: Định dạng văn bản” này thì trước hết giáo viên cần phải
xác định ta nên đưa hình ảnh trực quan nào, vừa có tính gợi mở vừa thu hút học
sinh cùng với hình ảnh trực quan là các câu hỏi gợi mở.
Ví dụ như:
Hoạt động 1: Tìm hiểu về định dạng văn bản
Chuẩn bị của giáo viên cho hoạt động 1: hai văn bản: một văn bản mới chỉ
nhập chưa qua chỉnh sửa về định dạng, một văn bản đã qua chỉnh sửa về định
dạng ( sử dụng máy chiếu hoặc có thể in ra trên giấy A0 cho học sinh quan sát).
Văn bản 1: Chưa thô
Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con đường nhỏ chừng 2km, du
khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những

căn nhà sàn xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh bao
bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một cây Chò nước đường
kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là cửa hang Thắm Làng – một hang động tự
nhiên có vẻ đẹp cuốn hút…
Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự hướng dẫn du khách sẽ kết bè
tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…và tắm suối trước khi ăn trưa.
Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân Hương, một trong những
vẻ duyên dáng yêu kiều của thành phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi

4


tiếng này, du khách có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.
Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B, thật may
mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh mát và
yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách thăm.
Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.
Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và vườn cây
trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa nhanh, mà còn
do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.
Văn bản 2: Đã định dạng

Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con
đường nhỏ chừng 2km, du khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là
một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những căn nhà sàn

xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh
bao bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một
cây Chò nước đường kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là
cửa hang Thắm Làng – một hang động tự nhiên có vẻ đẹp
cuốn hút…

Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự
hướng dẫn du khách sẽ kết bè tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…
và tắm suối trước khi ăn trưa.
Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân
Hương, một trong những vẻ duyên dáng yêu kiều của thành
phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi tiếng này, du khách
có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.

5


Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B,
thật may mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh
mát và yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách
thăm. Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.
Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và
vườn cây trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa
nhanh, mà còn do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.
Nội dung: Giáo viên cho học sinh xem hai văn bản, trong đó một văn bản
được định dạng, một văn bản chưa được định dạng. Từ đó học sinh hình thành
nhu cầu cần định dạng văn bản và cần học những kỹ năng để thực hiện yêu cầu

đã đặt ra.
Câu hỏi:
Hai văn bản dưới đây có cùng nội dung nhưng hình thức trình bày khác
nhau. Em chọn cách trình bày nào và tại sao?
Cho học sinh thảo luận nhóm để tìm câu trả lời.
Học sinh ghi nhớ nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên , ghi vào vở ý kiến
của mình. Sau đó được thảo luận nhóm với các bạn xung quanh bằng cách ghi lại
các ý kiến của bạn khác vào vở của mình. Thảo luận nhóm để đưa ra báo cáo của
nhóm về những dự đoán này, thống nhất cách trình bày kết quả thảo luận nhóm, ghi
vào phiếu các ý kiến thống nhất của nhóm.
Trong quá trình hoạt động nhóm, giáo viên quan sát học sinh tự học, thảo
luận, trợ giúp kịp thời khi các em cần hỗ trợ. Ghi nhận kết quả làm việc của cá
nhân hoặc nhóm học sinh.
Hoạt động 2: Định dạng kí tự
Chuẩn bị của giáo viên cho hoạt động 2: hai văn bản: một văn bản mới
chỉ nhập chưa qua chỉnh sửa về định dạng kí tự, một văn bản đã qua chỉnh sửa
về định dạng kí tự (sử dụng máy chiếu hoặc có thể in ra trên giấy A 0 cho học
sinh quan sát). Chú ý ta nên đưa cùng một văn bản cho các em thấy sự thay đổi
của văn bản khi có sự tác động của định dạng về kí tự lên văn bản.
Văn bản 1: văn bản thô
Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con đường nhỏ chừng 2km, du
khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những
căn nhà sàn xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh bao
bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một cây Chò nước đường
kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là cửa hang Thắm Làng – một hang động tự
nhiên có vẻ đẹp cuốn hút…
6



Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự hướng dẫn du khách sẽ kết bè
tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…và tắm suối trước khi ăn trưa.
Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân Hương, một trong những
vẻ duyên dáng yêu kiều của thành phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi
tiếng này, du khách có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.
Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B, thật may
mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh mát và
yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách thăm.
Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.
Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và vườn cây
trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa nhanh, mà còn
do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.
Văn bản 2: Đã được định dạng về kí tự

Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con đường nhỏ chừng 2km, du
khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những
căn nhà sàn xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh bao
bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một cây Chò nước đường
kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là cửa hang Thắm Làng – một hang động tự
nhiên có vẻ đẹp cuốn hút…

Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự hướng dẫn du khách sẽ kết bè
tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…và tắm suối trước khi ăn trưa.

Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân Hương, một trong những
vẻ duyên dáng yêu kiều của thành phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi
tiếng này, du khách có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.

Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B, thật may
mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh mát và
yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách thăm.
Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.
Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và vườn cây
trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa nhanh, mà còn
do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.

7


Nội dung: Giáo viên cho học sinh xem hai văn bản, trong đó một văn bản
được định dạng kí tự, một văn bản chưa được định dạng kí tự. Qua thao tác cho
học sinh quan sát và nhận xét sự thay đổi kí tự giữa hai văn bản từ đó tạo ra
động lực cho học sinh nhu cầu cần phải định dạng được về mặt kí tự.
Câu hỏi: Các em hay quan sát hai văn bản và cho biết có sự khác nhau gì
về kí tự của hai văn bản
Cho học sinh quan sát và trả lời câu hỏi, có thể gọi một vài em trả lời để
cho thấy kết quả hoạt động tư duy của từng em trong lớp.
Hoạt động 3: Định dạng đoạn
Chuẩn bị của GV cho hoạt động 3: hai văn bản: một văn bản đã qua chỉnh
sửa về định dạng kí tự và định dạng đoạn, một văn bản mới chỉ chỉnh sửa về
định dạng kí tự ( sử dụng máy chiếu hoặc có thể in ra trên giấy A 0 cho học sinh
quan sát). Ta vẫn nên đưa cùng một văn bản cho các em thấy sự thay đổi của văn

bản khi có sự tác động của định dạng đoạn lên văn bản.
Văn bản 1: chỉ mới định dạng kí tự

Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con đường nhỏ chừng 2km, du
khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những
căn nhà sàn xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh bao
bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một cây Chò nước đường
kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là cửa hang Thắm Làng – một hang động tự
nhiên có vẻ đẹp cuốn hút…

Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự hướng dẫn du khách sẽ kết bè
tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…và tắm suối trước khi ăn trưa.
Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân Hương, một trong những
vẻ duyên dáng yêu kiều của thành phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi
tiếng này, du khách có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.

Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B, thật may
mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh mát và
yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách thăm.
Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.
Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và vườn cây
trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa nhanh, mà còn
do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.

8



Văn bản 2: Đã định dạng kí tự và định dạng đoạn

Du lịch Ba Miền
Hang Thắm Làng, Chợ Mới, Bắc Cạn
Từ trung tâm xã Yên Hân (Chợ Mới), men theo con
đường nhỏ chừng 2km, du khách sẽ tới thôn Nà Làng. Là
một xóm nhỏ chỉ có 32 hộ, Nà Làng có những căn nhà sàn
xinh xắn thấp thoáng bên vườn cây, xung quanh là rừng xanh
bao bọc. Đứng từ xa, ai cũng nhìn thấy phía chân núi là một
cây Chò nước đường kính khoảng 3 m. Ngay gần gốc cây là
cửa hang Thắm Làng – một hang động tự nhiên có vẻ đẹp
cuốn hút…

Chinh phục đỉnh Lang Bian kì diệu
Ngược dòng suối Tiên đến thượng nguồn, theo sự
hướng dẫn du khách sẽ kết bè tre rồi chèo suối, vượt ghềnh…
và tắm suối trước khi ăn trưa.
Đến Đà Lạt, du khách có dịp chiêm ngưỡng hồ Xuân
Hương, một trong những vẻ duyên dáng yêu kiều của thành
phố sương mù. Tới thành phố du lịch nổi tiếng này, du khách
có cơ hội chinh phục đỉnh Lang Bian, leo lên đỉnh Huyền
thoại tình yêu cao 2.169 m.

