Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG dạy học LỊCH sử GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ đổi mới PHƯƠNG PHÁP DẠYHỌC TRONG môn LỊCH sử ở THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.71 KB, 16 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC LỊCH SỬ
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TRONG MÔN LỊCH SỬ Ở THCS

-----------I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến giải pháp.
2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến giải pháp.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu.
------------------------------------------------------II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng.
Có thể nói, trong những năm gần đây việc thực hiện đổi mới căn bản toàn diện
giáo dục đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi ở các Trường trung học cơ sở. Đại đa số
giáo viên có tâm huyết với nghề nghiệp, có đam mê đã tích cực vận dụng các phương
pháp dạy học mới khá tốt, nên đã khêu gợi được tính tự lực của học sinh, phát huy tốt
vai trò của người học. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân cả về phía
giáo viên, cả về phía học sinh, cả về phía cơ sở vật chất lẫn cả về phía phụ huynh học
sinh dẫn đến chất lượng dạy-học môn Lịch sử vẫn còn nhiều băn khoăn, lo lắng. Sau đây
là thực trạng ở đơn vị tôi công tác:
* Về phía giáo viên
Việc thay đổi chương trình lẫn phương pháp giảng dạy mới khiến nhiều giáo viên
thực sự lúng túng. Trong một tiết dạy, nhiều giáo viên thiếu vận dụng linh hoạt, chỉ sử
dụng một phương pháp, nhiều giáo viên chỉ nghiêng về nói lại nội dung SGK làm cho
tiết học đơn điệu, giờ học diễn ra rất nhàm chán, học sinh không thể phát huy được tính
tích cực học tập của mình. Thậm chí chỉ vì lo hoàn thành khối lượng kiến thức mà nhiều
giáo viên đã không chú trọng đến đối tượng học sinh yếu (nếu không muốn nói là bỏ
qua). Từ đó nảy sinh tâm lý chán học. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
chất lượng dạy-học Lịch sử còn thấp.
(Phân tích thêm việc giáo viên lười sử dụng thiết bị dạy học, lười ứng dụng
công nghệ thông tin, thiếu tâm huyết cũng là một trong nhiều nguyên nhân dẫn đến
sự nhàm chán trong việc học môn Lịch sử. Nên lập bảng khảo sát về việc giáo viên
ngại áp dụng phương pháp mới, lo dạy xong khối lượng kiến thức nên bỏ qua học


sinh yếu để làm minh chứng cho phân tích trên. Ví dụ:
BẢNG KHẢO SÁT MINH CHỨNG
N.dung Sử dụng PPDH/tiết
Khi dạy GV chú ý đến
GV
1
2
3
4
HSG HSKhá HS nghịch K.thứ T.gian
c
GV 1
GV 2
GV 3
Trang 1


* Về phía học sinh
Đã qua nhiều năm thực hiện đổi mới, nhìn chung đại đa số học sinh đã tiếp cận
được với nội dung, kiến thức, chương trình và phương pháp dạy học mới, song quá trình
tiếp thu của học sinh chưa đồng đều, chưa linh hoạt trong quá trình hoạt động của mình,
việc tiếp cận với phương pháp dạy học mới và thiết bị dạy học mới đối với một số học
sinh còn khó khăn do đó kết quả tiếp thu của học sinh chưa đạt kết quả cao.
Bên cạnh đó. nhiều học sinh coi môn Lịch sử là “môn phụ” vì vậy các em ít chú ý
nghe giảng; các em ghi chép một cách máy móc những gì giáo viên ghi trên bảng và chỉ
học thuộc lòng những gì ghi trong vở thậm chí là không học bài chứ chưa nói đến việc
kết hợp với SGK để giải quyết các câu hỏi trong sách. Từ đó lại càng không biết phát
hiện những vấn đề cần được giải quyết. Từ chổ lười suy nghĩ, không biết phân tích vấn
đề, nên càng không biết nêu vấn đề để thảo luận bàn bạc dẫn đến việc chán chê, bỏ bê.
Và đây là nguyên nhân thứ hai trong nhiều nguyên nhân dẫn đến chất lượng môn Lịch

sử thấp trong thời gian qua mà các phương tiện thông tin đại chúng luôn đề cập.
* Về cơ sở vật chất phục vụ dạy học
Trong những năm gần đây, do yêu cầu của đổi mới sự nghiệp giáo dục, CSVC của
nhà trường được tăng trưởng mạnh. Song ở một số trường phương tiện dạy học chưa đầy
đủ, cơ sở vật chất chưa đảm bảo, phòng học bộ môn Lịch sử chưa có, các bản đồ, tranh
ảnh, băng hình chưa đầy đủ. Ở một số bài dạy, một số nội dung cần thiết đến sơ đồ, lược
đồ nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên không thể hiện rõ và không đưa ra định
hướng chung để thực hiện nên dễ gây ra sự tuỳ ý trong một số nội dung khi thực hiện.
Việc học sinh quá đông trong một lớp học cũng dẫn đến khó khăn trong việc phân chia
nhóm cũng ảnh hưởng đến rất lớn trong quá trình dạy học.
* Về phía phụ huynh học sinh.
Do tâm lý sợ con mình học vất vả (vì phải học thuộc lòng nhiều), lại sợ khó xin
việc trong tương lai nên nhiều phụ huynh không cho con mình theo ngành sử. Thậm chí
khi đã học sử xong xin được việc song lương của các công việc có liên quan đến ngành
sử cũng thấp nên tâm lý lo lắng luôn thường trực trong mỗi một phụ huynh khi con em
mình học sử nói chung, các môn xã hội nói riêng. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc học sinh thiếu chăm lo học tập, bỏ bê môn Lịch sử.
(Mỗi vấn đề lập một bảng khảo sát minh chứng)
Tóm lại, từ tháng 9 năm 2016 cho đến nay qua giảng dạy, phân tích, điều tra tôi đã
nhận thấy chất lượng dạy học môn Lịch sử còn thấp là do nhiều nguyên nhân, trong đó
tôi chú ý đến các nguyên nhân đã phân tích trên.
Sau đây là kết quả khảo sất chất lượng môn Lịch sử so với một số môn khác:
- Kết quả học tập bộ môn qua thống kê của một số môn cuối năm học 2016-2017 ở đơn
vị tôi công tác:
Môn
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu

