Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỂU LUẬN Từ nghiên cứu tác phẩm Quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng caođạo đức cách mạng của HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.74 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC TP.HỒ CHÍ MINH
CƠ SỞ ĐÀ LẠT

BÀI TIỂU LUẬN TƯ TƯƠNG HỒ CHÍ MINH

Tên SV: Nguyễn Mạnh Cường
Mã số SV: 16520800036
Giảng viên: Lê Thị Thanh Bình



Câu hỏi: Từ nghiên cứu tác phẩm “ Quét sạch chủ nghĩa cá nhân nâng cao
đạo đức cách mạng” của HCM. Hảy rút ra giá trị của nó trong công cuộc
xây dựng chỉnh đốn Đảng làm trong sạch đội ngũ cán bộ của Việt Nam
hiện nay.? Theo anh (chị) làm thế nào để nâng cao đạo đức Cách mạng
với công dân Việt Nam trong thời kì hội nhập Quốc tế thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cảu đất nước?

Vậy tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân “ ra đời trong hoàn cảnh nào?
-Bối cảnh lúc này
Tình hình cách mạng Việt Nam vào thời điểm Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
tác phẩm.Hồ Chí Minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều nhất đến vấn
đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Từ khi Đảng
ta trở thành Đảng cầm quyền, Chủ Tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm
nhiều hơn đến vấn đề này. Trong di sản mà người để lại cho toàn Đảng,
toàn dân có nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách
mạng và mặt đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân.
Vào đầu năm 1969 cuộc kháng chiến cứu nước của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân ta đang diễn ra quyết liệt. Đế quốc Mỹ đã thất bại trong
thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ, buộc phải ngừng ném bom miền


Bắc và chấp nhận đàm phán 4 bên về lập lại hòa bình ở Việt Nam tại
Paris, nhưng chúng vẫn ngoan cố thực hiện chiến lược Việt Nam hóa


chiến tranh ở miền Nam Việt Nam. Miền Bắc, trong thời kỳ đó, cần tranh
thủ điều kiện tạm thời có hòa bình, thực hiện hàn gắn vết thương chiến
tranh, đẩy mạnh sản xuất, tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Trong bối
cảnh ấy, cần thiết phải tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong Đảng, cũng
cố mặt trận tư tưởng, ngăn chặn xu hướng xả hơi sau nhiều năm chống
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Đầu năm 1969, nhân dịp toàn Đảng, toàn dân ta chuẩn bị kỷ niệm
39 năm ngày thành lập Đảng, lần kỷ niệm đầu tiên sau mấy năm chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh viết bài: Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa
cá nhân , xem đó là nhiệm vụ rất quan trọng trong công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ trong giai
đoạn mới.
Đây là bài viết sau cùng của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng.
Dù rất ngắn gọn, nhưng luận điểm được Người đề cập trong bài viết này
mang tính tổng kết thực tiễn; bổ sung, phát triển tư tưởng, lý luận về xây
dựng Đảng nói chung, về đạo đức nói riêng.
Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân là tác phẩm
cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là một di huấn tư tưởng và đạo
đức của về chủ đề đạo đức cách mạng. Tác phẩm này được viết và công
bố trong dịp kỷ niệm lần thứ 39 ngày thành lập Đảng (3-2-1930 đến 3-21969). Bài viết của Bác khi đăng trên báo Đảng chưa đầy 700 chữ, là một
trong những tác phẩm vào loại ngắn nhất, xét về mặt dung lượng ngôn từ
nhưng lại chứa đựng những tư tưởng lớn, đề cập tới vấn đề quan trọng
nhất đối với người cách mạng là đảng cách mạng, nhất là khi đảng đã trở
thành đảng cầm quyền. Đó là vấn đề tu dưỡng đạo đức cách mạng và
chống chủ nghĩa cá nhân. Có thể nói, đây là di huấn tư tưởng và đạo đức