Làng cổ Túy Loan – Đà Nẵng
Cách thành phố Đà Nẵng náo nhiệt chỉ chừng 15 km, bên quốc lộ 14B,
thật may mắn vẫn còn lại hiếm hoi một ngôi làng cổ có tuổi gần 500 năm, xanh
mát và yêu ả nằm bên sông Túy Loan trong xanh, thu hút ngày càng đông khách
thăm. Làng lấy tên sông, cũng gọi Túy Loan.

Ngôi làng hấp dẫn không chỉ bởi khung cảnh xanh tươi của lũy tre và
vườn cây trái, không khí trong lành như ốc đảo xanh giữa bốn bề đô thị hóa
nhanh, mà còn do nhiều dấu ấn văn hóa và nếp sống cổ truyền vẫn còn lưu giữ.
Nội dung: Giáo viên cho học sinh xem hai văn bản, trong đó một văn bản
mới chỉ được định dạng kí tự, một văn bản được định dạng kí tự và định dạng
9


đoạn. Qua đó cho các em nhận xét sự thay đổi giữa hai văn bản (hình thức trực
quan của văn bản qua quan sát đã có sự thay đổi khi chúng ta định dạng đoạn lên
văn bản).
Câu hỏi:
Hai văn bản dưới đây có cùng nội dung nhưng thể hình thức trình bày có
sự khác nhau. Em chọn cách trình bày nào và tại sao?
Cho học sinh thảo luận để tìm câu trả lời.
Học sinh ghi nhớ nhiệm vụ chuyển giao của giáo viên , suy nghĩ trao đổi với
các bạn để đúc rút ra câu trả lời của mình .
Trong quá trình hoạt động của học sinh giáo viên quan sát học sinh tự học,
thảo luận, trợ giúp kịp thời khi các em cần hỗ trợ. Ghi nhận kết quả làm việc của
cá nhân học sinh..
2.3.2 Dạy học trực quan bằng biểu trưng ngôn ngữ.
Biểu trưng ngôn ngữ được tạo ra từ chữ viết dưới dạng một từ đơn lẽ hoặc
câu hoàn chỉnh dùng đặt tên đối tượng, định nghĩa, mô tả đối tượng.
Thường khi dạy các bài học lý thuyết tôi thường sử dụng loại biểu trưng
trực quan bằng ngôn ngữ.
Khi dạy bài “Định dạng văn bản” thì đưa lên màn hình các bước thực hiện
của Hoạt động 2: định dạng kí tự như sau:
Bước 1. Chọn khối văn bản cần định dạng
Bước 2. Click Format \ Font
Bước 3. Hộp thoại Font xuất hiện chọn Font

+ Font:
chọn phông chữ
+ Font Style:
kiểu chữ
+ Size :
cở chữ
+ Font color:
màu chữ
+ Underline Style:
đường gạch chân
+ Underline Color:
màu đường gạch chân
+ Preview:
khung hiển thị
Bước 4. Click OK
Giáo viên lưu ý về phiên bản phần mềm Ms Word 2003 được sử dụng
trong sách Nghề Tin học văn phòng 11 - trang 48 không còn phù hợp với thực tế
khi các máy tính đã cài bộ công cụ phiên bản 2007 trở lên. Khi đó giáo viên cần
có hướng dẫn bổ sung nội dung này theo phiên bản phần mềm mới. Có thể bổ
sung như sau (Giao diện tôi đang sử dụng là dùng phiên bản phần mềm Ms
Word 2010):
- Bước 1: Chọn khối văn bản cần định dạng
- Bước 2: Ta mở hộp thoại font theo hướng dẫn sau:

10


Kích chuột trái để
vào hộp thoại font


- Bước 3: Hộp thoại Font xuất hiện chọn Font
+ Font:
chọn phông chữ
+ Font Style:
kiểu chữ
+ Size :
cỡ chữ
+ Font color:
màu chữ
+ Underline Style:
đường gạch chân
+ Underline Color:
màu đường gạch chân
+ Effects:
các hiệu ứng
+ Preview:
khung hiển thị
- Bước 4. Click OK
Hoạt động 3: Định dạng đoạn như sau:
- Bước 1. Chọn đoạn văn bản cần định dạng
- Bước 2. Click Format \ Paragraph (Sách nghề tin học văn phòng
11 - trang 50). Nhưng với Ms Word 2010 ta thực hiện như sau:

