Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Định hướng xử lí bài dài, khó lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.75 KB, 12 trang )

ĐỊNH HƯỚNG XỬ LÍ BÀI DÀI, BÀI KHÓ
TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 12 (CB,NC)
A . ĐẶT VẤN ĐỀ.

Chương trình Ngữ văn Trung học phổ thông (THPT) nói chung, chương trình Ngữ
văn lớp 12 nói riêng (CB và NC) quả có một số bài dài, bài khó gây không ít khó khăn
cho giáo viên (GV) và học sinh (HS), thậm chí có lúc làm cho họ cảm thấy bất lực trước
những thi phẩm “rằng hay thì thật là hay nhưng đem ra giảng dạy thật gay vô cùng”.
Khó khăn gay cấn đến tưởng như bất lực nhưng ý thức nghề nghiệp không cho phép GV
được buông xuôi. Chính vì vậy mà mỗi GV bằng kinh nghiêm và hiểu biết của mình,
cùng nhau suy nghĩ, tìm tòi, khám phá mong tìm được phương án tối ưu trong việc giải
quyết “bài toán văn chương”dài và khó.
Trong số những bài dài và khó ấy, chúng tôi chọn một bài dài và một bài khó.
- Về bài dài: Khái quát văn học Việt Nam từ CM tháng 8/1945 đến hết TK XX.
- Về bài khó : Đàn ghi ta của Lor- ca .
B. NỘI DUNG
1. Quan niệm về bài dài và hướng xử lí.
1.1 Bài dài.
- Về hình thức.
Số trang nhiều, dung lượng lớn. Bài Khái quát lịch sử văn học Việt Nam từ
CM tháng 8/1945 đến hết TK XX chiếm tới 20 trang khổ 17x 24 cm trong SGK Ngữ
văn 12 tâp1 Nâng cao và 16,5 trang trong SGK Ngữ văn 12 tâp1(CB).
- Về nội dung.
Kiến thức đa dạng, phong phú, lượng thông tin nhiều, vừa có diện, vừa có điểm.
Bài Khái quát lịch sử văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến hết thế kỉ XX bao trùm toàn bộ thời kì văn học 55 năm với rất nhiều kiến thức về
lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học…
- Thời gian ấy, kiến thức ấy, nhưng thời lượng thực hiện ngắn nên dễ gây cảm giác
không đủ thời gian, dạy dễ bị “cháy giáo án”.
Tên gọi để phân loại bài dài không đồng nghĩa với bài khó. Có những bài dài
nhưng không khó, có những bài khó nhưng không dài, có những bài vừa dài, vừa


khó.Có những bài vừa, bài ngắn nhưng lại rất khó.
.
1.2. Hướng xử lí.
Bài Khái quát lịch sử văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến hết thế lỉ XX khá dài, nhưng không khó. Đây là kiểu bài văn học sử về một thời kì
văn học. Tuy dung lượng kiến thức phong phú, đa dạng nhưng tất cả đã được tổng hợp ,
khái quát thành những luận điểm cơ bản trong SGK. Nếu như kiến thức trong bài Đọc
văn (PTTP) thuộc dạng « chìm » thì kiến thức trong bài VHS lại thuộc dạng « nổi ». Vì
vậy bài này nên giảng theo phép tư duy diễn dịch khi trình bày các giai đoạn và những
đặc điểm nổi bật về diện mạo của thời kì văn chương này. Dạy và học bài này bằng kiến
thức ghi nhớ, ít đòi hỏi phải tư duy khám phá nên chú ý hướng dẫn HS sử dụng SGK.
Giảng bài này phải thật tinh giản, chỉ giảng cái cần giảng để làm rõ những luận điểm mà
các soạn giả SGK đã nên ra trong bài. Đối với những bài văn học sử như thế này, chủ
yếu là để HS tự đọc ở nhà, đến lớp GV chú ý hướng dẫn cho HS biết cách sử dụng
1
SGK, phát hiện vấn đề, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát vấn đề. Tránh sa đà vào
những vấn đề lịch sử, xã hội vụn vặt mất thời gian và làm mất đi tính chất của bài VHS.
( Lịch sử về văn học )
2. Quan niệm về bài khó và hướng xử lí.
2.1. Bài khó.
- Mới lạ về hình thức và nội dung.
Với “Đàn ghi ta của Lor-ca” quả là một “bài toán” khó, cực khó bởi “bài toán
bằng thơ” này có nhiều điểm mới lạ.
+ Cái mới lạ thứ nhất là lần đầu tiên trong lịch sử dạy học môn văn (đọc văn) ở
trường THPT, bài thơ mới được đưa vào SGK Ngữ văn 12 ( cơ bản và nâng cao).
Ngay nhà thơ Thanh Thảo khá nổi tiếng ở giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mĩ xâm lược và giai đoạn đổi mới sau này, nhiều GV ở phổ thông kể cả đại học
( trừ số GV dạy môn Văn học Việt Nam hiện đại) cũng không biết hoặc chỉ biết thoáng
qua.
+ Cái mới lạ thứ hai là đối tượng thẩm mĩ liên quan trực tiếp đến đề tài của bài

