Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn thể dục ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.38 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu:
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
2.2. Thực trạng của việc dạy và học môn thể dục ở trường Tiểu học
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh thấy được lợi ích của việc học Thể
dục
2.3.2. Giải pháp 2: Tìm hiểu tình hình học sinh, bồi dưỡng cán sự thể
dục
2.3.3. Giải pháp 3: Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, giúp học sinh có hứng thú say mê, ham thích học thể dục
2.3.4. Giải pháp 4: Vận dụng TT 30 và TT22 vào trong đánh giá,
nhận xét học sinh nhằm phát huy phẩm chất năng lực của học sinh
trong tiết dạy học Thể dục
2.3.5. Giải pháp 5: Đề cao công tác thi đua, khen thưởng
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

1
1
1
2
2


2
2
3
4

3. Kết luận và kiến nghị
- Kết luận
- Kiến nghị

4
5
6
12
13
13
14
14
15


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang chuyển dần sang thời kỳ thực hiện Công nghiệp hoá Hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Văn kiện Đại Hội Đảng cộng sản
Việt nam nhiều khoá đã nhấn mạnh “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài và phát huy nguồn nhân lực to lớn của con người Việt nam là
nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất
nước”. [2]
Vì vậy mà mục tiêu của giáo dục nước nhà là hướng tới việc đào tạo
những con người phát triển toàn diện về “Đức - Trí - Thể - Mĩ”. Nhằm hướng tới
những con người lao động chủ động, linh hoạt, sáng tạo sẵn sàng thích ứng với

xã hội đang từng ngày đổi thay.
Ở bậc Tiểu học hiện nay Bộ giáo dục đã quy định dạy đủ chín môn bắt
buộc và môn Thể dục là một trong những môn học không thể thiếu trong quá
trình giáo dục toàn diện, cân đối hài hoà cho các em học sinh. Bởi vì thể dục là
nhu cầu thiết yếu đối với sức khỏe của mỗi con người nói chung và ở học sinh
Tiểu học nói riêng. Ở học sinh Tiểu học tính tình vui tươi, hồn nhiên, hiếu động
là không thể thiếu ở trong mỗi học sinh. Đặc biệt là mặt tâm lí của các em có
nhiều thay đổi lớn. Vì vậy, trong môn Thể dục không nên theo khuynh hướng
thể dục đơn thuần, máy móc gây cho các em sự mệt mỏi, căng thẳng, nhàm
chán dẫn đến phản tác dụng rèn luyện mà phải kích thích, giúp các em ham
muốn tham gia tập luyện tốt hơn, tạo nên sự hứng thú cho các em sau mỗi tiết
học Thể dục. Từ đó giúp cho việc phát triển trí tuệ, óc thẩm mĩ, trí tưởng tượng
của các em thêm phong phú.
Là giáo viên dạy môn Thể dục, phụ trách giáo dục thể chất cho học sinh,
bản thân tôi nhận thấy rằng học sinh trường tôi có rất nhiều em có năng khiếu
môn Thể dục nhưng các em lại chưa phát huy hết năng khiếu vốn có của mình.
Các em thường hay e ngại nên việc phát hiện những em có năng khiếu thật sự
còn gặp khó khăn, có em có năng khiếu trội nhưng có em lại dấu năng khiếu của
mình không thích thể hiện ra bên ngoài. Mặt khác trong thực tế môn thể dục có
nhiều đối tượng học sinh khác nhau, có em có sức khỏe tốt có em có tật bẩm
sinh. Vậy phải làm thế nào? Phải dùng biện pháp nào? Để học sinh có thể học
tốt môn thể dục. Một số câu hỏi đặt ra như vậy trên nền tảng giáo dục thể chất,
với những phương pháp được sử dụng hợp lí có tác dụng quan trọng tới đối
tượng tập luyện, kích thích hay động viên trên nhiều phương pháp khác nhau để
cho các em có thể tập luyện nâng cao sức khỏe. Xuất phát từ những câu hỏi đặt
ra như trên và cần có lời giải đáp. Vì vậy tôi mạnh dạn đề xuất “Một số biện
pháp giúp học sinh học tốt môn thể dục lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Yên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng dạy học môn Thể dục cho học sinh trường tiểu học
Nga Yên để tìn ra các biện pháp giúp học sinh tiểu học học tốt môn Thể dục.

Tạo cho các em sự say mê và yêu thích môn học. Giúp các em rèn luyện thân thể
tốt, có sức khỏe đảm bảo trong học tập cũng như các hoạt động thường ngày.
2


1.3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Lý luận về dạy, học môn Thể dục.
- Thực tiễn dạy và học môn Thể dục cho học sinh lớp 5 ở trường tiểu học
nói chung và trường tiểu học Nga Yên nói riêng.
- Tìm hiểu một số vấn đề lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Tìm hiểu thực trạng việc học tập môn Thể dục của học sinh lớp 5.
- Sử dụng một số phương pháp nhằm kích thích gây hứng thú học tập giúp
các em học sinh lớp 5 ham thích học tốt môn Thể dục đạt kết quả cao.
1.5. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết, tra cứu tài liệu, điều tra, thống kê, thu
thập sử lý số liệu.
- Phương pháp điều tra khảo sát kết quả của học sinh.
- Nhóm các phương pháp thực tiễn: tọa đàm, trao đổi, tham khảo ý kiến
cũng như phương pháp dạy học của đồng nghiệp thông qua các buổi sinh hoạt
chuyên môn, dự giờ trong lớp.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
Giáo dục thể chất trong nhà trường tiểu học là một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ sự nghiệp TDTT nói chung. Giáo dục thể chất trong nhà trường
được cụ thể hoá bằng các nhiệm vụ cụ thể: [1]
- Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khoẻ: Thúc đẩy sự phát triển hài hoà
của cơ thể đang trưởng thành, phát triển một cách hợp lý các tổ chất thể lực và
năng lực hoạt động cơ bản, nâng cao sức đề kháng của cơ thể, nâng cao khả
năng làm việc trí óc và thể lực.
- Nhiệm vụ giáo dưỡng: Trang bị cho học sinh tri thức, kỹ năng, kĩ xảo