Trang 2


SL
6

%
18.8

SL
10

%
31.3

SL
12

%
37.5

SL
4

%
12.5

Toán
T.Anh
Ngữ văn

Lịch sử
- Kết quả bài kiểm tra số 1 qua thống kê của một số môn đầu năm học 2017-2018 ở đơn
vị tôi công tác:
Kết quả
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Môn
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6
18.8
10
31.3
12
37.5
4
12.5
Toán
T.Anh
Ngữ văn
Lịch sử
(Chú ý đưa số liệu môn Sử thấp hơn các môn khác về G, Khá; cao hơn về số liệu TB,

yếu kể cả đối với môn Văn, và chỉ ra thấp hơn, cao hơn mấy %)
Qua số liệu khảo sát trên, tôi nhận thấy: đúng như tình trạng đã điều tra, phân tích,
học sinh nắm kiến thức lịch sử không chắc chắn, có nhiều điểm yếu, tỉ lệ điểm yếu kém
cao, kĩ năng vận dụng kiến thức để làm bài tập lịch sử của nhiều em còn yếu, có quá
nhiều chỗ hỏng về kiến thức ….
Để khắc phục tình trạng này, trong mỗi tiết lên lớp, tôi cố gắng tìm tòi những giải
pháp thích hợp để cuốn hút các em vào bài giảng, huy động suy nghĩ, trí tuệ của các em
khi tìm hiểu sự kiện, đánh giá, nhận xét, phân tích, tổng hợp sự kiện lịch sử trong bài
dạy. Sau đây là các giải pháp mà tôi đã thực hiện.

2. Giải pháp.
Cũng như các môn học khác, môn học Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ sở, nên đòi hỏi học sinh không chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức
đã học vào cuộc sống. Cho nên, việc học tập các môn nói chung, Lịch sử nói riêng đòi
hỏi phải phát huy khả năng tư duy, thông minh, sáng tạo của cả thầy lẫn của cả trò. Để
làm được việc đó cần phải kết hợp nhiều yếu tố trong một quá trình dạy học từ khâu
thiết kế bài soạn, tổ chức hoạt động cho học sinh, sử dụng thiết bị đến cả việc kiểm tra
đánh giá.
Giải pháp 1:
Xây dựng và thiết kế giáo án khoa học
Xây dựng giáo án là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công của bài giảng.
Những bài giảng có khi là một giáo án chuẩn bị chu đáo, cũng có khi là những ý tưởng
bất ngờ nảy đến. Không cứng nhắc như nhiều giờ học khác, trong giờ học Lịch sử bạn
có thể tổ chức nhiều hoạt động như đóng kịch, chơi trò chơi, học Lịch sử qua sự kiện,
qua tem…. Nhưng điều quan trọng nhất là gì? Là mục tiêu giảng dạy? Vậy thì một giáo
Trang 3


án như thế nào là hiệu quả? Và một giáo án cần những đặc điểm tiên quyết gì để có thể
đạt được mục tiêu giảng dạy?

Dưới đây, tôi xin đưa ra 8 vấn đề cần lưu ý mà tôi đã thực hiện để xây dựng một
giáo án hiệu quả để chúng ta có thể hướng tới mục tiêu cao nhất của mỗi người giáo
viên. Đó là nâng cao hiệu quả giờ dạy đồng thời đánh giá chính xác quá trình học tập
của học sinh. Kể cả khi không cần thiết phải thiết kế giáo án trên giấy thì 8 bước đó
cũng sẽ luôn nhắc nhở chúng ta nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong công việc giảng dạy
hàng ngày.
VĐ1. Mục tiêu.
Trong mỗi một giờ lên lớp hãy đề ra mục tiêu mà cả lớp phải hoàn thành (ví dụ:
Biết diễn biến về chiến dịch….). Và dù chúng ta có tiến hành hoạt động nào hay tổ chức
trò chơi gì cho giờ học thêm sôi nổi thì vẫn phải hướng đến mục tiêu của bài giảng.
VĐ2. Dẫn dắt.
Trước khi đi sâu vào nội dung của bài, nên có một vài lời dẫn dắt bằng cách liên
hệ giữa các kiến thức cũ và mới hoặc tạo ra một lý giải hợp lý cho việc thực hiện mục
tiêu bài giảng ngày hôm đó. Việc đó khiến học sinh thích thú, tập trung vào vấn đề cần
đạt hơn hẳn.
VĐ3. Hướng dẫn trực tiếp.
Khi thiết kế giáo án, chúng ta hãy đưa ra một cách cụ thể và chi tiết để làm sao
truyền tải được các khái niệm của bài học hôm ấy với các học sinh. Có rất nhiều cách
khác nhau và chúng ta có thể thay đổi theo từng đề tài.
VĐ4. Luyện tập theo hướng dẫn.
Chuẩn bị các bài luyện tập các kiến thức mới vừa học để củng cố kiến thức cho
học sinh đồng thời áp dụng các kỹ năng mà chúng ta vừa truyền đạt thông qua các chỉ
dẫn trực tiếp. Tất nhiên là chúng luôn phải có một sự theo dõi sát sao quá trình làm việc
của học sinh trong lớp mình.
VĐ5. Kết thúc.
Kết thúc bài học cũng là khởi đầu cho những kiến thức tiếp theo. Vậy sẽ rất hữu
ích nếu chúng ta có thể đặt ra những câu hỏi đầy tính gợi mở để khuyến khích sự tự
nghiên cứu thêm của học sinh cũng như sự chuẩn bị của họ cho bài học tiếp theo.
VĐ6. Tự luyện.
Khi hoàn thành các bài tập về nhà hoặc các bài luận cá nhân, học sinh có thể thể

hiện mức độ tiếp thu những kiến thức đã học. Thông qua việc trả bài, chúng ta sẽ xác
định được rằng mình đã thực hiện được mục tiêu giảng dạy hay chưa.
VĐ.7 Tài liệu và thiết bị cần thiết.
Hãy chuẩn bị những nguồn tài liệu cần thiết giúp chúng ta giảng bài hiệu quả. Và
nếu có thể, chúng ta nên giới thiệu cho học sinh tài liệu tham khảo cho từng mục kiến
thức khác nhau để họ tự tìm tòi.
VĐ.8 Đánh giá.
Bài học chỉ có thể coi là đã được hoàn thành khi bạn thành công trong việc đánh
giá quá trình học của học sinh trong từng tiết dạy. Phần đánh giá này là một trong những
phần quan trọng nhất, là tiền đề để chúng ta đặt ra những mục tiêu mới trong giờ học
tiếp theo.
Trang 4