mà Bác Hồ để lại cho Đảng và nhân dân ta cho một thế hệ cách mạng không chỉ đương thời mà còn mai sau, mãi mãi về sau.
Từ lúc vạch đề cương và tổ chức chỉ đạo viết văn kiện lịch sử này cho
đến khi tác phẩm được hoàn thành với sự sửa chữa, hoàn thiện công phu,
trực tiếp của Bác, thời gian vẻn vẹn chỉ có một tuần lễ; và lúc ấy Bác Hồ
đã tuổi cao, sức yếu, phong trào cách mạng ở miền Nam và cuộc chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc lại đang
quyết liệt, khẩn trương, với biết bao thử thách và hy sinh to lớn. Tác
phẩm giúp chúng ta thấu hiểu thêm tầm nhìn chiến lược, tầm tư tưởng, trí
tuệ và nhân cách Hồ Chí Minh.


Trong cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" ở thời điểm hiện nay, việc nghiên cứu và vận dụng tác phẩm này
trong đời sống hằng ngày của mỗi cán bộ đảng viên,sinh viên và mỗi tổ
chức đảng, mỗi cơ quan nhà nước và các đoàn thể cũng như trong toàn
dân trở nên hết sức cần thiết. Điều ấy được tỏ rõ qua những căn cứ sau
đây: Càng phát triển kinh tế thị trường, càng tiến tới xã hội giàu có, văn
minh, hiện đại càng phải chú trọng tới đạo đức và thực hành đạo đức cách
mạng, trước hết là trong Đảng và xây dựng Đảng. Đó là xét về mặt lâu
dài, xu hướng và triển vọng phát triển. Mặt khác khi tình trạng đạo đức xã
hội, kể cả đạo đức trong Đảng bị suy giảm nghiêm trọng như hiện nay thì
việc ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá
nhân càng trở nên cấp thiết bức xúc hơn bao giờ hết.
Dù 40 năm đã trôi qua, song tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mãi
mãi là sách gối đầu giường của những người cách mạng.
.Giá trị và ý nghĩa của tác phẩm - nhìn từ thực tế hiện nay
- Giá trị của tác phẩm là ở chỗ đã tổng kết lý luận và thực tiễn về đạo đức
cách mạng, trong đó sức sống của nó là sự gương mẫu thực hành đạo đức
của cán bộ, đảng viên, nó là một giá trị làm nên sự vĩ đại và cao thượng
của một đảng cách mạng của giai cấp công nhân và của nhân dân anh

hùng của chúng ta. Người chỉ rõ, thắng lợi của cách mạng là nhờ ở sức
mạnh đạo đức ấy trong chiến đấu, trong sản xuất, trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đảng đã đào tạo một thế hệ thanh niên cách mạng hăng hái,
dũng cảm, họ là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, là niềm tự hào của Đảng và của nhân dân.
- Tác phẩm dành một phần lớn để vạch rõ thực trạng về một số ít cán bộ,
đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém, do họ mang nặng chủ
nghĩa cá nhân. Với tính phê phán nghiêm khắc, Người vạch rõ
những biểu hiện và những hậu quả của chủ nghĩa cá nhân: không lo
"mình vì mọi người” mà chỉ muốn "mọi người vì mình", ngại gian khổ,
khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi,
thích địa vị quyền hành, tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh
quần chúng, độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế,
mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh. Người còn vạch rõ, do cá nhân chủ nghĩa
mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách
nhiệm..., mắc nhiều sai lầm
Hồ Chí Minh gọi chủ nghĩa cá nhân là giặc nội xâm, kẻ địch ở bên
trong.


Người so sánh: “ Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong
đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”1. Vì vậy, tư tưởng nhất quán
của Hồ Chí Minh là kiên quyết chống mọi kẻ thù, đồng thời với đấu tranh
đến cùng chống ngoại xâm theo tinh thần “ hễ còn một tên xâm lược trên
đất nước ta thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi”, phải kiên quyết “
quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Người nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là
một thứ vi trùng rất độc, là bệnh chính, bệnh mẹ sinh ra trăm thứ bệnh
nguy hiểm khác. Có thể nêu trên 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá
nhân mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra trong Nâng cao đạo đức cách mạng, quét
sạch chủ nghĩa cá nhân và nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết trước đó.