Kích chọn

Bước 3. Hộp thoại Paragraph xuất hiện chọn Paragraph
+ General: Alignment: chọn căn lề cho đoạn văn bản
+ Indentatin: chọn khoảng cách của đoạn văn bản với lề trái (left)
và lề phải của trang văn bản (right).
+ Spacing : Chọn khoảng cách của đoạn văn bản với các đoạn văn

bản liền kề (before, after) và khoảng cách giữa các dòng trong đoạn văn bản
(line spacing).
- Bước 4. Click OK
Đối với cả hai hoạt động: hoạt động 2 và hoạt động 3 thì thao tác quan
trọng nhất vẫn là thao tác chọn đoạn văn bản cần định dạng.
11


2.3.3 Dạy học trực quan bằng biểu trưng đồ hoạ.
Biểu trưng đồ hoạ được tạo ra bằng nhiều cách đồ họa liên quan với hình
ảnh, đồ hoạ liên quan với khái niệm, đồ hoạ tuỳ ý... Việc dạy học trực quan bằng
biểu trưng đồ hoạ trong Tin học giúp người học có thể thao tác nhanh các bước
thực hành - đây là yêu cầu cần đạt của người học Tin học, dựa vào các biểu
trưng đồ hoạ này học sinh có thể phát hiện ra khái niệm, ý nghĩa của nó. ..
Khi dạy bài “Định dạng văn bản” ngoài việc định dạng văn bản bằng
menu lệnh giáo viên cần cho học sinh định dạng văn bản thông qua các biểu
tượng sau:
Hoạt động 2: Định dạng kí tự

Khi cho học sinh quan sát các biểu tượng, giáo viên đồng thời vừa nêu các
chức năng của từng biểu tượng vừa thực hiện các thao tác cho học sinh quan sát.
Hoạt động 3: Định dạng đoạn

Giáo viên cho học sinh nhìn vào biểu tượng và nêu chức năng của các biểu
tượng từ đó các em nắm chắc hơn kiến thức lí thuyết để vận dụng vào làm thực
hành tốt hơn.
2.3.4 Kết hợp các loại hình trực quan
Giữa các loại hình trực quan, người thiết kế có thể kết hợp đa dạng các
loại biểu trưng trực quan ngôn ngữ, hình ảnh, đồ hoạ với nhau. Đối với hầu hết
học sinh ba loại này bao gồm nhiều mức độ khác nhau rất có ích trong học tập.

Dạy bài “Định dạng văn bản” ta chiếu hình ảnh sau và kết hợp cho học
sinh thực hiện định dạng phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ... trên máy tính thì học
sinh dể tiếp thu bài và ghi nhớ lâu hơn.

12


Hoạt động 2: Định dạng kí tự

13


Hoạt động 3: Định dạng đoạn

2.3.5 Phương pháp dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp là một quan niệm dạy học nhằm hình thành ở học sinh
những năng lực giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn dựa trên sự huy
động nội dung, kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều đó cũng
có nghĩa là đảm bảo để mỗi học sinh biết cách vận dụng kiến thức học được
trong nhà trường vào các hoàn cảnh mới lạ, khó khăn, bất ngờ, qua đó trở thành
một người công dân có trách nhiệm, một người lao động có năng lực. Dạy học
tích hợp đòi hỏi việc học tập trong nhà trường phải được gắn với các tình huống
của cuộc sống mà sau này học sinh có thể đối mặt vì thế nó trở nên có ý nghĩa
đối với các em. Với cách hiểu như vậy, dạy học tích hợp phải được thể hiện ở cả
nội dung chương trình, phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá,
hình thức tổ chức dạy học.