thơ. Trong bài thơ này, Thanh Thảo viết về nhà thơ vĩ đại nhất của Tây Ban Nha ở thế
kỉ XX. Đó là “ngôi sao có ánh sáng khác thường, đôi mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng”( mượn ý,văn của của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng trong bài “Nguyễn Đình Chiểu- ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân
tộc”) Phê-đê-ri-cô Gar-xi-a Lor-ca (1898- 1936) là ngôi sao như vậy.Trừ một số GV đã
từng dạy SGK thí điểm phân ban ở bậc THPT và số GV bậc THCS đã từng dạy môn
văn lớp 8 trước đây, còn lại hầu hết GV có lẽ lần đầu tiên mới biết đến Gar-xi-a Lor-ca,
một tài năng trên nhiều lĩnh vực : thơ ca, âm nhạc, hội họa, sân khấu của Tây Ban
Nha.Vì vậy, đối tượng thẩm mĩ trong bài thơ này cũng rất xa lạ đối với nhiều GV.
+ Cái mới lạ thứ ba là thể thơ, tư duy thơ và những sáng tạo rất độc đáo của
nhà thơ Thanh Thảo. Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại giai đoạn trước Cách mạng
Tháng Tám 1945, nếu như thơ Hàn Mạc Tử, thơ Chế Lan Viên và chừng nào đó ở Xuân
Diệu ít nhiều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa siêu thực thì ở “Đàn ghi ta của Lor- ca” lại
rất đậm màu sắc của chủ nghĩa siêu thực. Chính điều Thanh Thảo nói ra cũng là rất siêu
thực : “…Tôi viết bài thơ trong trạng thái không nghĩ ngợi gì, một trạng thái mà vô
thức chiếm lĩnh tôi trọn vẹn”(6). Có thể nói cho đến hiện nay, Thanh Thảo là nhà thơ số
một của Việt Nam bày tỏ được lòng ngưỡng mộ, sự tri ân và tri âm sâu sắc nhất đối với
tài năng và nhân cách của Lor- ca thông qua “tiếng thơ vang động đất trời”.Đó còn là sự
đồng điệu trong tâm hồn nghệ sĩ của nhà thơ Thanh Thảo Việt Nam với thi hào Gar-xi-a
Lor-ca của Tây Ban Nha. Do vậy, ở đây không chỉ có tình nghệ sĩ mà còn có tình quốc
tế cao cả.
Trong ba cái mới lạ trên, thì cái mới lạ thứ nhất và thứ hai là do tâm lí nên dần
dần sẽ khắc phục được theo qui luật trước lạ sau quen. Còn cái lạ thứ ba mới là cái khó
cần phải có cách xử lí để giải mã hình tượng thơ. Bài thơ không còn là cái hiện thực của
“bức ảnh chủ quan của thế giới khách quan” (Lê nin : “chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
kinh nghiêm phê phán”) nữa mà là cái phi hiện thực (siêu thực) của “bức ảnh chủ quan
của thế giới khách quan”
Yếu tố thời gian trong bài thơ không theo một trình tự nhất định mà từ quá khứ
đến hiện tại, rồi quá khứ đến hiện tại. Cứ như thế gần như quá khứ đến hiện tại chồng
lên nhau. Yếu tố thời gian như vậy cũng là một trong những biểu hiện của siêu thực.