vận động cần thiết cho các hoạt động khác nhau trong cuộc sống, rèn luyện nếp
sống văn minh, lành mạnh, phát triển hứng thú, hình thành thói quen tự tập
luyện.
- Nhiệm vụ giáo dục: Góp phần tích cực vào việc hình thành thói quen
đạo đức, phát triển trí tuệ, thẩm mĩ, chuẩn bị thể lực cho thanh thiếu niên đi vào
cuộc sống lao động và sản xuất.
- Nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng nhân tài thể thao: Phát hiện và bồi
dưỡng được những hạt nhân năng khiếu. Trên cơ sở đó chương trình Thể dục
Tiểu học đã đề ra mục tiêu quan trọng nhất đó là củng cố sức khoẻ và phát triển
thể lực cho học sinh.
Nội dung chương trình Thể dục lớp 5 nhằm tiếp tục trang bị cho học sinh
một số kiến thức, kỹ năng cơ bản về hoạt động, vận động cần thiết trong cuộc
sống hằng ngày. Thông qua thực hiện các bài tập, động tác để hình thành kỹ
năng, rèn luyện các tư thế vận động cơ bản góp phần giữ gìn và nâng cao sức
khoẻ, phát triển toàn diện các tố chất thể lực của học sinh. Bằng các hoạt động
tập luyện theo nội dung của môn học xây dựng cho các em một số nền nếp sống
học tập, góp phần rèn luyện cho học sinh lối sống lành mạnh, tác phong nhanh
nhẹn, kỷ luật và phẩm chất đạo đức của con người mới. Trong quá trình học tập
3


còn giúp các em biết cách ứng dụng những kỹ năng của thể dục vào hoạt động
học tập và sinh hoạt ở trong và ngoài nhà trường. Nội dung học tập Thể dục lớp
5 là sự tiếp nối và củng cố những kết quả các em đã học tập được ở các lớp 1, 2,
3, 4 và phát triển cao hơn các tố chất thể lực, tiếp tục hình thành các thói quen
thường xuyên tập luyện TDTT.
- Chính vì vị trí, nhiệm vụ môn Thể dục ở TH nói chung và môn Thể dục
ở lớp 5 nói riêng như vậy mà là người giáo viên giảng dạy môn Thể dục ở tiểu
học tôi luôn trăn trở tìm ra các giải pháp giúp học sinh lớp 5 học tốt môn thể
dục. .

2.2. Thực trạng của việc dạy và học môn Thể dục lớp 5 ở trường Tiểu học
Nga Yên
- Trong trường Tiểu học hiện nay, mặc dù thời gian biểu cũng như phân
lượng thời gian số tiết cho các môn học cụ thể, rất rõ ràng nhưng ở môn thể dục
nhiều khi vẫn mang tính chất là môn phụ. Bởi vì khối lượng kiến thức Toán và
TiếngViệt rất nhiều nên phân môn Thể dục bị lấn lướt và bị cắt giảm thời lượng.
- Nhiều gia đình học sinh cũng như bản thân học sinh vẫn coi Thể dục là môn
học phụ, không quan trọng bằng các môn học khác và cho rằng không học thể
dục cũng không ảnh hưởng gì.
- Chính vì xem nhẹ các tiết học Thể dục như vậy mà trong các tiết học thể
dục học sinh thường ít chú ý, ít quan tâm đến các bài học. Trong giờ thể dục chủ
yếu chơi là chính và không tập trung cho việc rèn luyện.
- Nhiều phụ huynh thấy con em mình dành thời gian cho việc học thể dục tỏ
ý không vui.
- Từ việc phụ huynh học sinh đến học sinh xem nhẹ môn Thể dục như vậy
dẫn đến nhiều giáo viên với tâm lý không mặn mà với môn dạy, tiết dạy, không
đầu tư nghiên cứu tiết dạy dẫn đến chất lượng giờ dạy chưa cao, chưa hiệu quả,
chưa thu hút được hứng thú học tập ở các em.
- Trang phục của các em học sinh không đồng đều vì hoàn cảnh gia đình còn
gặp khó khăn dẫn đến việc tập luyện của các em không được tự tin, thoải mái.
- Giáo viên còn thiếu kinh nghiệm với cách thức tổ chức hoạt động tích cực
cho học sinh lĩnh hội kiến thức. Hoặc có tổ chức thì còn lúng túng, mất thời
gian, còn qua loa, đại khái. Chưa dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu kỹ
đồ dùng giảng dạy trước khi lên lớp.
- Nhiều giáo viên đến giờ thể dục là cho học sinh ra sân, bãi chơi tự do, hết
tiết là vào lớp.
- Môn thể dục cũng không đánh giá được chất lượng của các nhà trường,
chính vì vậy mà nhiều nhà trường cũng xem nhẹ. Chỉ có khi nào huyện, tỉnh tổ
chức thi học sinh giỏi TDTT thì lúc đó chọn và bồi dưỡng đội ngũ mũi nhọn để
lấy thành tích cho nhà trường.

Đứng trước thực trạng dạy học môn thể dục lớp 5 như vậy ngay từ đầu các
năm học tôi tiến hành khảo sát đối tượng học sinh lớp.
Qua khảo sát thực tế 54 em học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nga Yên cho
thấy: phần đa các em chưa hiểu hết về bản chất, tư thế động tác. Trong quá trình
tập luyện chưa có tính liên tục, chưa có tính thường xuyên trong việc luyện tập ở
nhà. Bởi vì đối với các em chủ yếu là làm việc bằng trực quan, bằng sự bắt
4


chước là chính. Từ tình hình thực tế của trường tôi muốn tìm biện pháp tích cực
để khắc phục tình trạng này.
Khi tôi chưa áp dụng biện pháp này thì kết quả chỉ thu được như sau:
Sau đây là bảng số liệu thống kê đầu năm môn Thể dục của học sinh khối
5, trường tiểu học Nga Yên năm học 2016-2017:
Tổng số
Khối
học sinh
Khối 5

54

Hoàn thành

Hoàn thành

tốt (A+)
SL
%

(A)