14



Như vậy, thực hiện dạy học tích hợp sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và
phát triển cá nhân mỗi học sinh, giúp các em thành công trong vai trò của người
chủ gia đình, người công dân, người lao động tương lai.
Dạy học tích hợp là định hướng về nội dung và phương pháp dạy học,
trong đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến
thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học
tập, thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới, phát triển được
những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và
trong thực tiễn cuộc sống.
Đối với bài “Định dạng văn bản” để áp dụng phương pháp dạy học tích
hợp tôi áp dụng như sau:
Thông thường khi lên lớp giáo viên sẽ đưa các kiến thức cơ bản, kiến thức
nền trước, sau đó có thực hành mẫu và cho học sinh thực hiện lại; khi thực hiện
bài dạy này tôi sẽ kết hợp đồng thời là cung cấp kiến thức từng bước 1, ở từng
bước tôi sẽ thực hiện mẫu cho học sinh quan sát các thao tác mẫu sau đó cho
thực hành luôn bước vừa dạy.
Ví dụ:
Hoạt động 2: Định dạng kí tự
* Bước 1: Chọn phần văn bản cần định dạng kí tự
Giáo viên: Trình chiếu nội dung
Học sinh: Quan sát, lắng nghe, ghi chép bài
Giáo viên: Thực hiện mẫu cho học sinh quan sát
Học sinh: Quan sát các thao tác mẫu của giáo viên
Giáo viên: Cho học sinh thực hiện luôn trên máy
Học sinh: Thực hành định dạng kí tự
Giáo viên: Quan sát các thao tác thực hành của học sinh, uốn nắn
chỉnh sửa các thao tác còn sai. Nhận xét đánh giá sai sót của học sinh khi thực
hiện.
Chú ý đây là thao tác quan trọng vì nếu không chọn phần văn bản để định
dạng thì các bước thực hiện sau sẽ không hiển thị đối với phần văn bản đó.

* Bước 2: Sử dụng vào hộp thoại font
Giáo viên: Trình chiếu bước thứ 2
Học sinh: Quan sát, lắng nghe, ghi chép bài
Giáo viên: Thực hiện mẫu cho học sinh quan sát
Học sinh: Quan sát các thao tác mẫu của giáo viên
Giáo viên: Cho học sinh thực hiện luôn trên máy
Học sinh: Thực hành định dạng kí tự
Giáo viên: Quan sát các thao tác thực hành của học sinh, uốn nắn
chỉnh sửa các thao tác còn sai. Nhận xét đánh giá sai sót của học sinh khi thực
hiện.
Chú ý: trong bước thứ 2 khi xuất hiện hộp thoại font thì giáo viên chỉ dẫn
học sinh chọn thẻ font để định dạng kí tự, tại thẻ font có nhiều mục định dạng để
học sinh dễ hiểu và thuận tiện trong các thao tác thực hành sau này thì giáo viên
15


nên thực hiện thao tác mẫu với mỗi lần chọn lựa định dạng kí tự ( định dạng về
phông chữ, cỡ chữ, kiểu chữ, màu sắc…) sau mỗi thao tác mẫu của giáo viên thì
học sinh cũng thực hành luôn.
* Bước 3: Click OK
Đối với hoạt động 3: Định dạng đoạn văn bản tôi cũng thực hiện sử dụng
phương pháp tích hợp, kết hợp đồng thời việc dạy lí thuyết xen lẫn cho học sinh
thực hành.
Ngay từ đầu để giảng bài “Định dạng văn bản”tôi đã áp dụng kết hợp rất
nhiều phương pháp dạy học lồng ghép với nhau để giải quyết từng hoạt động.
Tạo cho học sinh có hứng thú, kích thích cần phải tìm hiểu các kiến thức liên
quan để giải quyết vấn đề. Để có sự liên kết cho bài tôi sử dụng bài thực hành
trong sách nghề tin học văn phòng 11 trang 51 làm ví dụ thực tế, như vậy khi
giáo viên nêu lên được phần lí thuyết có liên quan của bài học thì đồng thời cả
giáo viên và học sinh đã thực hành được các yêu cầu định dạng về kí tự và đoạn