Tóm lại, trong suốt quá trình giảng dạy, giáo án sẽ luôn là một cuốn cẩm nang tin
cậy mỗi khi chúng ta đứng trước lớp. Như vậy, một giáo án phải có một mục đích rõ
ràng, lôi cuốn được sự tham gia tích cực của học sinh, có thể áp dụng với nhiều phương
pháp học khác nhau và đưa học sinh đến những chân trời kiến thức mới. Với việc chú ý
8 bước trên, tôi tin rằng, chúng sẽ thành công trong việc xây dựng một giáo án thực sự
hiệu quả.
Soạn lại ví dụ, theo 8 vấn đề nêu trên.
Ví dụ: Bài 18 Lịch sử 9: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.
Bài này gồm 3 phần: 1. Hội nghị thành lập ĐCSVN (3-2-1930)
2. Luận cương chính trị tháng 10-1930
3. ý nghĩa của việc thành lập Đảng.
Cả ba phần này đều có thể hướng dẫn học sinh tự lực khai thác và chiếm lĩnh kiến thức
mới.
Giáo viên tiến hành như sau:
- Xác định mục tiêu, kiến thức, kỹ năng:
+ Kiến thức: Trọng tâm là nội dung hội nghị thành lập Đảng và ý nghĩa của việc thành

lập Đảng.
+ Tư tưởng: Giáo dục lòng biết ơn đối với lãnh tụ. Củng cố niềm tin vào vai trò lãnh
đạo của Đảng.
+ Kỹ năng: Rèn kỹ năng sử dụng tranh ảnh và biết phân tích, so sánh, đánh giá các sự
kiện lịch sử.
- Sử dụng các thiết bị dạy học:
+ Chân dung của Nguyễn ái Quốc năm 1930.
+ Chân dung của Trần Phú.
- Dự kiến hoạt động của học sinh
+ Hoạt động cá nhân
+ Hoạt động nhóm ở mục 1: Thảo luận câu hỏi ? Yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt
Nam lúc này là gì?
Tóm lại: Bài soạn của giáo viên được thể hiện ở giáo án gồm 3 phần: (Mục tiêu bài
học, phương tiện dạy học, hoạt động của giáo viên và học sinh trên lớp).

Giải pháp 2:
Tổ chức linh hoạt hoạt động nhóm.
Việc khuyến khích học sinh hợp tác với các thành viên khác trong lớp góp phần
tạo lập nên cộng đồng, gia tăng sự đoàn kết và khiến việc học trở nên tích cực hơn. Tuy
nhiên, quyết định xem có nên cho hoạt động nhóm hay không và tổ chức như thế nào,
việc đó có thể làm bạn cảm thấy mệt mỏi.

Trang 5


Bởi vì làm việc nhóm có thể là một thách thức và phức tạp, nhiều giáo viên hoặc
là tránh không cho hoạt động nhóm hoặc giữ học sinh ở những nhóm cố định. Duy trì
các “nhóm cố định” trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Họ không có sự điều chỉnh
thường xuyên tùy theo mục đích của bài tập và hồ sơ đánh giá học sinh. Điều này có thể
tước đi cơ hội cho học sinh được học hỏi và phát triển các mối quan hệ với tất cả các bạn

trong lớp.
Ngược lại, nhóm linh hoạt, sắp xếp học sinh một cách có chủ ý và thay đổi thường
xuyên tùy theo các trải nghiệm học tập trong một khoảng thời gian tương đối ngắn (ví
dụ: một hoặc hai tuần). Hoạt động nhóm kết nối với nhiệm vụ học tập và dựa trên kết
quả đánh giá lớp học cũng như các đặc điểm khác của học sinh.
Qua quá trình tổ chức hoạt động nhóm linh hoạt tôi nhận thấy có ba lợi thế so với
hoạt động nhóm cố định, cụ thể như sau:
Thứ nhất: Hoạt động nhóm linh hoạt kết nối các học sinh với nhau.
Bất cứ khi nào học sinh hoạt động trong một nhóm nhỏ, họ tách biệt với phần còn
lại của lớp. Với nhóm linh hoạt, sự tách biệt là tạm thời. Sau một khóa học kéo dài nhiều
ngày, nhiều tuần, nhiều tháng, học sinh cộng tác với nhiều người khác theo những cách
mới mà không phải thực hiện những buổi hoạt động cả nhóm, cá nhân hoặc tương tác
trong một nhóm nhỏ cố định. Hoạt động nhóm linh hoạt củng cố tình cảm trong lớp học.
Thứ hai: Hoạt động nhóm linh hoạt đưa học sinh đến với những quan điểm mới và
khác biệt.
Cũng như người lớn, trẻ em ở mọi lứa tuổi bị lôi cuốn bởi những người giống họ –
người chia sẻ quan điểm với họ, có cùng trải nghiệm, sở thích và dường như cùng có sự
đánh giá cao với một số thứ. Nhu cầu kết bạn là chuyện bình thường và rất có ích. Tuy
nhiên, học sinh có thể rất thoải mái hoặc có xích mích với cùng những thành viên trong
nhóm ở trong hoặc ngoài không gian lớp học. Nhóm linh hoạt tách học sinh ra khỏi vùng
thoải mái và buộc họ làm việc chung với những người mà họ không thể từ chối để trải
nghiệm những mối quan hệ mới.
Thứ ba: Nhóm linh hoạt chống lại sự khác biệt
Khi tiến hành hoạt động nhóm linh hoạt giáo viên đã gửi thông điệp mạnh mẽ đến
học sinh về vai trò của giáo viên đối với lớp học. Khi được sắp nhóm, hầu hết học sinh
sẽ đặt ra các câu hỏi: Ai cùng nhóm với mình? Chúng tôi sẽ làm gì? Họ sẽ làm gì?…
Học sinh đang tiến hành một dạng thức kiểm tra “độ cứng của giáo viên” cũng như niềm
tin của giáo viên đối với năng lực học tập của học sinh. Nhóm linh hoạt làm đã thử thách
người học ở chỗ họ bị sắp xếp làm việc với người khác theo những mục đích của giáo
viên. Các nhóm đôi khi được chia dựa trên độ sẵn sàng của học sinh hoặc cấp độ kĩ năng

nhưng các thành viên trong nhóm kết nối với nhau dựa trên mối quan tâm, sở thích học
tập, trải nghiệm,…
Từ những yếu tố trên, chúng ta phải xây dựng kế hoạch tổ chức nhóm linh hoạt.
Để giải quyết tốt vấn đề này, giáo viên phải trả lời dược các câu hỏi sau:
- Học sinh có nên ở trong nhóm lớn hay là làm việc theo cặp?
- Cho tự đọc hay đọc theo nhóm ba?
- Nhóm bốn người quá to hay quá nhỏ cho trò ghép hình?
- Học sinh có thể tự chọn nhóm không, hay là giáo viên nên chọn?
Trang 6