SL

%

18

21

39,0

33,3

Chưa hoàn
thành (B)
SL
%
15

27,7

Qua chất bảng số liệu trên chúng ta thấy chất lượng học sinh hoàn thành
tốt môn thể dục còn ít, số học sinh hoàn thành và chưa hoàn thành còn khá cao.
Bởi vậy trong quá trình giảng dạy qua những lần thành công và thất bại tôi đã
rút ra kinh nghiệm và đưa ra một số biên pháp sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Giải pháp 1: Giúp học sinh thấy được lợi ích của việc học thể dục
Luyện tập thể thao mang lại nhiều lợi ích cho con người như sức khỏe, trí
tuệ. Cung cấp kiến thức cơ bản về vệ sinh cơ thể, môi trường,… hình thành thói
quen tập luyện cùng với các hoạt động giáo dục khác góp phần giáo dục toàn
diện cho học sinh, đồng thời tạo nên môi trường phát triển tự nhiên, gây được

không khí vui tươi, lành mạnh.
Việc nâng cao nhận thức cho học sinh không tách rời mà gắn liền với mỗi
nội dung học, mỗi bài học cụ thể. Ngay từ đầu năm khi học giờ học đầu tiên
trong năm học, tôi đã trao đổi với các em: Muốn làm bất cứ việc gì để đạt hiệu
quả chúng ta cũng cần có sức khỏe. Ví như việc học tập của các em nếu như
không có sức khỏe, người mệt mỏi, đầu óc thiếu mân mẫn chắc chắn các em sẽ
không thể tiếp thu bài tốt. Như vậy kết quả học tập của các em sẽ không cao.
Muốn có sức khỏe các em phải tập Thể dục Thể thao đúng cách, đúng quy trình,
mà muốn tập Thể dục Thể thao đúng cách cần phải học tốt môn Thể dục.
Sau đó ở từng phần học, từng bài học tôi giúp các em hiểu được vì sao phải học
phần này (Bài này)? Lợi ích và tác dụng mà Thể dục Thể thao mang lại cho
người học?
Chẳng hạn khi học bài Thể dục phát triển chung tôi giúp các em hiểu được nhờ
tập luyện bài tập phát triển chung mà các em sẽ được hình thành nhân cách
chuẩn mực, nâng cao được các hoạt động của cơ thể, thúc đẩy sự phát triển
những kỹ năng vận động cần thiết, củng cố các nhóm cơ, hình thành tư thế đúng
đắn.
Tập luyện Thể dục Thể thao thường xuyên, đúng phương pháp, khoa học sẽ làm
cho cơ thể phát triển, tim khỏe lên, sự vận chuyển máu của mạch được dễ dàng
hơn, Cơ – Xương phát triển, xương dày lên cứng cáp tạo dáng đi khỏe mạnh…
5


Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 5 các em đang ở
giai đoạn phát triển về chiều cao, cân nặng nếu được kết hợp với tập luyện đúng
phương pháp sẽ phát triển một cách toàn diện về thể chất và con người.
2.3.2. Giải pháp 2: Tìm hiểu tình hình học sinh, bồi dưỡng cán sự thể dục
* Tìm hiểu tình hình học sinh
- Ngay từ đầu năm tôi đã tham mưu với nhà trường có kế hoạch với trạm
y tế địa phương kiểm tra toàn bộ sức khoẻ học sinh. Đặc biệt chú ý đến các bệnh

tật mãn tính, tình hình phát triển của cơ thể, chú trọng một số chỉ số cơ bản
khách quan như: Chiều cao đứng, cân nặng, tiến hành phân tích tổng hợp sức
khoẻ mỗi học sinh. Mặc khác cần tìm hiểu khái quát các điều kiện học tập như:
Số lượng các môn, các giờ học, địa điểm, quãng đường đi lại của học sinh…điều
kiện khí hậu, địa phương.
- Trước giờ dạy cần nắm chắc những diễn biến sức khoẻ, hoạt động học
tập, lao động, sinh hoạt, kết quả của bài trước, những thay đổi tổ chức học tập,
những vấn đề chung của cả lớp và của những em cá biệt. Từ đó kịp thời điều
chỉnh kế hoạch, mức độ, hình thức, phương pháp lên lớp.
* Bồi dưỡng cán sự thể dục:
Bồi dưỡng cán sự Thể dục rất quan trọng, bởi vì đây là những đối tượng
có năng lực chỉ huy, nhanh nhẹn, hoạt bát… nhằm giúp giáo viên khi cần giao
nhiệm vụ. Giúp giáo viên điều hành tổ, nhóm hoạt động khi được giao nhiệm vụ
tập luyện trong nhóm.
Thông thường giáo viên dạy Thể dục thường lấy ngay ban cán sự lớp ở
ngay lớp học văn hóa trong lớp. Song không hẳn đội ngũ đó đã có tác dụng lớn
trong tiết học thể dục. Đó cũng chính là yếu tố làm giảm khả năng phát huy vai
trò và tính tích cực trong tiết học thể dục.
Chính vì vậy, tôi không lựa chọn giải pháp như vậy, để giúp cho tiết học
thể dục đạt được hiệu quả như mong muốn tôi một mặt vẫn lựa chọn bồi dưỡng
đội ngũ cán sự có năng lực, mặt khác bồi dưỡng tất cả các học sinh khác như
những cán sự thể dục, cho dù đội ngũ này không chuyên nghiệp nhưng để học
sinh thấy được vài trò, vị trí của mình trong giờ học và được coi trọng như nhau.
* Ví dụ: - Trong các tiết thể dục học về đội hình, đội ngũ, bài thể dục phát
triển chung sau khi hướng dẫn chung cho học sinh, giáo viên thường chia nhóm
cho học sinh luyện tập. Giáo viên điều hành đội ngũ cán sự thể dục có năng lực
chỉ huy nhóm, tổ thực hiện trước, sau đó học sinh sẽ thay phiên nhau lên điều
hành nhóm của mình.
- Khi tập trung lớp để kiểm tra đánh giá quá trình tập luyện của học sinh
trong nhóm, tôi quan tâm đến việc đánh giá, nhận xét, khen ngợi, góp ý với tinh