1 - Bệnh quan liêu. Quan liêu là bệnh của những người và những cơ quan
lãnh đạo xa rời thực tế, xa bộ đội, xa nhân dân, mất dân chủ. Các ông
quan liêu khi được phân công phụ trách ở vùng nào, việc gì thì như một
ông vua con, tha hồ hạch sách, hoạnh hoẹ ở vùng ấy, lĩnh vực ấy. Đối với
cấp trên thì xem thường, với cấp dưới cậy quyền lấn át, với quần chúng
thì quan cách. Bệnh quan liêu để lại những hậu quả nặng nề đối với Đảng,
Nhà nước và xã hội, trước hết là tham ô, lãng phí cần phải tiêu diệt bệnh
quan liêu.
2- Bệnh tham lam. Những người mắc bệnh này đều đặt lợi ích của mình
lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc. Họ không lo “mình vì mọi người”
mà chỉ muốn “ mọi người vì mình”, chà đạp lên lợi ích của cách mạng,
của nhân dân. Do đó họ tự tư, tự lợi”, dùng của công làm việc tư, dựa vào
thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình, tham ô, hủ hoá,
sinh hoạt xa hoa, tiêu xài bừa bãi.
3- Bệnh lười biếng. Tự cho mình cái gì cũng giỏi, việc gì cũng biết. làm
biếng học hỏi, làm biếng suy nghĩ. Ngại khó khăn, gian khổ. Việc dễ thì
tranh lấy cho mình, việc khó thì đùn cho người khác. Gặp việc nguy hiểm
thì tìm cách trốn tránh.
4- Bệng kiêu ngạo. Tự cao, tự đại, hay lên mặt. Ưa người ta khen ngợi,
tâng bốc mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành
công thì khoe khoang, vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không
thèm học hỏi quần chúng, không muốn người khác phê bình mình. Việc
gì cũng muốn làm thày người khác.
5- Bệng hiếu danh. Tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cho
mình là anh hùng, là vĩ đại. Vì tham vọng đó mà việc không đáng làm
cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay. Những
người đó chỉ biết lên mà không biết xuống. Chỉ chịu được sướng mà
không chịu được khổ. Chỉ ham làm chủ tịch này, uỷ viên nọ, chứ không
ham công tác thiết thực.



6- Bệnh “ hữu danh, vô thực”. Làm việc không thiết thực, không từ chỗ
gốc, chỗ chính, không từ dưới làm lên. Làm cho có chuyện, làm lấy rồi.
Làm được ít suy ra nhiều, để làm một bản báo cáo cho oai, nhưng xét kỹ
lại thì rỗng tuếch.
7- Bệnh cận thị. Không trông xa, thấy rộng. Những vấn đề to tát thì
không nghĩ đến mà chỉ chăm chút những việc vụn vặt. Những người như
vậy chỉ trông thấy sự lợi, hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi, hại to lớn.
8- Bệnh tị nạnh. Cái gì cũng muốn “bình đẳng”, sinh ra hiểu lầm hai chữ
“bình đẳng”. Không hiểu rằng người khoẻ gánh nặng, người yếu gánh
nhẹ. người làm việc nặng phải ăn nhiều, người làm việc dễ thì ăn ít.
Thế mới là bình đẳng.
9- Bệnh xu nịnh, a dua. Những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng
thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ
buồm, không có khí khái.
10- Bệnh kéo bè, kéo cánh. Ai hợp với mình thì người xấu mấy cũng cho
là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai
không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là
dở, rồi tìm cách dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Từ đó
đi đến bè phái, chia rẽ, mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, kỷ luật, kém tinh
thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước.