- Có phải cấp độ kĩ năng ảnh hưởng phần lớn đến các bài tập nhóm, hay là sở thích?
Giải pháp 3:
Tăng cường khai thác thiết bị dạy học hiệu quả
Đổi mới PPDH đang là một vấn đề vô cùng quan trọng trong việc quyết định dến
chất lượng giáo dục. Muốn vậy cần phải nâng cao, cải tiến đồng bộ các thành tố liên
quan, trong đó phương tiện dạy và học là một thành tố quan trọng.
Trong quá trình dạy học, các PTDH giảm nhẹ công việc của giáo viên và giúp cho
học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được các phương tiện thích hợp,
người giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy,
làm cho hoạt động nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hơn, tạo ra cho
học sinh những tình cảm tốt đẹp với môn học.
Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh
tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe - thấy - làm được (những gì nghe được không
bằng những gì nhìn thấy và những gì nhìn thấy thì không bằng những gì tự tay làm), nên
khi đưa những phương tiện vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện để nâng cao
tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu, lĩnh
hội kiến thức và hình thành kỹ năng, kỹ xảo của các em.
Có rất nhiều loại phương tiện dạy học với các hình thức và chức năng khác nhau,
trong đó có: phương tiện tạo hình ảnh (bảng đen, bảng trắng, tranh ảnh, bảng biểu,...),

những phương tiện khuếch đại hình ảnh (máy chiếu), phương tiện thu/phát khuếch đại
âm thanh (máy quay, máy ghi âm, ...)
Vì vậy người giáo viên khi sử dụng phương tiện dạy học phải bảo đảm các
nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học có tác dụng làm tăng hiệu
quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học sinh thu nhận được kiến thức về
đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không sử dụng phương tiện dạy học một
cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện dạy học không những không tăng lên
mà còn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn, căng thẳng...
Theo ý kiến của bản thân tôi thì mỗi giáo viên nên khai thác thiết bị dạy học theo
hướng sau đây:
- Khai thác máy tính, máy chiếu và các phần mềm dạy học cho công tác soạn, giảng.
Trong quá trình trình bày bài giảng, tùy theo từng nội dung bài học cụ thể mà ứng dụng
công nghệ thông tin với những mức độ và hình thức khác nhau.
- Xây dựng giáo án điện tử, bài giảng Elearning, sự tích hợp các công nghệ phần mềm
dạy. Bài giảng có thể lưu trữ trên các ổ đĩa hoặc trên một kho tài nguyên học tập trên
mạng, người học có thể sử dụng học tập bất cứ khi nào, bất cứ ở đâu.
- Khai thác tối đa tài nguyên dạy học trên mạng Internet
- Khai thác ứng dụng của các phần mềm mô phỏng trong giảng dạy làm cho quá trình
truyền thụ kiến thức được thuận tiện hơn. Cần biết vận dụng và khai thác các phần mềm
dạy học phổ biến.
Tuy nhiên cần chú ý những điểm sau đây:
Trang 7


- Trước hết giáo viên phải nhận thức đúng và đầy đủ vai trò của việc sử dụng thiết bị vào
đổi mới phương pháp giảng dạy. Giáo viên cần mạnh dạn, không ngại khó, tự thiết kế và
sử dụng bài giảng điện tử của mình sẽ giúp rèn luyện được nhiều kỹ năng và phối hợp
tốt các phương pháp dạy học tích cực khác.
- Không lạm dụng công nghệ thông tin nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình
dạy học và sự phát triển của học sinh.

- Ứng dụng CNTT trong dạy học không phải là một phương pháp mới mà chỉ là sự hỗ
trợ đổi mới phương pháp dạy học bằng các công cụ, phương tiện. Cần tránh việc chuyển
từ đọc - chép sang nhìn – chép.
- Cần có cách tổ chức lớp học khoa học hợp lý để huy động mọi học sinh đều tham gia
vào việc học. Tránh tình trạng chỉ một vài học sinh thực hiện còn các học sinh khác thì
không tập trung chú ý.
- Đối với bản đồ, lược đồ: đó là nguồn kiến thức quan trọng và được coi như cuốn sách
lịch sử thứ hai của học sinh. Tổ chức cho học sinh làm việc với bản đồ theo các bước
sau:
+ Cho học sinh quan sát bản đồ về nội dung và các ký hiệu của bản đồ.
+ Giáo viên đặt câu hỏi nêu vấn đề gợi ý học sinh tìm hiểu nội dung bản đồ.
+ Học sinh trả lời câu hỏi bằng việc trình bày kết quả tìm hiểu nội dung bản đồ
đó.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn chỉnh nội dung cần cung cấp cho học sinh.
Ví dụ: Hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức từ lược đồ “Hành trình cứu nước của Hồ
Chí Minh” - Lịch sử 9 bài 16 “Hoạt động của NAQ ở nước ngoài trong những năm
1919-1925.
- Cho học sinh quan sát ở lược đồ để thấy được hoạt động của NAQ ở nước ngoài qua
3 giai đoạn theo hướng đi bằng các màu sắc thể hiện khác nhau.
+ Nguyễn Ái Quốc ở Pháp (1917-1923)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô (1923-1924)
+ Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc (1924-1925)
- Đối với tranh ảnh: Để việc khai thác tranh ảnh có hiệu quả, phát huy được tính tích
cực của học sinh cần thực hiện các yêu cầu sau:
+ Cho học sinh khai thác tranh ảnh để xác định nội dung cần khai thác.
+ Giáo viên nêu câu hỏi nêu vấn đề, tổ chức học sinh tìm hiểu nội dung tranh ảnh.
+ Học sinh trình bày kết quả sau khi đã quan sát, tìm hiểu.
+ Giáo viên nhận xét, bổ sung, hoàn thiện nội dung khai thác tranh ảnh.
Ví dụ: Khai thác tranh Nguyễn Ái Quốc ở đại hội Tua.
+ Cho học sinh quan sát để xác định đây là bức tranh mà Nguyễn Ái Quốc tham dự

đại hội Tua.
+ Trong đại hội Tua người có những quyết định gì.
+ Giáo viên nêu các nội dung trong đại hội Tua.

Trang 8


Giải pháp 4:
Tổ chức hướng dẫn học sinh làm việc với các sử liệu có trong SGK và trình bày lại
(rèn kỹ năng nghiên cứu tài liệu).
Qua kết quả nghiên cứu thực tiễn tại cơ sở, tôi xin đưa ra các biện pháp rèn kĩ
năng tự nghiên cứu tài liệu bằng cách tổ chức cho học sinh làm báo cáo hay bài tập về
chuyên đề. Bởi vì, theo tôi để viết được một báo cáo hoặc hoàn thành tốt bài tập theo
chuyên đề tốt, buộc học sinh phải có kĩ năng khai thác và xử lí thông tin từ các nguồn tài
liệu khác nhau. Ngược lại, viết báo cáo hay thực hiện bài tập chuyên đề là để các em
luyện tập, khai thác tối đa khả năng nghiên cứu của bản thân. Trên cơ sở đó mà kĩ năng
tự nghiên cứu tài liệu cũng sẽ được củng cố, hoàn thiện, nâng cao và dần trở thành năng
lực, phẩm chất nhân cách của các em, thứ mà các em cần trong suốt cuộc đời.
Từ điều tra thực tiễn, nhận thấy kĩ năng tự học, tự nghiên cứu tài liệu của học sinh
còn ở mức trung bình và kém, từ đo tôi đã xây dựng quy trình rèn kĩ năng tự nghiên cứu
tài liệu bằng cách tổ chức cho hoch sinh thực hiện làm báo cáo hay bài tập chuyên đề
thành hai giai đoạn.
Giai đoạn 1 là rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu trang bị cho người học những kĩ năng tự
nghiên cứu tài liệu cơ bản.
Giai đoạn 2 là tổ chức học sinh làm báo cáo hay bài tập chuyên đề.
Thực chất, ở giai đoạn 1, việc tổ chức rèn học sinh các kĩ năng tự nghiên cứu tài
liệu, sử dụng các câu hỏi ngắn. Những kỹ năng cần rèn ở giai đoạn này cụ thể như sau:
Kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu
Kĩ năng này đóng vai trò quan trọng, định hướng toàn bộ mọi hoạt động của học
sinh. Với học sinh, việc vấn đề cần nghiên cứu thường do giáo viên giao cho hoặc các