thần làm việc của từng nhóm thể hiện qua chất lượng tập luyện.
Với việc làm như vậy học sinh có trách nhiệm hơn với giờ học trong tổ,
nhóm của mình, học sinh cố gắng cùng nhau thi đua học tập và chất lượng giờ
học cũng được nâng lên.
2.3.3. Giải pháp 3: Dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
giúp học sinh có hứng thú say mê ham thích học Thể dục.
Dạy học môn thể dục cũng giống như các môn học khác, giáo viên thể
dục cũng phải luôn đổi mới, sáng tạo, tìm ra các giải dạy học để phát huy tính
6


chủ động, tích cực học tập trong học sinh để từ đó học sinh được khẳng định
mình, tham gia tích cực vào các hoạt động học tập. Chất lượng giờ học có đạt
được hiệu quả như mong muốn hay không phụ thuộc vào hứng thú học tập của
học sinh. Vì vậy khi dạy học ở mỗi dạng bài người giáo viên cũng phải biết lựa
chọn phương pháp, hình thức dạy học cho phù hợp. Trong chương trình môn
Thể dục lớp 5 gồm có các dạng bài như: Đội hình đội ngũ; Bài TD phát triển
chung; Các bài rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản; Các trò chơi vận
động là chủ yếu, trong đó có một số nội dung thể dục tự chọn.
a) Đối với dạng bài dạy đội hình, đội ngũ:
Nội dung đội hình, đội ngũ lớp 5 gồm các bài tập chính như:
- Tập hợp các đội hình.
- Dóng hàng, điềm số.
- Dàn hàng và dồn hàng.
- Quay người về các hướng.
- Cách chào, báo cáo.
- Đi đều và đổi chân khi đi sai nhịp.
Đây là những nội dung rất cơ bản nhằm giáo dục tính kỉ luật, tinh thần tập
thể, rèn luyện nề nếp, thói quen chấp hành những quy định về tổ chức của lớp
học, rèn luyện tư thế và tác phong của mỗi học sinh. Vì vậy khi dạy dạng bài tạp

này, giáo viên yêu cầu học sinh nắm được những kiến thức kĩ năng cơ bản nhất
của đội hình đội ngũ. Yêu cầu cần đạt đối với tất cả học sinh chỉ ở mức ban đầu,
sau đó biết cách tập luyện và tham gia vào quá trình tập luyện cùng tập thể (tổ,
nhóm, lớp), được tham gia vào vận động nhưng chưa yêu cầu cao về kĩ thuật.
Trong quá trình tập luyện, giáo viên cần sử dụng các phương pháp tổ chức
và biện pháp tập luyện khác nhau như: tập luyện theo tổ, tập luyện theo nhóm để
tránh đơn điệu. Tăng cường luân phiên nhau làm nhóm trưởng điểu khiển nhóm,
tổ mình tập luyện. Thực hiện đánh giá, thi đua giữa các nhóm ngay trong từng
tiết dạy thể dục, có khen thưởng rõ ràng. Làm được như vậy học sinh sẽ tích cực
chủ động trong quá trình học tập và rèn luyện.
* Ví dụ: Ví dụ 2: Khi tập đội hình đội ngũ:
Động tác đi đều vòng phải ( vòng trái)…đứng lại ở học sinh lớp 5.
+ Giáo viên phải làm mẫu động tác chậm kết hợp với phân tích kỹ thuật
động tác, sau đó hô cho tổ được chọn làm mẫu tập. Tiếp theo cho các tổ tự tập
luyện theo đội hình một hàng dọc.
+ Khi học sinh đã biết cách đi đều vòng trái (vòng phải)… đứng lại theo
một hàng dọc, mới cho tập theo 2-4 hàng dọc.
+ Sau một thời gian tập nhất định với 2 hàng dọc, giáo viên có thể cho
học sinh tập với 3 hoặc 4 hàng dọc.
Khi dạy đến chỗ vòng hàng phía bên vòng dậm chân, các em ở các hàng
khác theo thứ tự đi chậm, đi nhanh vừa và đi nhanh…để giữ giãn cách của hàng
khi đi vào chỗ vòng cho đều hàng.
Tóm lại, trước khi Giáo viên điều khiển các em ôn bài, giáo viên cần nêu
tên từng động tác rồi mới thực hiện. Sau đó mới chia tổ, phân công giao nhiêm
vụ cho các tổ trưởng. Trong quá trình tập luyện theo tổ giáo viên cần canh thời
7


gian để học sinh chuyển nội dung cho kịp thời, tiếp theo giáo viên tổ chức cho
các em tập thi đua theo tổ hoặc cá nhân với các hình thức sau:

+ Mỗi tổ (cá nhân) lên thực hiện một trong các động tác theo phiếu bóc
thăm, tổ hoặc cá nhân thực hiện tốt sẽ được ghi nhận đánh dấu vào sổ theo dõi
học tập.
+ Cho học sinh tập dưới dạng thi đua tập đúng, tập đẹp có phân thắng thua có thưởng và phạt hoặc đánh dấu theo dõi vào sổ.
+ Động viên học sinh xung phong hoặc mỗi tổ cử đại diện lên thi đua
xem ai tập đúng tập đẹp nhất.
b) Đối với dạng bài thể dục phát triền chung:
Khi học bài TD phát triển chung thường dễ gây cho học sinh tâm lý nhàm
chán và tập theo kiểu chống đối vì hầu như từ lớp 1 đến lớp 5 học sinh đều được
làm quen với bài tập Thể dục phát triển chung. Vì vậy tạo hứng thú cho học sinh
là rất quan trọng và cần thiết.
Để làm được điều đó trước hết là giáo viên thể duc tôi đã làm tốt những
việc sau:
- Tạo mối quan hệ thân thiện, gắn bó với học sinh bằng những lời động viên
khích lệ.
- Giáo viên tổ chức các tiết học thể dục vui vẻ, thoải mái bằng việc sử dụng kết
hợp nhiều hình thức tổ chức dạy học đạt hiệu quả: Thi đua nhau, hoạt động
“chơi mà học”, “chơi mà luyện tập thể dục thể thao”, “cùng làm huấn luyện
viên”,…
* Ví dụ: Khi dạy bài thể dục: “Động tác vươn thở, tay, chân, vặn mình, toàn thân
– trò chơi: Chạy nhanh theo số” – giáo viên có thể sử dụng nhiều hình thức tổ
chức dạy học: Thi đua nhau luyện tập theo nhóm 4 học sinh; thi tập nhanh, tập
đẹp theo tổ,…
- Sử dụng nhiều hình thức giảng dạy: Xem băng hình, tranh ảnh, đồ dùng trực
quan,…
Ví dụ: Khi dạy bài thể dục: Ôn 5 động tác của bài thể dục – trò chơi “kết bạn” –
giáo viên có thể cho học sinh xem băng hình hoặc tranh ảnh để phân tích kỹ
từng động tác giúp học sinh tập đúng, đều, đẹp,…
Khi dạy động tác mới giáo viên cũng cần coi trọng công tác làm mẫu,
giáo viên cần gọi đúng tên động tác, khi làm mẫu phải giải chuẩn xác, giải thích