đối với nội dung thực hành có trong bài học.
Khi giáo viên sử dụng phương pháp dạy học tích hợp thì cần đảm bảo
được các yêu cầu sau:
- Chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo được xây dựng mới theo
hướng mô đun hóa và định hướng đầu ra là năng lực hành nghề.
- Phương pháp dạy học: Các phương pháp dạy học được áp dụng theo
định hướng hành động, tích hợp giữa truyền thụ kiến thức/lý thuyết với hình
thành rèn và luyện kỹ năng/thực hành, nhằm tạo điều kiện cho người học chủ
động tham gia và hình thành cho người học năng lực thực hành nghề.
- Phương tiện dạy học: Phương tiện dạy học được thiết kế, phát triển phù
hợp với mô đun đào tạo.
- Giáo viên: Giảng dạy tích hợp là dạy kết hợp lý thuyết và thực hành, do
vậy giáo viên phải đảm bảo dạy được cả lý thuyết và thực hành nghề. Ngoài
kiến thức chuyên môn, kỹ năng tay nghề thì giáo viên phải có trình độ xác định
các mục tiêu bài dạy, phân bố thời gian hợp lý, chọn lựa phương pháp dạy học
phù hợp, khả năng bao quát và điều hành hoạt động của người học.
- Học sinh: Học sinh phải chủ động, tích cực, độc lập, có tinh thần hợp
tác.
- Đánh giá: Đánh giá kết quả học tập nhằm xác định/công nhận các năng
lực mà người học đã đạt được thong qua đánh giá sự thực hiện cũng như mức độ
đạt được các mục tiêu kiến thức, kỹ năng và thái độ.
- Cơ sở vật chất: Bản chất của dạy học tích hợp là tổ chức dạy học kết hợp
giữa dạy lý thuyết và dạy thực hành trong cùng không gian, thời gian và địa
điểm. Điều này có nghĩa là khi dạy một kỹ năng nào đó thì phần kiến thức liên
quan đến đâu sẽ được dạy đến đó và sẽ được thực hành ngay kỹ năng đó. Do đó
phòng dạy tích hợp sẽ khác phòng dạy lý thuyết và phòng chuyên dạy thực hành,
tức là phải trang bị đầy đủ trang thiết bị dạy học, cũng như dụng cụ thực hành kỹ
năng, cụ thể phải đáp ứng điều kiện dạy được cả lý thuyết và thực hành: hiện tại
chưa có chuẩn quy định về loại phòng này. Tuy nhiên do đặc điểm của việc tổ
16



chức dạy học tích hợp cho nên phòng học phải có chỗ để học lý thuyết đồng thời
cũng phải có chỗ để bố trí máy móc thiết bị thực hành. Vì vậy, diện tích phòng
dạy học tích hợp phải đủ lớn để kê bàn, ghế học lý thuyết, lắp đặt các thiết bị hỗ
trợ giảng dạy lý thuyết, lắp đặt đủ các thiết bị thực hành cho học sinh.
2.3.6 Phương pháp dạy học và luyện tập thực hành
Về mặt bản chất thì “luyện tập và thực hành”: nhằm củng cố, bổ sung, làm
vững chắc thêm các kiến thức lí thuyết. Trong luyện tập, người ta nhấn mạnh tới
việc lặp lại với mục đích học thuộc những “đoạn thông tin”: đoạn văn, thơ, bài
hát, kí hiệu, quy tắc, định lí, công thức, … đã học và làm cho việc sử dụng kĩ
năng được thực hiện một cách tự động, thành thục. trong thực hành, người ta
không chỉ nhấn mạnh vào việc học thuộc mà còn nhằm áp dụng hay sử dụng
một cách thông minh các trí thức để thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Vì thế,
trong dạy học, bên cạnh việc cho học sinh luyện tập một số chi tiết cụ thể, giáo
viên cũng cần lưu ý cho học sinh thực hành phát triển kĩ năng.
Trong bài 8 “Định dạng văn bản” học sinh sau khi học xong phần lí
thuyết liên quan đã giải quyết xong được bài thực hành 1 (trang 51 – Sách nghề
tin học văn phòng 11). Trước khi vào bài thực hành thứ 2 tôi tóm tắt lại những
kiến thức có liên quan, nhấn mạnh những điểm cần chú ý để sang bài thực hành
thứ 2 các em không mắc phải.
Do số lượng máy trong phòng còn hạn chế (2 em/1 máy) nên tôi tổ chức
cho học sinh khi vào học thường là một em có học lực tốt đối với môn tin học sẽ
đi kèm với một em học kém hơn. Khi phân chia theo nhóm như vậy học sinh có
thể trao đổi hỗ trợ lẫn nhau - bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ
không chỉ là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên.
Giáo viên quản lí, giám sát học sinh thực hành theo nhóm :
+ Trong quá trình học sinh thực hành, giáo viên theo dõi quan sát và
bổ trợ khi cần.
+ Chỉ rõ những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng học