em tự xác định được thông qua các câu hỏi, các bài tập và tình huống có vấn đề mà giáo
viên đưa ra. Các em cũng có thể độc lập xác định được vấn đề cần nghiên cứu trong quá
trình tự học mà không cần sự định hướng hay gợi ý của giáo viên.
Để rèn kĩ năng xác định vấn đề nghiên cứu cho học sinh, trong quá trình dạy tôi
giao cho các em các câu hỏi, bài tập dựa trên các tình huống có vấn đề rồi hướng dẫn
các em cách xác định các yêu cầu của câu hỏi, bài tập (phân tích đề). Giáo viên cũng có
thể lựa chọn cùng một nội dung phù hợp, đặt các câu hỏi khai thác vấn đề theo các
hướng khác nhau, yêu cầu học sinh trả lời. Qua quá trình phân tích các câu hỏi này học
sinh sẽ xác định được với cùng một vấn đề, với những cách hỏi khác nhau , thậm chí chỉ
một vài từ thì nội dung câu trả lời sẽ khác. Việc làm này sẽ góp phần đắc lực trong quá
trình rèn kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu của học sinh. Kĩ năng rất cần cho các
em trong quá trình học, thi cử, cuộc sống nói chung và hoàn thành bài học nói riêng.
Kĩ năng lựa chọn tài liệu
Trước và sau khi xác định được vấn đề cần nghiên cứu, học sinh cần biết tìm
nguồn tài liệu phù hợp. Khả năng tìm kiếm tài liệu sẽ góp sức đắc lực cho người học
trong cả quá trình làm bài, làm cho bài của mình có cả chiều sâu và độ rộng. Nguồn tài
liệu phù hợp cũng giúp học sinh kiểm tra lại khâu xác định vấn đề cần nghiên cứu của
mình xem mình xác định vấn đề đã đúng và đủ chưa. Nguồn tài liệu cơ bản nhất của học
Trang 9


sinh là SGK và vở ghi. Tuy nhiên, với học sinh nguồn đó nhiều khi là chưa đủ, các em
cần biết lựa chọn các tài liệu bổ trợ khác. Nguồn tài liệu bổ trợ hay được dùng nhất
ngoài sách tham khảo mà các em có là các sách tham khảo có trên thư viện.
Vì vậy, các em cần biết cách tra các tên sách từ các mục lục phân loại trên thư
viện. Ngoài ra, các em có thể sử dụng nguồn thông tin từ internet. Để các em khai thác
tốt Internet, giáo viên cần hướng dẫn các em biết cách sử dụng các công cụ tìm kiếm,
các từ khóa (đôi khi phải dùng các từ khóa tiếng Anh thì các em cần biết các sử dụng từ
điển Anh Việt hoặc Việt Anh, sử dụng các công cụ dịch một cách hợp lí).
Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể đưa ra một số trang web tin cậy làm nguồn chỉ

dẫn tài liệu tham khảo cho học sinh .
Kĩ năng xác định mục đích đọc tài liệu
Khi đọc một tài liệu nào đó, người đọc cần xác định mục đích đọc của mình. Đầu
tiên cần xác định thông tin mình cần có trong toàn bộ tài liệu đó hay không hay chỉ là
một đoạn nhỏ. Muốn vậy cần có thói quen đọc phần mở đầu và đọc qua mục lục, nếu
không có mục lục cần đọc lướt qua các ý chính. Sau khi tìm được nội dung cần đọc, hãy
đọc kĩ, vừa đọc vừa nghiền ngẫm để có thể hiểu sâu sắc.
Kĩ năng ghi chép thông tin
Học sinh khi đọc tài liệu cũng như khi nghe giảng cần phải ghi chép lại để đỡ tốn
thời gian đọc lại cũng như sử dụng thông tin từ tài liệu để giải quyết vấn đề tốt hơn, ghi
nhớ thông tin nhanh và lâu hơn. Trong học tập, kĩ năng ghi chép của người học đóng vai
trò quan trọng, nó thể hiện cách thu nhận, xử lý và định hướng quá trình ghi nhớ và sử
dụng thông tin. Để rèn học sinh kĩ năng này, ngay từ đầu giáo viên yêu cầu học sinh
chuyên sử dụng vở ghi, chia vở thành 4 cột: Một cột (phía ngoài cùng tay phải) ghi nội
dung chính thầy cô giáo dạy trên lớp, cột ngay bên cạnh ghi các câu hỏi thầy cô hỏi và
những hướng dẫn của thầy cô, cột kế bên ghi nội dung đọc được trong sách giáo khoa tài
tài liệu tham khảo, cột cuối cùng ghi tổng hợp lại những gì đã học và đọc được. Các nội
dung ghi trong vở cũng nên chú thích nguồn để sau này không mất nhiều công đọc lại
nữa.
Học sinh được rèn thói quen chủ động nắm bắt và ghi những vấn đề mà giáo viên
giảng, không thụ động ngồi chờ giáo viên đọc cho chép. Do được yêu cầu chuẩn bị bài
trước ở nhà nên chúng tôi kết hợp rèn cho học sinh kĩ năng ghi những vấn đề cần thiết,
những vấn đề chưa rõ,… Để làm được như vậy, tôi hướng dẫn học sinh trong quá trình
đọc trước ở nhà, cần xác định trọng tâm của bài, xác định nội dung nào mình đã hiểu kĩ,
nội dung nào chưa hiểu để tập trung lắng nghe và ghi bài vào nội dung đó. Giáo viên
cũng hướng dẫn học sinh khi đọc tài liệu cần xác định ý chính, ghi lại một cách ngắn
gọn nội dung chính cũng như thành bảng, sơ đồ, bản đồ khái niệm.
Kĩ năng đặt câu hỏi
Khi đọc tài liệu, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của thầy cô, học sinh cũng cần
luôn tự đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào, để làm gì, là cái gì… Các câu hỏi đó có thể