phải rõ ràng, dễ hiểu để học sinh biết được những điểm cơ bản, sau đó cho các
em tập bắt chước theo. Đối với một số động tác khó, giáo viên cần cho học sinh
tập trước một số lần đối với cử động khó, sau đó kết hợp tập toàn bộ các cử
động khác theo nhịp của động tác.
Ví dụ 1: Khi tập bài thể dục chung:
+ Động tác: Vươn thở, Điều hoà nhịp hô phải chậm.
+ Động tác: Tay, Lườn, Bụng, Toàn thân nhịp hô phải trung bình.
+ Động tác: Chân, Nhảy nhịp hô hơi nhanh.
- Những lần đầu tập Giáo viên cần tập mẫu và hô nhịp cho Học sinh tập,
dần dần hướng dẫn để cán sự điều khiển.
8


- Sau khi tập động tác tương đối thuần thục, Giáo viên cho Học sinh tập
ôn phối hợp với các động tác trước đến động tác mới học và có sự tập mẫu của
giáo viên hoặc cán sự lớp.
Nếu giờ trước Học sinh ôn 4 động tác, tiết này học động tác thứ 5, thì
Giáo viên cho học sinh ôn tập phối hợp 4 động tác trước 1 đến 2 lần rồi mới học
động tác mới sau cùng cho Học sinh ôn phối hợp 5 động tác đã học.
- Khi cán sự điều khiển lớp tập bài, Giáo viên cần uốn nắn nhịp hô nhanh
hay chậm cho cán sự, sau đó mới cho cán sự chủ động điều khiển, Giáo viên đi
hỗ trợ, giúp đỡ sửa sai cho các em.
- Để các em tập đều và đẹp thì ở mỗi động tác Giáo viên cũng cần nhắc
học sinh nắm hướng quay của mặt. Điều đó giúp cho các em quan sát và tự
chỉnh sửa được một số chi tíêt của từng động tác.
- Khi học sinh đã tập được động tác, giáo viên cần tổ chức các hình thức
tập luyện phong phú sao cho phù hợp, hấp dẫn và sinh động để học sinh hứng
thú tập luyện. Cần động viên rằng “Phải mạnh dạn hỏi giáo viên khi chưa hiểu
bài”, xen kẽ giữa các lần tập giáo viên cần nhận xét và trực tiếp sửa sai cho
những em thực hiện chưa đúng động tác.

- Khi ôn tập động tác, giáo viên luôn luôn thay đổi các hình thức tập luyện
để học sinh không bị nhàm chán. Trước hết, giáo viên cho cả lớp ôn lại, nêu
những cử động khó trọng tâm của động tác, sau đó chia tổ và phân khu vực cho
học sinh tập luyện. Giáo viên nên kết hợp cho học sinh tập luyện với hình thức
thi đua hoặc tổ chức trò chơi để kích thích các em tích cực tập luyện.
- Hoặc như khi học sinh bắt đầu nhớ các động tác mới học, giáo viên có
thể thay đổi hình thức luyện tập như cô giáo hoặc nhóm trưởng hô để học sinh
tập luyện bằng cách cho học sinh luyện tập các động tác thể dục trên các nền
nhạc sôi động phù hợp với bài thể dục nhằm tạo ra sự mới mẻ, thu hút học sinh
tập luyện.

9


Học sinh lớp 5 Trường TH Nga Yên tập bài TD phát triển chung
c) Đối với dạng bài rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản:
Các bài tập thể dục rèn luyện tư thế và kĩ năng vận động cơ bản nhằm xây
dựng những tư thế đúng, điều chỉnh kĩ năng chưa hợp lí của học sinh, góp phần
phát triển cơ thể hài hòa và cân đối. Giáo viên cần tập trung rèn luyện cho học
sinh tư thế đúng ngay từ ban đầu, sửa chữa những nhược điểm hoặc tư thế không
chính xác, nhắc nhở kịp thời khi học sinh thực hiện từng động tác của tư thế
chân, tay ở những biên độ và phương hướng khác nhau.
Khi dạy học, giáo viên cần gọi tên và chỉ dẫn động tác, sau đó cho các em
tập dưới sự điều khiển của giáo viên một số lần, xen kẽ có nhận xét, sửa sai.
Chia tổ cho học sinh tự quản tập luyện, giáo viên thường xuyên quan sát và nhắc
nhở các em thực hiện cho đúng động tác. Cho một số học sinh hoặc từng tổ lên
trình diễn báo cáo kết quả tập luyện, giáo viên và học sinh khác quan sát, nhận
xét và đánh giá.
Ngoài ra để thay đổi giờ học nhàm chán giáo viên tổ chức cho học sinh thi
đấu giữa các nhóm, tổ để học sinh hứng thú, thi đua trong giờ học.