- Sau khi vạch rõ những thói xấu của chủ nghĩa cá nhân mà một số cán
bộ, đảng viên đã mắc phải, người chỉ ra cách sửa chữa hết sức cụ thể, rõ
ràng, mà ngày nay ta thường gọi là giải pháp. Với toàn Đảng, phải hết sức
coi trọng việc tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa, đường lối, chính sách của Đảng về nhiệm vụ và đạo đức đảng
viên. Người lưu ý mỗi tổ chức Đảng và mỗi đảng viên phải thực hành phê
bình và tự phê bình nghiêm chỉnh. Người đặc biệt chú trọng việc quần

chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Đảng phải hoan nghênh và
khuyến khích quần chúng làm việc đó. Ở đây nổi lên một tư tưởng lớn mà
Người đề ra từ rất sớm: dựa vào dân mà xây dựng Đảng. Người cũng nêu
rõ yêu cầu: giữ nghiêm chế độ sinh hoạt đảng, tăng cường công tác kiểm
tra của Đảng, đòi hỏi công tác này phải thường xuyên, chặt chẽ. Lợi ích
của cách mạng, của Đảng, của nhân dân phải đặt lên trên hết, trước
hết, phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Muốn vậy phải bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ


chức và tính kỷ luật, tôn trọng quần chúng, gần gũi quần chúng, sát thực
tế, gắng sức học tập rèn luyện về mọi mặt.
-Việc xây dựng nền tảng đạo đức cách mạng là một trong những nguyên
tắc hàng đầu, đồng thời cũng là đòi hỏi sống còn cho sự tồn tại, uy tín và
vai trò xã hội của một chính đảng cách mạng chân chính. Vào những thời
điểm khó khăn, phức tạp, đòi hỏi về đạo đức càng trở nên gay gắt hơn. Vì
vậy, vào thời điểm viết tác phẩm này, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân ta đang bước vào giai đoạn hết sức quyết liệt, Bác đã
đánh giá và khẳng định rằng, một trong những nguyên nhân quyết định để
sự nghiệp cách mạng đạt được những thắng lợi to lớn và để chúng ta
vững tin vào thắng lợi chính là do có “rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra
anh dũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau” nên trong lịch
sử đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã giành được niềm tin yêu, sự tin tưởng
của nhân dân, đưa “dân tộc ta tiến lên không ngừng từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác”. Điều đó cũng chính là sự khẳng định vai trò cái “gốc”,
cái “nền” của đạo đức cách mạng. Không có gốc, không có nền thì không
thể thu phục được lòng người, không thể đứng ra làm gương, dẫn đường
cho người khác.
Sau khi khẳng định những phẩm chất đạo đức cách mạng chung của Đảng
được hình thành từ những phẩm chất đạo đức cách mạng thể hiện trong

mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên, Bác đã thẳng thắn, nghiêm khắc chỉ ra
rằng, “bên cạnh những đồng chí tốt, còn có một số ít cán bộ, đảng viên
mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém”. Đó chính là sự mất gốc, mất nền
tảng căn bản mà Bác gọi tên của căn bệnh đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Bác
chỉ ra rằng, chủ nghĩa cá nhân là những con người “việc gì cũng nghĩ đến
mình trước hết… không lo mình vì mọi người mà chỉ muốn mọi người vì
mình… ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa.
Để xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, làm cho Đảng có đủ năng lực,
sức mạnh tiếp tục lãnh đạo cách mạng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử trước
dân tộc, trước nhân dân, Bác Hồ đã chỉ rõ: “mỗi cán bộ, đảng viên phải
đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách
mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính
kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự phát huy
quyền làm chủ của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao
trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ”.
Ý nghĩa
Đọc lại tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá
nhân” trước những yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng trong hoàn