sinh yếu trong các nhóm, những kĩ năng, thao tác nào được dành cho đối tượng
học sinh khá giỏi trong nhóm.
+ Phát hiện các nhóm thực hành không có hiệu quả để uốn nắn điều
chỉnh.
+ Luôn có ý thức trách nhiệm trợ giúp tránh can thiệp sâu làm hạn chế
khả năng độc lập sáng tạo của học sinh.
+ Trong quá trình thực hành, giáo viên có thể đưa ra nhiều cách để
thực hiện thao tác giúp các em rèn luyện và nâng cao kĩ năng.
Giáo viên có thể kiểm tra hiệu quả làm việc của các nhóm bằng cách chỉ
định 1 học sinh trong nhóm thực hiện lại các thao tác đã thực hành. Nếu học
sinh được chỉ định không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm gắn cho các thành
viên trong nhóm, đặc biệt là nhóm trưởng(bạn có học lực tốt). Hoặc cho các
nhóm trưởng kiểm tra kết quả thực hành lẫn nhau của nhóm khác theo vòng
tròn. Làm được như vậy các em sẽ tự giác và có ý thức hơn trong học tập.
- Nhận xét, đánh giá kết quả học tập:
17


+ Tổ chức cho các nhóm tự nhận xét kết quả thực hành, nhóm
trưởng điều hành - nhận xét về kĩ năng, thái độ học tập của các bạn trong nhóm.
+ Tổ chức cho các nhóm trưởng nhận xét kết quả thực hành của các
nhóm khác.
+ Giáo viên tổng kết, nhận xét, bổ sung kiến thức.
Giáo viên cũng nên có nhận xét ngắn gọn về tình hình làm việc của các
nhóm để kịp thời động viên, khuyến khích các nhóm thực hành tốt và rút kinh
nghiệm đối với các nhóm chưa thực hành tốt.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua một thời gian thực hiện vận dụng các phương pháp dạy học vào áp
dụng cho bài: “Định dạng văn bản”, tôi nhận thấy;

- Việc ứng dụng giúp giáo viên truyền thụ kiến thức cho học sinh một
cách tích cực và trực quan, tiết kiệm thời gian trong tiết dạy lí thuyết từ đó học
sinh có thời gian thực hành nhiều hơn và trong quá trình thực hành học sinh nhớ
kiến thức lâu hơn
- Đối với học sinh tôi nhận thấy học sinh học tập tích cực hơn, hào hứng
hơn, chú ý hơn, tham gia xây dựng bài sôi nổi hơn. Đặc biệt các em ghi nhớ kiến
thức lâu hơn, chất lượng đi lên rõ rệt.
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào các tiết dạy thể hiện chất lượng
các mức độ như sau.
Cụ thể: * Về mức độ tiếp thu lý thuyết:
Lớp

Tổng
số

Giỏi
SL
%

Khá
SL
%

TB
SL

%

Yếu
SL

%

Kém
SL %

Năm học 2016 - 2017
11A3
41
13
31.7
17
41.5
11 26.8
0
0
0
0
11A4
36
12
33.3
14
38.9
9
25
1
2.8
0
0
Cộng 77

25
32.5
31
40.3
20
26
1
1.2
0
0
Năm học 2017 - 2018
11A1
48
14
29.2
25
52
8
16.7
1
2.1
0
0
11A2
46
13
28.3
26
56.5
7

15.2
0
0
0
0
Cộng 94
27
28.7
51
54.3
15 15.9
1
1.1
0
0
Qua kết quả trên thể hiện rõ việc sử cải tiến phương pháp dạy học trong
bài giảng tin học đã có hiệu quả, học sinh đã chủ động trong các thao tác thực
hành cụ thể là:
+ Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí thuyết
năm học 2016 – 2017: đạt 72.8%, năm học 2017 – 2018: đạt 83%
+ Số em đạt điểm trung bình năm học 2016 – 2017: đạt 26%, năm học
2017 – 2018: đạt 15.9%.
+ Số em chưa hiểu bài năm học 2016 - 2017 chiếm tỉ lệ 1.2%, năm học
2017 – 2018 chiếm 1.1%