2
2.2. Định hướng xử lí .
Để giúp thẩm định tốt nhất “Đàn ghi ta của lor-ca” mỗi GV cần :
-Tìm hiểu, nắm vững cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Lor-ca (xem phần tiểu
dẫn trong SGK) Phần chú thích trong các tài liệu sau : SGK Ngữ văn 12 tập 1 (bộ CB
và bộ NC), sách văn học lớp 8 tập II-NXBGD,1998 ; một số thông tin trên mạng
Internet.
Nhà thơ Gaxia Lorca (trái) và họa sĩ siêu thực Salvador Dali
Qua việc khai thác, sưu tập, tìm hiểu này, ta có thể nhận biết : Phê-đê-ri-cô Gar-
xi-a Lor-ca (1898-1936) là một tài năng đích thực chói sáng của văn học hiện đại Tây
Ban Nha. Ông là một tài năng trên nhiều lĩnh vực : Thơ ca, âm nhạc, hội họa, sân
khấu. Ông đi nhiều (đã từng đến các nước : Pháp, Anh Mĩ, Cu Ba) viết nhiều (để lại 8
tập thơ, 12 kịch bản sân khấu). Thơ ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới
trong đó có Việt Nam qua bản dịch của Hoàng Hưng, Nguyễn Viết Thắng, Thanh Tịnh,
Tế Hanh, Bằng Việt… với một số bài thơ tiêu biểu như Bài hát (Tế Hanh phỏng dịch),
Không đề và Từ biệt (Bằng Việt dịch)). Ông là một nhà thơ yêu đời, yêu cuộc sống và
yêu nhân dân tha thiết. Thơ ông giàu màu sắc, giàu nhạc điệu, mang đậm hơi thở của
cuộc sống, vừa đậm chất dân ca vừa đậm chất tượng trưng, siêu thực. Ông còn là một
nhà tư tưởng, nhà cách tân trong lĩnh vực nghệ thuật. Tên tuổi và sự nghiệp của Lor-ca
đã có ảnh hưởng lớn không chỉ ở đất nước Tây Ban Nha mà còn lan rộng sang nhiều
nước Tây Âu. Ông đã bị bè lũ Phrăng-cô giết hại năm 1936 lúc 38 tuổi. Tên tuổi cùa
Lor-ca đã trở thành một biểu tượng, là ngọn cờ tập hợp các nhà văn hóa Tây Ban Nha và
3
thế giới chiến đấu chống chủ nghĩa phát xít bảo vệ giá trị văn hóa văn minh tiến bộ trên
thế giới.
- Tìm hiểu về tác giả Đàn ghi ta của Lor-ca ( Phần tiểu dẫn trong SGK) cần nắm
được một số nét chính :
+ Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước.
+ Đặc điểm thơ Thanh Thảo : Giàu suy tư, suy tưởng mãnh liệt, phóng túng trong
xúc cảm. Thơ ông mang tính chất triết luận sâu sắc, thơ xúc cảm, trí tuệ,

+ Thanh Thảo tiếp nhận ,vận dụng tốt tính chất thơ tượng trưng, siêu thực ngay
chính nhà thơ Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca. Thi liệu anh viết về Lor-ca có khá nhiều thi
ảnh trong thế giới nghệ thuật của Lor-ca như : đàn ghi ta, bài ca mộng du, con ngựa
đen, vầng trăng đỏ, kị sĩ đơn độc, áo choàng, đấu sĩ, cô gái Di gan, lá bùa hô mệnh...
- Tìm hiểu từ những “Thế bản”.
Qua “Trò chuyện với tác giả Đàn ghi ta của Lor-ca” (6) giúp ta biết được nhiều
điều bổ ích như :
Biết được hoàn cảnh ra đời. Theo tác giả, bài thơ ra đời trong những ngày rầu rầu
của năm 1979 tại trại sáng tác của Quân khu Năm ở Đà Nẵng, vào thời điểm Trại sắp
giải tán….Thanh Thảo cùng Ngô Thế Oanh (nhà thơ), Trần Phương Kì (nhà dịch thuật)
ngồi rảnh việc bèn đưa thơ Pablo Nêruđa và thơ Lor-ca ra dịch từ bản tiếng Anh.(6)
Nhưng trước đó thơ của Lor-ca qua bản dịch của Hoàng Hưng đã nằm trong ba lô theo
tác giả ra chiến trường từ những năm 1969-1970. Có những câu thơ anh đã thuộc lòng
từ 40 năm nay : Con ngựa đen / Vầng trăng đỏ. Anh còn cho biết thêm “Những gì tôi
có được về xứ sở Andalusia mà tôi cảm nhận qua thơ Lor-ca, tôi đã cố gắng đưa vào thơ
mình” (6) Những “chếnh choáng”, “mỏi mòn”, “bọt nước” dường như nó gần xa ám ảnh
cuộc đời Lor-ca, ám ảnh vào cả thi ca của ông. Như vậy, có thể biết được thơ Lor-ca đã
có sức hấp dẫn đối với Thanh Thảo rất nhiều.Ở đây có sự “gặp gỡ” của những tư tưởng
có cùng khát vọng tìm kiếm cái mới cái đẹp trong thế giới vô cùng, vô tận của Chân,
Thiện, Mĩ sẽ tạo ra thứ văn chương muôn đời trở thành chân lí nghệ thuật” (3). Đây là
sự cộng hưởng, sự đồng cảm, đồng điệu, đồng tình, đồng chí, một sự tri âm sâu sắc giữa
hai nhà thơ. Chính Thanh Thảo đã thổ lộ ra điều ấy “Lor-ca là nhà thơ mà tôi hết sức
ngưỡng mộ cả về thi ca lẫn cuộc đời và cái chết của ông đều gây cho tôi nhiều xúc cảm
và ấn tượng. Chính những hình ảnh và nhạc điệu trong nhiều bài thơ Lor-ca đã dẫn dắt
tôi khi viết bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca mà tôi coi như một khúc tưởng niệm ông” (6)
Từ đó, ta cũng có thể nắm được cảm hứng chủ đạo của bài thơ là xuất phát từ lòng
ngưỡng mộ sâu sắc về tài năng và nhân cách cao đẹp của Lor-ca, từ sự đồng cảm và
nỗi đau vô hạn trước số phận bi thảm và niềm tin mãnh liệt về sự bất tử của sự nghiệp
mà Gar-xi-a Lor-ca để lại Ở đây có sự giao hòa, giao cảm giữa tâm hồn hai nghệ sĩ.Từ
việc nhận biết cảm hứng chủ đạo đó giúp ta nắm được mạch cảm xúc bài thơ để có