cảnh, điều kiện mới, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Bác về đạo đức của
người cán bộ, đảng viên vẫn còn nguyên giá trị, nóng hổi tính thời sự,
tính cách mạng và tính chiến đấu của người cộng sản, tiếp tục soi sáng
cho công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên và xây dựng Đảng
trong giai đoạn mới.
- Trước hết, đó là những chuẩn mực tạo nên một hệ giá trị về đạo đức gắn
bó và kế tục truyền thống dân tộc. Nó bao trùm và xuyên suốt trong cả
quá trình đấu tranh, lãnh đạo cách mạng của Đảng ta. Đạo đức cách mạng
của từng cán bộ, đảng viên tích hợp thành đạo đức của Đảng và nó không

hề thuần tuý là một phép cộng mà là từ một cái “gốc”, một “nền tảng”,
tạo ra một “sản phẩm văn hoá” của một dân tộc trong quá trình lịch sử, để
nhân lên thành uy tín, thành sức mạnh, năng lực lãnh đạo xã hội của
Đảng.
- Thứ hai, đạo đức của người cán bộ, đảng viên không phải ngẫu nhiên
mà có. Nó được hình thành từ bản chất giai cấp, tính chất dân tộc, mục
đích cao cả của cách mạng và trưởng thành qua rèn luyện, tu dưỡng
thường xuyên trong cuộc đấu tranh cho lý tưởng của Đảng, của dân tộc,
trong một tập thể, một tổ chức cụ thể. Thước đo, tiêu chí đánh giá xác
đáng nhất phẩm chất đạo đức ấy chính là uy tín trước nhân dân, là khả
năng “gánh vác” hoàn thành trọng trách mà cách mạng giao phó cho từng
cán bộ, đảng viên trên những cương vị công tác cụ thể, trong những hoàn
cảnh làm việc cụ thể. Đạo đức cũng chính là một điều kiện, một yếu tố
không thể thiếu để tạo ra sức mạnh và làm nên thắng lợi chung của Đảng
và toàn dân tộc.
- Thứ ba, người cán bộ, đảng viên có đạo đức là người phải biết tẩy sạch,
“quét sạch” chủ nghĩa cá nhân. Phải biết hy sinh vì ích lợi của tập thể, của
cộng đồng dân tộc; biết “cho” trước khi “nhận”. Phải biết nhận thức và
đặt lợi ích cá nhân nhỏ bé của mình, gia đình mình trong lợi ích to lớn có
ý nghĩa quyết định của toàn Đảng, toàn dân tộc. Đó là sự biểu hiện lòng
trung thành với cách mạng, ý thức về việc góp phần tạo dựng nên uy tín
của Đảng trước nhân dân, làm cho đạo đức cách mạng có sức lôi cuốn
trước mục tiêu và lý tưởng của Đảng là “độc lập dân tộc, dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”.
- Thứ tư, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên phải được biểu hiện
qua lăng kính của nhân dân, được nhân dân đánh giá, thẩm định, thể hiện
qua uy tín, sự tin yêu của nhân dân. Người cán bộ, đảng viên trước hết
phải là công bộc của dân, phải gần gũi nhân dân, lắng nghe dân, tạo được
môi trường dân chủ thực sự đối với dân, khiêm tốn và không ngừng học
tập để nâng cao trình độ. Người cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống



bệnh quan liêu, bởi vì quan liêu cũng là nguyên cớ dẫn đến tham ô và
lãng phí mà nhiều lần Bác gọi là “ăn cắp” của công.
Trong suốt quá trình cách mạng, Đảng ta và Bác Hồ rất coi trọng công tác
cán bộ. Bác đã từng nói: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc
thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém”. Tiêu chí đầu tiên về
cán bộ, đảng viên phải là người có đạo đức cách mạng. Đạo đức ấy được
hình thành trên nền tảng đạo đức truyền thống của dân tộc là lòng nhân
ái, yêu nước thương nòi, kết hợp nhuần nhuyễn lòng trung thành với mục
tiêu và lý tưởng của Đảng.
-Nâng cao đạo đức cách mạng đối với công daanViệt Nam trong thời kì
hội nhập Quốc tế thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đất nước
Hiện nay, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã và đang
đạt được những thành tựu to lớn. Yêu cầu nhanh chóng đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng đang đặt ra
cho cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhiều thử
thách trước những vấn đề mới đầy khó khăn và phức tạp. Cuộc sống vẫn
vận hành, diễn biến theo những quy luật tất yếu với những đan xen giữa
cái tích cực và tiêu cực; giữa tiến bộ và bảo thủ, lạc hậu; giữa thời cơ và
thách thức; giữa những giá trị chân chính, cao cả với những cám dỗ nhỏ
nhen, thấp hèn.
Trước sứ mệnh to lớn của Đảng trong sự nghiệp đổi mới đất nước, yêu
cầu đổi mới về công tác cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết
là xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức trong toàn bộ hệ
thống chính trị ngang tầm nhiệm vụ. Tiêu chí hàng đầu đặt ra đối với
người cán bộ, đảng viên phải là những người có đạo đức cách mạng theo
các chuẩn giá trị mới, đó là:
Về phẩm chất chính trị, phải là những người tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc.

Đó là những con người có niềm tin và biết xây dựng niềm tin để có đủ
bản lĩnh vượt qua những khó khăn thách thức trước cuộc sống trên con
đường hướng tới mục tiêu mà Đảng đã lựa chọn.
Về trí tuệ, là những người có năng lực để hoàn thành nhiệm vụ được giao
và không ngừng học tập để luôn đáp ứng được những yêu cầu cao hơn,
mới hơn trong công tác.
Về uy tín trước tập thể, trước nhân dân, phải là những người có nhân cách
và lối sống mẫu mực, trong sáng và minh bạch, vô tư trước mọi cám dỗ
để tạo dựng được niềm tin trong nhân dân, trong tập thể. Từ đó có thể thu


hút được sức mạnh của tập thể và quần chúng, trở thành tấm gương cho
nhân dân noi theo.
Về phẩm chất đạo đức, cán bộ đảng viên phải là những người quán triệt
sâu sắc và làm theo những yêu cầu về “quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, biết
đặt lợi ích của mình trong lợi ích chung, biết hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi
ích tập thể, dám xả thân cống hiến cho lý tưởng cách mạng, cho hạnh
phúc nhân dân.
Bằng nhiều cách tiếp cận khoa học, các tham luận đã làm rõ hơn nữa lịch
sử ra đời, vai trò, ý nghĩa của tác phẩm "Nâng cao đạo đức cách mạng,
quét sạch chủ nghĩa cá nhân". Các nhà khoa học đã thống nhất đánh giá
rằng: tác phẩm vô giá này là một di huấn tư tưởng có giá trị lý luận và
thực tiễn hết sức quí giá và sâu sắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại
cho Đảng ta, nhất là đối với công tác xây dựng Đảng cầm quyền trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay.
Chủ nghĩa cá nhân, trong điều kiện và hoàn cảnh mới, đã có những biểu
hiện cụ thể như: sự phai nhạt lý tưởng, cơ hội chủ nghĩa; tham những,
tham ô, hối lộ, lãng phí; Quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tự cao tự
đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng; Lợi dụng địa vị, chức
quyền, dung túng bao che cho người thân làm ăn phi pháp, chiếm đoạt tài

sản bất chính; Phô trương, hình thức, chạy theo thành tích; Chạy danh,
chạy lợi, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, tại tội, chạy bằng, chạy tuổi;
Địa phương chủ nghĩa, cụ bộ bản vị; Ngại khó ngại khổ, tranh công đổ
tội, lợi mình hại người...
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống
thực dụng, bệnh cơ hội giáo điều, bảo chủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên
còn diễn ra nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở Đảng bị tê liệt, thiếu sức
chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo lẫn chỉ đạo những vấn đề phức
tạp nảy sinh.
Hồ Chí Minh khẳng định, đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá
nhân, do đó, nâng cao đạo đức cách mạng không thể tách rời với chống
chủ nghĩa cá nhân, luôn luôn gắn xây với chống. Xây là để nâng cao đạo
đức cách mạng, chống là hướng tới mục tiêu quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
Hồ Chí Minh chủ trương, “ Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng” và nâng cao đạo đức cách mạng để tăng sức mạnh
chống chủ nghĩa cá nhân. Những giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức
cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân được Hồ Chí Minh đề cập sáng rõ
trong bài viết nhân kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng.