được đặt khi học sinh không hiểu vấn đề mà tài liệu trình bày nhưng cũng có thể được
đặt ra để tranh luận với bạn, với thầy. Cách làm này làm cho vấn đề được đào sâu hơn do
nó được lật đi lật lại nhiều lần theo nhiều hướng khác nhau. Đồng thời, trong quá trình
tranh luận, người học được bổ sung thêm kiến thức từ bạn, kích thích thêm tính ham học
Trang10


của mỗi người. Khi vấn đề khó đi đến thống nhất có thể hỏi thầy. Để học sinh có được kĩ
năng này, vai trò của người thầy trong quá trình tổ chức dạy học vô cùng quan trọng.
Trong quá trình đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi mà mình đặt ra, học sinh cũng tự rèn được
cách xác định vấn đề cần nghiên cứu, kĩ năng đọc và tổng hợp tài liệu.
Kĩ năng diễn đạt lại thông tin đã thu được theo ý hiểu của người học
Thông tin thu được có thể được học sinh ghi lại một cách vắn tắt, lập thành sơ đồ,
bảng biểu,… Các sơ đồ, bảng biểu có thể được sử dụng để giúp người học ghi nhớ
nhưng có thể là để hiểu, để củng cố hoặc mở rộng, nâng cao về một nội dung cụ thể
hoặc để hệ thống hóa kiến thức. Kĩ năng diễn đạt lại thông tin trong quá trình học theo ý
hiểu của người học là một kĩ năng vô cùng quan trọng, nó giúp người học không chỉ biết
mà còn phải hiểu và vận dụng được kiến thức đã học một cách linh hoạt. Kĩ năng này
cũng chỉ được hình thành và hoàn thiện khi người học được rèn luyện một cách tỉ mỉ
trong quá trình học.
Kĩ năng tư duy đa chiều
Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng, nhiều mặt khác nhau,
thậm chí là đối lập nhau. Thực tế cho thấy, sách không phải lúc nào cũng đúng, cũng đủ.
Tương tự như vậy, không phải mọi điều thầy nói ra đều đúng và đều là “khuôn vàng
thước ngọc”. Điều đó là tất yếu vì người thầy dù có tài mấy thì trình độ nhận thức cũng
chỉ có hạn. Có những điều thầy nhận thức đúng, nhưng có điều chưa nhận thức được
hoặc nhận thức còn chưa đúng. Thứ nữa, có những điều, với trình độ nhận thức của nhân
loại lúc đó là đúng nhưng chỉ cần một thời gian ngắn sau, nó là sai hoặc chưa đủ.
Trong quá trình đọc tài liệu để làm bài tập, báo cáo chuyên đề, học sinh rất dễ gặp
nhiều nguồn thông tin khác nhau thậm chí là trái chiều nhau làm cho các em rất lúng

túng. Đặc biệt, khi sử dụng Internet, đương nhiên học sinh sẽ có thể đọc được những
nguồn thông tin không chính xác, nhiều khi là có hại cho các em. Đây cũng là khó khăn
mà nhiều học sinh vấp phải khi đọc tài liệu để hoàn thành bài tập.
Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài này, tôi quyết định đưa thêm việc rèn kĩ
năng tư duy đa chiều vào quá trình rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu. Trong quá trình
rèn kĩ năng này, tôi đã giúp học sinh chỉ ra những chỗ mà tài liệu viết chưa chính xác
hoặc còn thiếu. Đôi chỗ, “giả vờ” nói sai để thử phản ứng của học sinh. Hoặc đưa ra một
tình huống trái ngược với tình huống được học và đặt câu hỏi “Điều gì xảy ra nếu ….”.
Cách làm này kích thích ham muốn tìm tòi của học sinh rất nhiều vì các em được quyền
đưa ra chủ kiến của mình, được giải thích rõ ràng tại sao ý kiến của mình còn chưa đúng,
chưa đủ và được tự hào khi mình “thắng cô” mình. Đặc biệt, giúp học sinh tăng cường
khả năng lập luận, hùng biện trước đám đông. Ngoài ra, nó cũng có ích cho cuộc sống
sau này của học sinh do các em luôn tư duy về một vấn đề theo nhiều chiều hướng, dự
đoán được nhiều tình huống có thể xảy ra để có thể giải quyết sớm hoặc chí ít là không
quá bất ngờ. Nó cũng kích thích thầy luôn tự đọc, tự tìm tòi để tăng cường chuyên môn
nghiệp vụ. Đây cũng là việc làm vô cùng khó, do thói quen tin tưởng tuyệt đối vào thầy,
vào sách đã ăn sâu vào các em từ lâu. Mặt khác, cũng ít người thầy chấp nhận thua hoặc
“giả vờ thua” học trò vì sợ “mất thiêng”.

Trang11


Giải pháp 5:
Đa dạng hóa hình thức học tập.
Một trong ba đặc trưng của phân môn Lịch sử đã chỉ ra rằng: Lịch sử qua đi
nhưng không hoàn toàn biến mất mà còn để lại “dấu vết ” của nó qua kí ức của nhân loại
như văn học dân gian, phong tục tập quán, lễ hội…, qua các chứng tích lịch sử, các hiện
tượng lịch sử, qua ghi chép của người xưa. Những chứng cứ vật chất đó chính là cơ sở
để trình bày hay nhận thức về lịch sử. Vì vậy, giáo viên cần phải hết sức quan tâm đến
các hình thức tổ chức dạy học lịch sử đa dạng, tạo điều kiện để học sinh tiếp xúc với các