* Ví dụ: Khi dạy bài 44 Thể dục lớp 5: Nhảy dây- Di chuyển, tung và bắt bóng.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn lại cho học sinh nhớ ôn luyện lại cách di chuyển,
tung và bắt bóng. Cho học sinh thực hiện một lần giáo viên hướng dẫn học sinh
sửa sai, uốn nắn các tư thế chưa chính xác cho học sinh. Nếu học sinh còn sai
nhiều giáo viên hướng dẫn, làm mẫu lại động tác di chuyển, tung và bắt bóng.
Trong quá trình làm giáo viên phân tích lại để học sinh nắm vững hơn. Sau đó
giáo viên cho học sinh thực hiện 1-2 lần chung rồi mới chia nhóm cho học sinh
luyện tập (khi giao nhiệm vụ tập luyện theo nhóm giáo viên nêu luôn yêu cầu
tập luyện để tổ chức thi đấu giữa các tổ với nhau).
- Tập hợp lớp cho học sinh thi đấu giữa các tổ, nhóm với nhau nhằm thay đổi
không khí lớp học. Giáo viên cho 2 nhóm thi với nhau, cách tính điểm thắng
10


thua giữa các đội như sau: mỗi đội 10 người, mỗi đội đứng thành 2 hàng khi có
lệnh xuất phát sẽ di chuyển, tung và bắt bóng đúng kỹ thuật, không bị rơi bóng
trong khoảng thời gian là 1 phút. Nếu đội nào trong quá trình di chuyển, tung và
bắt bóng mà để bóng rơi, thời gian vượt quá quy định thì đội đó sẽ thua. GV và
học sinh đề ra hình thức phạt đội với đội thua cuộc.
Với cách làm như vậy học sinh của tôi rất hứng thú với giờ học, trong quá trình
luyện tập học sinh có ý thức hơn trong. Chất lượng các giờ học cũng được nâng
lên, học sinh ham thích học môn thể dục hơn.

Học sinh lớp 5 Trường TH Nga Yên đang thực hiện bài tập rèn luyện tư thế
cơ bản
11


d) Khi dạy trò chơi vận động:
Những trò chơi được giới thiệu trong chương trình Thể dục lớp 5 nhằm

phát triển các tố chất thể lực và kĩ năng vận động của học sinh. Ở lớp 5 học sinh
sẽ được học mới 8 trò chơi vận động, phần lớn các trò chơi là những hoạt động
tập thể nên chủ yếu chỉ yêu cầu học sinh biết cách chơi và tham gia chơi được
các trò chơi là đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học.
Những trò chơi trong chương trình môn học được trình bày cụ thể về cách
chơi, luật chơi và gợi mở theo những chủ đề khác nhau nhằm mục đích giúp học
sinh vừa chơi vừa liên hệ thực tế với cuộc sống và thế giới xung quanh. Trong
quá trình chơi, giáo viên có thể sáng tạo hay điều chỉnh một số yêu cầu cho thêm
phần phong phú, hấp dẫn, kích thích các em hưng phấn trong vui chơi, bởi chơi
cũng chính là học tập.
Khi dạy các trò chơi, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung trò chơi, chuẩn
bị tốt các địa điểm và các phương tiện để tổ chức cho học sinh vui chơi, tổ chức
phân công nhiệm vụ và tổ chức đội hình học tập và vui chơi hợp lí, hiệu quả.
Khi tiến hành trò chơi, giáo viên cần giới thiệu ngắn gọn nội dung trò
chơi, cách chơi và những yêu cầu về tổ chức kỉ luật khi chơi. Cho học sinh chơi
thử 1 – 2 lần trước khi chơi chính thức.
Trong quá trình chơi, giáo viên nên sử dụng phương pháp thi đấu, động
viên khuyến khích học sinh tham gia chơi một cách tích cực và chủ động.
Sau khi các em nắm chắc được cách chơi của trò chơi, giáo viên có thể
tăng
thêm yêu cầu, thay đổi nhịp điệu trò chơi, phạm vi hoạt động của trò chơi
nhằm giúp các em phát huy tính sáng tạo trong khi chơi. Ngoài ra, giáo viên cần
yêu cầu về tổ chức, kỉ luật trong khi chơi để đảm bảo an toàn cho học sinh.
Đối với các trò chơi có lời hát, vần điệu, giáo viên nên phổ biến cho học
sinh biết cách chơi, sai đó cho các em học thuộc vần điệu rồi mới kết hợp đưa
lời hát vào trò chơi.
Để đánh giá kết quả của cuộc chơi, giáo viên phải thống kê được những
ưu điểm và tồn tại của từng đội chơi về:
- Thời gian.
- Số người phạm quy.

- Thành tích…..
Từ những chứng cứ rõ ràng, giáo viên mới đánh giá được chính xác và phân
thắng bại thật công bằng. Phải lưu ý rằng: nếu không đánh giá công bằng sẽ làm
cho học sinh mất phấn khởi, đôi khi các em phản đối không chấp nhận sự đánh
giá của giáo viên…Như vậy, cuộc chơi sẽ mất đi ý nghĩa giáo dục.
* Ví dụ:
- Luyện tập ném bóng: Có thể cho học sinh thi ném trúng đích hoặc thi ai
ném xa hơn.
Ảnh 1: Ném bóng trúng đích
2m
(

Là giáo viên,

là học sinh)

GH
12


- Luyện tập bật nhảy: Có thể tổ chức trò chơi bật xa tiếp sức.
Ảnh 2: Bật xa tiếp sức

- Luyện tập chạy nhanh: Có thể chạy thi, chạy tiếp sức giữa hai đội dưới
hình thức trò chơi.
Ảnh 3: Trò chơi ai chạy nhanh nhất