- Giải pháp từ phía Đảng
Cán bộ, đảng viên là những người của tổ chức. Do đó Hồ Chí Minh đòi
hỏi, để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Những
giải pháp chủ yếu để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân trong cán bộ, đảng viên, Đảng phải:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục trong toàn Đảng về lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa, về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ và đạo đức của
người đảng viên.
Thực chất đây là giải pháp nhằm thiết lập nền tảng tư tưởng, lý luận, kim

chỉ nan cho hành động, tạo dựng cái nền, cái gốc của toàn Đảng và với
mỗi cán bộ, đảng viên. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh
của mình, mỗi đảng viên phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin,
củng cố lập trường giai cấp vô sản, cố gắng nắm vững những quy luật của
cách mạng Việt Nam, phải luôn luôn nâng cao đạo đức cách mạng, kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; bồi dưỡng chủ nghĩa tập thể
của giai cấp vô sản, cần kiệm xây dựng nước nhà; một lòng, một dạ phấn
đấu vì lợi ích tối cao của cách mạng và Tổ quốc.
Thứ 2, thực hành tự phê bình và phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng, là vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đó là
phương thuốc hay nhất, giúp cho toàn Đảng và mỗi đảng viên sửa chữa
khuyết điểm, phát huy ưu điểm, tiến bộ không ngừng, ngày một mạnh
thêm. Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tự kiểm điểm, tự
phê bình, tự sửa chữa như rửa mặt mỗi ngày. Được như thế thì trong
Đảng sẽ không có bệnh và Đảng sẽ khoẻ mạnh vô cùng.
Nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình, theo Hồ Chí Minh có nghĩa
là:
+ Tự phê bình và phê bình phải có tình đồng chí thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, thấu lý, đạt tình.
+ Tự phê bình và phê bình phải ráo riết, triệt để, không nể nang, không
thêm, không bớt, không dùng những lời mỉa mai, cay độc, châm chọc,
phải vạch rõ cả ưu điểm lẫn khuyết điểm, phê bình căn cứ vào việc làm,
chứ không suy diễn, quy kết.
Hồ Chí Minh căn dặn, khi tự phê bình và phê bình cần phải đề phòng:


+ Những cán bộ, đảng viên đầu cơ, lợi dụng phê bình để “ đập cho tơi
bời”, để đạt mục đích tự tư, tự lợi.
+ Những cán bộ, đảng viên “ dĩ hoà vi quý”. Đó là những người miễn

sao cho xong chuyện, không tự phê bình cũng chẳng phê bình ai.
+ Những cán bộ cực đoan, máy mốc, thái độ “ đối với những người có
khuyết điểm và sai lầm ... như đối với hổ mang, thuồng luông” 1.
Thứ ba, chế độ sinh hoạt và kỷ luật đảng phải nghiêm minh. Theo Hồ
Chí Minh, Đảng Cộng sản là tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, là đội tiền
phong của giai cấp công nhân và cả dân tộc. Do đó, chế độ sinh hoạt đảng
từ chi bộ đến cấp cao phải nghiêm túc. Hồ Chí Minh rất coi trọng chi bộ
đảng. Người cho rằng “ CHI BỘ TỐT, THÌ MỌI VIỆC ĐỀU TỐT”2.Với
người cộng sản, sự nghiêm minh, chặt chẽ không tách rời tinh thần tự
nguyện, tự giác. Hồ Chí Minh viết: Về kỷ luật, Đảng lao động
Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác. Người chỉ rõ,
muốn nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân thì công
tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẻ.



×