nguồn sử liệu nói trên.
Bản thân tôi đã đa dạng hóa hình thức học tập bằng các nhóm giải pháp như sau:
- Gắn kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử với việc dạy học phân môn Lịch sử:
Trong quá trình trực tiếp giảng dạy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu về các
ngày lễ lớn, các sự kiện lịch sử qua các hoạt động: đọc báo, xem truyền hình (các hình
ảnh tư liệu), đài phát thanh … để giúp các em hiểu rõ, nắm sâu hơn về các sự kiện và
nhân vật lịch sử.
- Gắn việc tham quan dã ngoại với việc tham quan bảo tàng, di tích lịch sử dâng hoa lên
tượng anh hùng để các em cảm nhận được hồn sử. Tổ chức cho học sinh tham quan dã
ngoại các di tích lịch sử - văn hóa, các cảnh đẹp ở địa phương, gặp gỡ các cá nhân, tập
thể trực tiếp tham gia vào những sự kiện lịch sử và hoạt động xã hội; tham quan các bảo
tàng lịch sử để các em được trực tiếp nắm được các sự kiện, nhân vật lịch sử.
- Hướng dẫn học sinh cách học ở nhà: Việc chuẩn bị bài ở nhà của học sinh rất quan
trọng. Giáo viên cần phải giải thích bài học lịch sử sắp tới để học sinh ở nhà có thể sưu
tầm tài liệu, tranh ảnh liên quan để tham gia thảo luận, các em sẽ thích thú nếu được
hướng dẫn tự sưu tầm tài liệu cho tiết học mới.
- Hình thức học tập cá nhân có thể được tiến hành như sau.
Giáo viên nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức chung cho cả lớp và hướng dẫn
học sinh làm việc.
+ Làm việc cá nhân ( ghi kết quả ra giấy hoặc trả lời vào phiếu học tập)
+ Giáo viên chỉ định một vài học sinh báo cáo kết quả, các học sinh khác theo dõi,
góp ý bổ sung.
+ Giáo viên tóm tắt, củng cố và chuẩn xác kiến thức.
- Hình thức học tập theo nhóm.
+ Tuỳ theo số lượng học sinh trong mỗi lớp mà giáo viên chia thành bao nhiêu nhóm,
thông thường mỗi nhóm từ 4-6 học sinh. Các nhóm có thể được duy trì ổn định trong cả
tiết học hoặc thay đổi theo từng hoạt động, từng phần của tiết học. Các nhóm được giao
cùng một nhiệm vụ hoặc những nhiệm vụ khác nhau.
+ Các bước tiến hành tổ chức học tập theo nhóm có thể làm việc chung cả lớp, làm
việc theo nhóm. Giáo viên nêu vấn đề để xác định nhiệm vụ, trong nhóm cử nhóm

trưởng, thư kí, các thành viên trao đổi bàn luận, ghi kết quả, đại diện nhóm trình bày, các
nhóm khác nhận xét bổ sung.
+ Giáo viên tổng kết, chuẩn xác kiến thức.
Ví dụ 1: Lịch sử 7:
Trang12


Bài: Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427)
- GV dự kiến tổ chức cho học sinh hoạt động nhóm ở phần 2: Trận Chi Lăng - Xương
Giang.
- GV tổ chức cho các em thảo luận theo nhóm nhiều trình độ bằng những câu hỏi mở đã
được dự kiến từ trước.
+ Đến 1427, tương quan lực lượng giữa ta và địch như thế nào?
+ Vì sao nói việc nghĩa quân Lam Sơn chủ trương diệt viện là đúng đắn.
+ Trận Chi Lăng thể hiện nghệ thuật quân sự của nghĩa quân Lam Sơn NTN?
+ Vì sao nghĩa quân Lam Sơn chấp nhận việc Vương Thông xin hoà?
- Thời gian thảo luận: 3 phút
- Thời gian các nhóm trình bày: 2 phút
- GV tổng kết, chốt kiến thức: 2 phút.
Giải pháp 6:
Phát huy tối đa dạy học theo chuyên đề
Dạy học theo chuyên đề khác với việc dạy theo bài học thông thường nhưng vẫn
phải đảm bảo các chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình và sách giáo khoa
hiện hành, được nâng lên một mức độ nhất định cao hơn. Tuy vậy cần chú ý đến tính
vừa sức của chuyên đề: cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến thức trong chuyên đề.
Vấn đề được học tập trong chuyên đề phải là một vấn đề cơ bản của chương trình,
sách giáo khoa có mối quan hệ mật thiết với nhau, có những điểm tương đồng về nội
dung kiến thức, khi hình thành chuyên đề thì tạo nên một chuỗi các vấn đề học tập cần
giải quyết. Khi giải quyết được nhiệm vụ học tập đó sẽ tạo thành một nội dung hoàn
chỉnh, toàn diện cả chiều dọc lẫn chiều ngang của chuyên đề.

Nội dung của các chuyên đề giúp học sinh có những hiểu biết về những kiến thức
cơ bản của chương trình, sách giáo khoa mà học sinh cần đạt được. Từ những kiến thức
đó để học sinh có thể tổng kết, hệ thống hoá kiến thức, củng cố, thực hành, rút ra quy
luật và bài học lịch sử... và tự nghiên cứu, đào sâu kiến thức đã học.
Để đáp ứng các vấn đề trên, bản than tôi đã đề ra quy trình xây dựng chuyên đề
như sau:
B1. Căn cứ vào nội dung chương trình, sách giáo khoa môn Lịch sử và những ứng
dụng phương pháp dạy học trong thực tiễn, xác định các nội dung kiến thức liên quan
với nhau, có những điểm tương đồng được thể hiện ở một số bài/tiết hiện hành, từ đó
xây dựng thành một vấn đề chung để tạo thành một chuyên đề dạy học. Mỗi chuyên đề
có thời lượng ít nhất là 2 tiết.
Trường hợp có những nội dung kiến thức liên quan đến nhiều môn học, báo cáo tổ
chuyên môn cùng nhau lựa chọn nội dung để thống nhất xây dựng các chủ đề tích hợp,
liên môn.
B2. Xác định chuẩn kiến thức và kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành và
các hoạt động học dự kiến sẽ tổ chức cho học sinh theo phương pháp dạy học tích cực,
Trang13


từ đó xác định các năng lực và phẩm chất có thể hình thành cho học sinh theo chuyên đề
đã xây dựng. Trong đó chú trọng một số năng lực chung như: năng lực tự học, phát hiện
và giải quyết vấn đề, sáng tạo; năng lực giao tiếp và hợp tác; năng lực sử dụng công
nghệ thông tin và truyền thông.
B3. Xây dựng nội dung chuyên đề: Giáo viên lựa chọn các nội dung của chuyên
đề từ các bài/tiết trong sách giáo khoa hiện hành của môn Lịch sử/hoặc cùng với các
môn học có liên quan (nếu chuyên đề xác định là tích hợp, liên môn) và tham khảo tài
liệu khác để xây dựng nội dung chuyên đề.
B4. Thiết kế chuyên đề thành các hoạt động dạy học.
B5. Dạy thể nghiệm.
B6. Rút kinh nghiệm.