phương hướng tiếp cận.
Cũng qua “trò chuyện” với nhà thơ, giúp ta hiểu đúng hơn câu thơ “giọt nước mắt
vầng trăng, long lanh trong đáy giếng”. Qua ý kiến của Thanh Thảo cho thấy sự lí giải
của tác giả SGV (bộ NC) là không thỏa đáng, từ đó giúp ta tìm phương án tiếp cận tối
ưu.
Cần nắm được quan niệm mĩ học của chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa
tượng trưng. Chủ nghĩa siêu thực đề ra một hệ thống quan điểm mĩ học gồm :
- Đề cao và chú trọng khai thác cái ngẫu hứng, cái bất ngờ trong thế giới vô thức,
thế giới hạ ý thức.
4
- Đề cao vai trò của cái hỗn độn, phi logic, phi luận lí. Họ vứt bỏ mọi phân tích lo
gic, mọi suy luận lí tính. Do đề cao ngẫu hứng, các nhà siêu thực cho rằng thơ ca là sự
tự động tuôn trào của mạch cảm xúc theo “chủ nghĩa tự động tâm linh”. Vì vậy về
phương pháp sáng tác các nhà siêu thực không ngần ngại gạt bỏ mọi qui tắc ngữ pháp,
cú pháp, không sử dụng các dấu chấm câu, gạt bỏ qui tắc logic của lí tính. Họ đề cao sự
liên tưởng cá nhân độc đáo, liên tưởng tự do tùy tiện.
- Các nhà siêu thực chủ trương phá vỡ sự ngăn cách giữa khách thể và chủ thể.
Đây là điểm tạo sự bí hiểm, khó hiểu của thơ ca siêu thực. Ngay thuật ngữ siêu thực
cũng nhằm phân biệt với chủ nghĩa hiện thực.
Chủ nghĩa tượng trưng. Chủ nghĩa tượng trưng đối lập với chủ nghĩa tự nhiên và
chủ nghĩa hiện thực trong văn học. Đối lập với chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy
vật trong triết học .
- Thơ ca tượng trưng hướng tới không công nhận sự mô tả khách quan. Hình tượng
trong thơ tượng trưng mang tính chất đa nghĩa, bất định. Thơ tượng trưng yêu cầu trước
hết “thơ phải có nhạc tính” (Véc-len)
- Lối sáng tác của chủ nghĩa tượng trưng- với lối liên tưởng, lối nói bóng gió với
vai trò đặc biệt của văn cảnh đã góp phần cách tân và mở rộng công thức nghệ thuật.
- Về cấu trúc : Thơ tượng trưng hay thơ siêu thực đều không sử dụng hình thức
tuyến tính mà chuyển sang hình thức bề nổi, có thể cảm nhận bằng hình thức kĩ thuật in
ấn hay hình thức âm thanh, Đi vào cấu trúc không gian với cách thức biểu hiện là không

vần và cách thức đảo lộn ngữ pháp cổ điển, cắt rời câu chữ để tạo ra một trật tự mới, tạo
ra loại ngôn ngữ mang màu sắc mới trên cơ sở các ngữ căn có sẵn. Quan niệm này đối
lập với hình thức thẩm mĩ quen thuộc gọi bằng mĩ học “Đối ngẫu” bằng tính song song,
bằng tuyến tính,liên tục trong thơ ca cổ điển và lãng mạn trước đây.
Tóm lại,với những bài mới, khó việc tìm đến những “ thế bản” để tìm kiếm, mở
rộng thêm sự hiểu biết là điều cần thiết. Tham khảo được càng nhiều tài liệu liên quan
đến bài dạy là điều kiện tốt để tiếp giúp chúng ta tháo gỡ khó khăn. Tuy nhiên, quan
trọng nhất vẫn là căn cứ vào sự tồn tại đích thực của hình tượng thơ trong chính văn
bản để phân tích, giải mã.

5

×