Với các hình thức thay đổi trên sẽ làm cho học sinh không cảm thấy chán
nản. Trong quá trình dạy học, nếu các em có dấu hiệu mệt mỏi giáo viên cần
thay đổi nội dung để tạo lại sự hứng thú, lấy lại tâm lý trạng thái vui tươi, có thể

cho chơi một số trò chơi nhỏ hay kể một câu chuyện ngắn gọn về tinh thần tập
luyện thể thao, lời kêu gọi tập luyện thể dục của Bác Hồ...
Dụng cụ học tập rất quan trọng, nên áp dụng triệt để vì nó dễ tạo nên hưng
phấn. Cho nên mỗi nội dung, mỗi tiết học, giáo viên nên thay đổi dụng cụ như:
Bóng đá, bóng chuyền, ném bóng, nhảy dây...
Để tìm hiểu tình hình học sinh một cách toàn diện, trong mỗi lớp học, tìm
hiểu khả năng vận động của các em có sức khỏe tốt, có sức khỏe yếu hay bệnh
tật... để có hình thức bồi dưỡng tập luyện khác nhau. Đối với học sinh yếu,
khuyết tật, không để các e nghỉ, mà giáo viên phải tổ chức riêng cho các em tập
với cường độ nhẹ hoặc cho các bạn có sức khỏe tốt giúp đỡ các bạn yếu, giáo
viên nên động viên, khích lệ các em này. Tạo điều kiện cho các em, chẳng hạn
như cho các em này làm trọng tài trong các trò chơi, các hoạt động thi đua hoặc
áp dụng phương pháp tập luyện bằng cách “phục hồi chức năng” với hình thức
nhẹ nhàng, nội dung phù hợp để các em này được hoạt động, tạo cho các em một
tình thần thoải mái, vui vẻ phấn khởi tập luyện nâng cao sức khỏe cùng các bạn.
2.3.4. Giải pháp 4: Vận dụng TT 30 và TT22 vào trong đánh giá, nhận xét
học sinh nhằm phát huy phẩm chất năng lực của học sinh trong tiết dạy học
Thể dục:
13


Việc đánh giá nhận xét học sinh trong giờ học là việc làm thường xuyên
của mỗi giáo viên khi lên lớp. Việc đánh giá nhận xét bài tập của học sinh phản
ánh thực trạng đồng thời tìm những biện pháp giải quyết tình hình, sửa chữa sai
sót của học sinh sau mỗi tiết dạy. Trong quá trình đánh giá nhận xét thường
xuyên trên lớp, Giáo viên cần thực hiện tốt quá trình đánh giá một cách chính
xác, đúng theo thông tư, lời nhận xét phải mang tính động viên, khích lệ, đồng
thời cũng chỉ ra được những động tác, tư thế mà học sinh chưa làm được để học
sinh cố gắng hoàn thành bài tập như mong muốn. Giúp học sinh mạnh dạn tự
tin, hợp tác trong quá trình luyện tập trong nhóm của mình.

Trong quá trình đánh giá, nhận xét học sinh cũng là quá trình giáo viên
nhìn lại toàn bộ những khâu lên lớp, tiến hành các bước lên lớp theo đúng kế
hoạch đề ra không, nội dung tập luyện có hoàn thành được nhiệm vụ yêu cầu
hay không, việc áp dụng hình thức tổ chức và sử dụng các phương pháp giảng
dạy có thích hợp có hiệu quả không, khối lượng vận động có phù hợp với yêu
cầu của bài và năng lực học sinh, kết quả tập luyện của học sinh tiếp thu đến
đâu, tồn tại những gì, tinh thần thái độ và tổ chức kỷ luật của học sinh khi lên
lớp ra sao…..Những vấn đề được phân tích sau tiết dạy giáo viên phải ghi vào
phần cuối giáo án, hoặc sau một học kì, cần phân tích đánh giá khái quát các vấn
đề, những vấn đề này được ghi vào sổ công tác chuyên môn.
- Căn cứ vào thực trạng trên bản thân đưa ra một số giải pháp tập luyện
vào tình hình thực tiễn của trường để rèn kỹ năng học môn thể dục là dạy và học
sao cho có thể khơi gợi hứng thú, phát huy được tính tự giác, tích cực của học
sinh để hình thành và phát huy đúng năng lực cá nhân của các em học sinh .
2.3.5. Giải pháp 5: Đề cao công tác thi đua, khen thưởng
Công tác thi đua, khen thưởng là động lực thúc đẩy chất lượng dạy và
học. Vì một trong những nhu cầu cần thiết của con người là sự thể hiện bản thân
và coi trọng danh dự đồng thời cũng là sự phấn đấu vươn lên của mỗi em học
sinh.
Trong mỗi tiết học GV nên thường xuyên sử dụng phương pháp thi đua
khen thưởng đồng thời áp dụng linh hoạt Thông tư 22 của Bộ Giáo Dục vào
đánh giá học sinh. Giáo viên tổ chức cho các em thi đua học tập giữa cá nhân
với cá nhân, giữa tổ với tổ …Sau mỗi lần tổ chức thi đua giáo viên tổ chức cho
học sinh đánh giá dưới sự dẫn dắt của cô. Cuối cùng giáo viên dùng những lời
nhận xét đánh giá của mình một cách khéo léo để những học sinh đã thực hiện
tốt sẽ vui vẻ phát huy khả năng của mình, những học sinh thực hiện chưa tốt
cũng vui vẻ nhận ra khuyết điểm và sẵn sàng rút kinh nghiệm để sửa chữa. Tuyệt
đối không phê phán chê trách học sinh.
Để thúc đẩy được phong trào thi đua học tốt nhằm tuyển chọn những em
có năng khiếu TDTT, trò học tốt thì công tác thi đua khen thưởng phải hết sức

khách quan, công tâm và đầy trách nhiệm, làm sao khen thưởng phải đúng đối
tượng học sinh. Việc khen thưởng có nhiều hình thức : Có thể là những lời ngợi
khen của cô giáo và các bạn, có thể là cộng điểm thi đua cho tổ, cũng có thể là
được ghi danh trong sổ vàng truyền thống …
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua quá trình giảng dạy tôi nhận thấy kết quả đạt được như trên là rất khả
14


quan. Bản thân tôi đã phát hiện và giúp đỡ được những học sinh đặc biệt hòa
nhập cùng các bạn, tạo môi trường học tập lớp học thực sự thân thiện, đồng thời
phát hiện và bồi dưỡng được những học sinh có năng khiếu đạt hiệu quả cao
trong nhiều năm gần đây.
Sau khi tôi đã sử dụng các biện pháp trên thì hiệu quả được tăng dần theo
từng năm học cùng với chuyên môn của mình. Tôi nhận thấy là tất cả học sinh
đều ham học Thể dục, tham gia tập luyện tích cực và nhiệt tình, trong mỗi tiết
học các em thường xuyên được rèn luyện thân thể nên sức khoẻ các em được
nâng lên rõ rệt, mức độ hoàn thành tốt trong kiểm tra được tiến bộ hẳn, không có
học sinh nào xếp loại chưa hoàn thành.
Hoàn thành
Hoàn thành
Chưa hoàn
+
Tổng số
tốt (A )
(A)
thành (B)
Khối
học sinh
SL