B7. Áp dụng.
3. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Chính vì vậy mà sau khi tiến hành vận dụng một số kinh nghiệm dạy học theo phương
pháp mới trong năm học 2016-2017, tôi tiến hành khảo sát chất lượng của học sinh qua
kết quả 1 tiết và khảo sát chất lượng cuối năm. Kết quả là số học sinh khá giỏi tăng lên
và số học sinh yếu - kém giảm hẳn đi so với năm trước.
Kết quả
Lớp
9C

SLHS
32

Giỏi
SL
9

%
28.1

Khá
SL
12

%
37.5

TB
SL
11


Yếu
%
34.4

SL
0

%
0

III. PHẦN KẾT LUẬN

1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
Qua quá trình áp dụng kinh nghiệm dạy học theo phương pháp mới vào dạy học môn
Lịch sử năm học 2016-2017, tôi nhận thấy dạy học theo phương pháp mới thì hiệu quả
bộ môn được nâng lên rõ ràng theo hướng tích cực. Điều đó để một lần nữa khẳng định
vai trò của việc tổ chức dạy học theo phương pháp đổi mới là cần thiết cho môn học
Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung. Điều quan trọng hơn là học sinh yêu
thích hơn môn lịch sử và hứng thú tìm hiểu sâu sắc hơn về bộ môn này. Cụ thể:
- Đã từng bước tạo được sự hứng thú, khơi dậy lòng say mê học tập môn Lịch sử ở học
sinh. Nhiều học sinh đã có sự quan tâm đến các sự kiện lịch sử, muốn tìm tòi, khám phá.
Chính vì vậy mà các em không còn xem nhẹ môn học này, không còn coi môn Lịch sử là
“môn phụ” nữa.
- Học sinh hoạt động tích cực, chủ động hơn, đa phần học sinh đã chiếm lĩnh được kiến
thức một cách nhanh chóng và chắc chắn.
- Kỹ năng trực quan, tư duy, phân tích, tổng hợp của học sinh được nâng cao hơn và
hoàn thiện hơn. Qua đó hình thành kĩ năng phân tích, nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử
sâu sắc hơn. Đồng thời học sinh vận dụng được các kiến thức lịch sử vào cuộc sống thực
tiễn một cách dễ dàng và hiệu quả.

Trang14


Nói tóm lại, đổi mới phương pháp dạy học ở trường THCS là một cuộc cách
mạng lớn trong ngành giáo dục. Không phải chỉ là ngày một ngày hai mà chúng ta phải
khắc phục lối dạy học cũ, cũng không thể hoàn thiện ngay được phương pháp dạy học
mới. Mặc dù phương pháp dạy học cũ và phương pháp dạy học mới không có một sự
tách biệt rạch ròi mà trong nó vừa mang tính kế thừa lối dạy học truyền thống vừa sáng
tạo, linh hoạt.
Đối với bộ môn Lịch sử khi dạy cần cho học sinh nhận thức được rằng: Học lịch sử là
quá trình nhận thức những điều đã diễn ra trong quá khứ để hiểu hiện tại và chuẩn bị cho
tương lai. Học tập lịch sử cũng là để hình dung rõ ràng, giải thích đúng, có cơ sở khoa
học về lịch sử. Lịch sử là những gì đã qua đi nhưng không hoàn toàn biến mất mà để lại
dấu vết của nó qua kí ức của nhân loại, qua thành tựu văn hoá , qua các hiện tượng lịch
sử, qua ghi chép của người xưa, qua tên đất, tên làng…nên khi dạy giáo viên chọn
phương pháp dạy học thích hợp. Tiêu chí cơ bản của PPDH lịch sử mới là hoạt động tự
lập tích cực của học sinh. Muốn được như vậy giáo viên phải gia công nhiều ở khâu
chuẩn bị bài, lập kế hoạch bài học và đặc biệt chú trọng đổi mới hoạt động học tập của
học sinh. Tuy nhiên để nâng cao hiệu quả dạy học theo phương pháp đổi mới còn có
nhiều phương pháp tối ưu khác nữa. Mong rằng các đồng chí, đồng nghiệp góp ý xây
dựng để giờ học lịch sử ngày càng đạt hiệu quả cao hơn.

2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Từ quá trình tìm tòi, nghiên cứu dạy học theo phương pháp đổi mới ở môn Lịch sử tôi
mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, đề xuất như sau:
* Đối với giáo viên:
+ Phải có tâm huyết với nghề, tạo hứng thú cho học sinh bằng cách trình bày sinh
động, bằng sự am hiểu lịch sử, nghệ thuật trình bày, vốn sống, kinh nghiệm chuyên môn,
tình cảm đối với lịch sử và cả sự yêu mến học sinh để mỗi giờ học trôi qua là một sự tiếc
nối cũng là sự tò mò mong đợi những giờ học tiếp theo.

+ Nghiên cứu SGK, SGV, tài liệu tham khảo và các đồ dùng trực quan có liên quan
đến nội dung bài học.
+ Có ý thức học hỏi đồng nghiệp, trau dồi kiến thức, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn.
+ Đầu tư nhiều hơn vào việc soạn bài theo tinh thần dạy học thông qua tổ chức các
hoạt động học tập cho học sinh. Giáo viên phải thể hiện rõ ràng mục tiêu, nội dung bài
học, hệ thống câu hỏi khoa học, lôgic, phân chia thời gian hợp lí.
+ Đẩy mạnh việc đổi mới hoạt động dạy học trên lớp, giáo viên là người chỉ đạo
hướng dẫn, học sinh là người chủ động, sáng tạo chiếm lĩnh kiến thức.
+ Chú trọng việc củng cố và phát triển ở học sinh các kỹ năng: Kỹ năng sử dụng bản
đồ, lược đồ, kỹ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện lịch sử.
+ Vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học tích cực vào trong một tiết dạy. Hình
thành và phát triển các kỹ năng làm việc với các thiết bị học tập.
+ Giáo dục cho học sinh ý thức tôn trọng lịch sử, truyền thống dựng nước, giữ nước và
xây dựng đất nước của lớp người đi trước.
+ Tạo được niềm tin, sự hứng thú, ham mê học tập lịch sử ở học sinh.

Trang15


+ Có thái độ gần gũi cởi mở, thân thiện đối với học sinh, biết khen thưởng và động
viên kịp thời, phê bình một cách tế nhị để giúp học sinh tự tin và tự nhiên hơn trong hoạt
động học tập, hạn chế tính tự ti, lười hoạt động ở một số học sinh yếu.
+ Thường xuyên kiểm tra việc học bài, làm bài tập, chuẩn bị bài mới của học sinh,
quan tâm nhiều hơn đến học sinh yếu kém và có những biện pháp khắc phục kịp thời.
* Đối với học sinh
+ Có say mê, hứng thú học tập môn Lịch sử.
+ Có đầy đủ các phương tiện học tập như: SGK, vở bài tập.
+ Đổi mới trong suy nghĩ, trong cách học, phải tự giác học, chủ động, sáng tạo, có ý
thức trách nhiệm về hoạt động học tập của mình.
+ Xác định rõ mục đích, yêu cầu của giờ học, không chỉ về kiến thức mà còn về cả kỹ

năng.
+ Giành thời gian thích đáng để tự làm việc, nghiên cứu với SGK (kênh hình, kênh
chữ), với các nguồn cung cấp kiến thức khác theo sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Biết cách học, làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để tìm ra kiến thức mới.
+ Có ý thức tìm tòi lịch sử ở địa phương mình.
+ Tham gia nghe nói chuyện truyền thống nhân ngày 22-12. Gặp gỡ các nhân chứng
lịch sử để hiểu biết thêm lịch sử dân tộc mình…

Trang16



×