18


So sánh với 2 lớp 11 năm học 2016 – 2017 trước khi áp dụng đề tài
nghiên cứu:

Hai lớp 11A3, 11A4 năm học 2016 – 2017:
+ Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí
thuyết tăng 37.7%
+ Số em đạt trung bình giảm 10.4 %
+ Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu giảm 21 %
+ Số lượng học sinh kém không còn
Hai lớp 11A1, 11A2 năm học 2017 – 2018:
+ Số em hiểu bài biết vận dụng kiến thức kĩ năng trình bày bài lí
thuyết tăng 47.9%
+ Số em đạt trung bình giảm 20.5 %
+ Số em chưa hiểu bài, vận dụng yếu giảm 21 %
+ Số lượng học sinh kém không có.
* Về kĩ năng thực hành:
Lớp

Tổng số

Thực hành
Tự thao tác sau Thao tác cần có hướng Chưa biết thao
khi có hướng dẫn
dẫn thường xuyên
tác

SL

%
SL
%
SL
%

Năm học 2016 - 2017
30
73.2
11
26.8
0
0.0
11A3
41
28
77.7
8
22.3
0
0.0
11A4
36
Cộng
75.3
24.7
0.0
77
58
19
0
Năm học 2017 - 2018
39
81.3
9
18.7

0
0
11A1
48
40
86.9
6
13.1
0
0
11A2
46
Cộng
84
16
0.0
94
79
15
0
So với khi chưa áp dụng đề tài nghiên cứu thì ta thấy có sự thay đổi rõ rệt:
Hai lớp 11A3, 11A4 năm học 2016 – 2017:
+ Số lượng học sinh tự thao tác sau khi có hướng dẫn tăng 57.1%
+ Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên giảm 28.5 %
+ Chưa biết thao tác không còn.
Hai lớp 11A1, 11A2 năm học 2017 – 2018:
+ Số lượng học sinh tự thao tác sau khi có hướng dẫn tăng 65.8%
+ Thao tác cần có hướng dẫn thường xuyên giảm 37.2%
+ Chưa biết thao tác không có.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

3.1 Kết luận
Tin học là môn học mới đối với học sinh phổ thông đặc biệt là học sinh
khối trung tâm giáo dục thường xuyên. Để tạo hứng thú học tập cho học sinh và
từng bước nâng cao chất lượng bộ môn đòi hỏi người giáo viên phải tìm tòi, đổi
mới phương pháp dạy học phù hợp, hiệu quả.
19


Trong quá trình dạy học việc áp dụng nhiều phương pháp dạy học vào
trong một bài tôi nhận thấy rằng các em tích cực tự giác trong các giờ học, các
em thực hiện các kĩ năng cơ bản trên máy thành thạo hơn và các em áp dụng
được nhiều kiến thức được học vào cuộc sống hàng ngày.
Nếu vận dụng kinh nghiệm dạy học mà tôi nêu trong đề tài này vào những
bài giảng tiếp theo của bộ môn nghề tin học văn phòng, tôi tin chắc rằng nó sẽ
góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng bộ môn. Ngoài việc áp dụng
đối với chính bộ môn tôi đang giảng dạy thì tôi thiết nghĩ đối với các bộ môn
khác vẫn vận dụng được các phương pháp tôi đã nêu để thiết kế bài giảng thích
hợp.
3.2 Kiến nghị.
- Đối với các cấp lãnh đạo và Ban giám đốc Trung tâm: Môn tin học là
môn chủ yếu thực hành trên máy tính là dụng cụ học tập có giá trị cao về vật
chất do đó cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp các ngành và Trung tâm
tạo điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học môn
Tin học để giúp cho các em có điều kiện học tập tốt nhất.
- Đối với Tổ chuyên môn: Để nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo
viên, tôi kiến nghị tổ thường xuyên tổ chức các buổi thao giảng dự giờ đánh giá
nhằm góp thêm ý kiến để đồng nghiệp từ đó xây dựng được các bài giảng hoàn
thiện hơn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm chưa nhiều nên đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót, kính mong sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp để đề

tài được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA BAN GIÁM ĐỐC Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm
2018
Tôi xin cam đoan đề tài này do tôi tự
viết không sao chép của người khác
(Kí và ghi rõ họ tên)

Hà Thị Kim Oanh

20



×