%
SL
%
SL
%
Khối 5

54

31

57,4

23

42,6

0

Bên cạnh tỷ lệ học sinh đại trà xếp loại Hoàn Thành Tốt được nâng lên
một cách rõ rệt thì kết quả học sinh giỏi cũng được nâng lên trong năm học
2015- 2016 như sau:
- 1 giải nhì chạy 60m nữ cấp huyện
- 1 giải ba chạy 60m nam
- 2 giải ba đá cầu đơn nam cấp huyện
- 2 giải nhì Arobic cấp huyện
- 1 giải ba Arobic cấp huyện
Tuy nhiên để đạt được những kết quả này không phải trong vài tiết học
mà đó là sự rèn học sinh có thói quen và cách thức xây dựng. Giáo viên có sự
kiên trì, bền bỉ, nhận xét, động viên, luyện tập.

Với những cách thức hoạt động như trên mà tiết học nào cũng vậy,học
sinh trong lớp đều tham gia tập luyện rất tích cực. Điều đó đã tạo cho tôi niềm
vui khi bước vào lớp.
Thông qua kinh nghiệm thực tế từ giảng dạy cùng với việc học hỏi đồng
nghiệp, bạn bè tôi đã rút ra được kinh nghiệm “ Một số biện pháp giúp học
sinh học tốt môn thể dục ở trường Tiểu học ” song không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong quý cấp lãnh đạo và quý đồng nghiệp có ý kiến đóng góp để
những năm học sau tôi thực hiện đạt kết quả cao hơn.
3. Kết luận và kiến nghị
- Kết luận
Việc áp dụng các biện pháp trên vào từng tiết học, giờ học cụ thể vẫn phụ
thuộc vào khả năng của giáo viên và quan trọng hơn là ý thức học tập của các
em. Do vậy, muốn đạt được kết quả cao trong công tác giảng dạy thì bản thân
giáo viên phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng bản thân để nâng cao kiến
thức, hoàn thiện về phương pháp.Hơn nữa chính các phương pháp cũng phải
thay đổi để thích ứng với từng giai đoạn của nền giáo dục.
15


Sau khi tiến hành các biện pháp trên tôi đưa ra kết luận rằng: Các bài tập
đưa ra nhằm hình thành và nâng cao kĩ năng tư duy để thực hiện các động tác ở
mức độ khó hơn như: Kỹ năng vận động, chạy, nhảy…
Qua quá trình giảng dạy tôi thấy những bài tập được áp dụng phù hợp với
đối tượng được nghiên cứu và cũng phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em.
Trên đây chỉ là ý kiến nhỏ được rút ra từ quá trình giảng dạy qua nhiều
năm. Song do trình độ có hạn, kinh nghiệm chưa nhiều, kết quả đạt được chưa
cao. Nên chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót. Xin được tiếp thu ý kiến đóng góp của
các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để nâng cao hiệu quả giảng dạy cho
những năm tiếp theo.
- Kiến nghị

- Qua sáng kiến kinh nghiệm này tôi có một kiến nghị, đề xuất để nâng
cao chất lượng dạy và học của bộ môn thể dục trong nhà trường.
+ Nhà trường cần tuyên truyền cho Phụ huynh học sinh thấy được ý nghĩa
Trang phục học sinh phải riêng biệt đặc thù với môn học, tạo điều kiên tốt cho
các em học tập thoải mái.
Kính mong các cấp, ngành có liên quan cần trang bị thêm phương tiện để
tập luyện, giúp giáo viên có đủ đồ dùng để sử dụng vào các tiết học, các bài tập
khác nhau.
Tạo điều kiện thuận lợi cho những em có năng khiếu, có tố chất thật sự để
tuyển chọn vận động viên kế cận cho ngành TDTT. Rất mong quý lãnh đạo, quý
đồng nghiệp và bạn bè cùng thảo luận, đóng góp ý kiến!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 12 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến của
mình, không sao chép của người khác.
Người viết SKKN

Mai Thị Thủy

Mai Thị Hà

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

3.
4.
5.
6.
7.

Lý luận giáo dục thể chất ở trường phổ thông
Văn kiện Đại hội Đảng
Sách Thể dục lớp 5 sách giáo viên
Sách hướng dẫn giảng dạy môn Thể dục. Sách giáo viên lớp 5.
Thông tư 22; Thông tư 30
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III.
Chuẩn kiến thức kỹ năng lớp 5.

17


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Hà
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Thể dục Trường Tiểu học Nga Yên.
STT

1
2
3

TÊN ĐỀ TÀI SKKN


Một số biện pháp rèn luyện tư
thế cơ bản cho học sinh lớp 1
Một số biện pháp bồi dưỡng
học sinh Tiểu học có năng khiếu
môn thể dục
Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 3 học tốt bài thể dục phát
triển chung

CẤP
PHÒNG;
SỞ ĐÁNH
GIÁ

KẾT QUẢ
ĐÁNH GIÁ
XẾP LOẠI

NĂM
HỌC
ĐÁNH
GIÁ XẾP
LOẠI

Phòng GD

- A cấp huyện.

2004-2005


- Phòng
giáo dục

- C cấp huyện

2012-2013

- Phòng GD
- Sở GD

- A cấp huyện. 2012-2013
- C cấp Tỉnh

* Liệt kê tên đề tài theo thứ tự năm học, kể từ khi tác giả được tuyển dụng vào
Ngành cho đến thời điểm hiện tại.
----------------------------------------------------

18



×