Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN nâng cao chất lượng dạy học môn mỹ thuật phân môn vẽ tranh cho học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU
1/Lí do chọn đề tài
Xuất phát từ mục tiêu là hình thành và phát triển nhân cách con người mới
về mặt thẩm mỹ, dựa trên cơ sở thực tiễn của công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã
hội và dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác
Lênin, giáo dục thẩm mỹ đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của sự
nghiệp Giáo dục. Và giáo dục thẩm mỹ đã được đưa vào nhà trường tiểu học
thông qua nhiều hoạt động, nhiều môn học.
Trong đó, bộ môn Mĩ thuật có một vị trí quan trọng là môn cơ sở của giáo
dục thẩm mỹ. Môn Mĩ thuật ở nhà trường tiểu học không nhằm đào tạo học sinh
trở thành nghệ sĩ, mà với mục đích giúp các em tiếp xúc với hoạt động nghệ
thuật, để các em có hiểu biết về yếu tố làm ra cái đẹp, những quan điểm, những
tiêu chuẩn của cái đẹp. Từ đó, bồi dưỡng thị hiếu, tình cảm thẩm mỹ, giúp các
em có khả năng cảm thụ vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người, của muôn vàn
sự vật xung quanh.
“Vẽ tranh” là một phân môn của bộ môn Mĩ thuật trong chương trình dạy
học tiểu học. Vẽ tranh là vẽ theo một đề tài cho trước về các vấn đề trong cuộc
sống xung quanh. Qua các bài vẽ tranh, học sinh được khám phá thêm về thế
giới xung quanh, học cách diễn đạt tình cảm, tư tưởng của mình với cuộc
sống bằng ngôn ngữ tượng hình. Vẽ tranh cũng giúp các em rèn luyện óc quan
sát, tưởng tượng, phân tích, tổng hợp, diễn đạt, giúp học tốt các môn học khác .
Thực tế cho thấy, đa số các bài vẽ tranh của học sinh hiện nay vẫn chưa bộc
lộ được khả năng của các em. Ở khối 4, 5, bài vẽ khô cứng, chưa thể hiện được
khả năng cảm nhận và tình cảm thẩm mĩ. Ở khối 1, 2, 3, bài vẽ phần nhiều còn
tùy hứng, chưa thể hiện được rõ nội dung đề tài, hình vẽ chưa rõ đặc điểm, bố
cục chưa hài hòa.
Vì vậy để khắc phục, nâng cao chất lượng các bài vẽ tranh, ngay từ những
lớp 1, 2, 3, 4, 5 cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng phân môn Vẽ tranh,
thực hiện tốt mục tiêu giáo dục rèn luyện tri giác, thị giác, tình cảm thẩm mĩ cho
học sinh.
Hiểu được các mục tiêu trên và nắm bắt tình hình thực tế địa phương, xác


định được trách nhiệm, yêu cầu cụ thể của bản thân đối với môn học đó chính là
lí do để tôi đi sâu nghiên cứu thể nghiệm về “Nâng cao chất lượng dạy học
môn mĩ thuật phân môn vẽ tranh cho học sinh tiểu học”.
2/Mục đích nghiên cứu
- Giúp học sinh phát triển trí tuệ, cảm quan đối với thế giới xung quanh.
- Giúp học sinh yêu thích môn mĩ thuật, nâng cao chất lượng hiệu quả phân
môn Vẽ tranh và giáo dục thẩm mĩ ở trường tiểu học.
3/ Đối tượng nghiên cứu
Đề tài này sẽ nghiên cứu về một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
học phân môn vẽ tranh cho học sinh Tiểu học.

1


4/ Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu
- Quan sát
- Điều tra
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1/ Cơ sở lí luận
* Đổi mới dạy học theo hướng tích cực đã được định hướng và xác định
trong Nghị quyết Trung ương khóa VIII đã được thể chế hóa trong Luật giáo dục
và được cụ thể hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Có thể nói cốt
lõi của việc đổi mới là xóa bỏ thói quen hoạt động thụ động - học sinh và làm
theo giáo viên răm rắp và hướng tới hoạt động học tập chủ động. Phương pháp
dạy học theo hướng tích cực là tổ chức các hoạt động và tích cực hóa hoạt động
nhận thức của người học. Bản chất của phương pháp này là cá nhân học sinh tự
học, tự sáng tạo và hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của dạy học Mĩ thuật. Trong
đó, “Vẽ tranh” cũng thay đổi một phần không nhỏ theo chương trình học.
Hiện nay, giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thuật đã có sự tìm kiếm phương

pháp truyền đạt tốt nhất, phù hợp với các đối tượng học sinh. Nội dung kiến thức
thể hiện qua bài dạy được giáo viên nêu đầy đủ, có trọng tâm, có căn cứ vào
mục tiêu bài dạy. Giáo viên có sự khai thác, lựa chọn trong việc tổ chức các hoạt
động dạy học với hình thức phù hợp, giúp học sinh hăng hái xây dựng bài,
không khí lớp học sôi nổi, giờ học vui vẻ hấp dẫn. Giáo viên thực hiện đúng quy
trình dạy - học và phân chia thời gian hoạt động hợp lý, có sự tăng cường thời
gian cho hoạt động thực hành (2/3 thời gian lên lớp) để học sinh có thể đầu tư
vào bài vẽ của mình. Đối với các tình huống sư phạm nảy sinh trong tiết dạy,
giáo viên đã có sự xử lý tốt, giúp học sinh phát triển tư duy, chủ động học tập.
* Học sinh tiểu học đặc biệt thích vẽ và vẽ theo ý thích riêng. Tuy nét vẽ
còn nguệch ngoạc xiêu vẹo nhưng đó lại là sự biểu hiện bằng khả năng và cảm
xúc ngây thơ, hồn nhiên. Trí tưởng tượng và suy nghĩ của các em rất đơn giản và
trong sáng, điều đó thể hiện ở những gì các em vẽ và giải thích về bức vẽ của
mình. Hiểu rõ đặc điểm tâm sinh lí của học sinh giúp cho giáo viên tìm ra
phương pháp hướng dẫn các em tìm hiểu đề tài, cách vẽ hình, như thế nào để có
bố cục hình hợp lý, vẽ màu sinh động hài hòa trong bài vẽ.
* Học Mĩ thuật không thể thiếu đồ dùng trực quan vì nó phù hợp với đặc
điểm môn học và đặc điểm tri giác của học sinh là tri giác bằng trực quan cụ thể.
Đồ dùng trực quan của phân môn Vẽ tranh bao gồm: các tranh ảnh mẫu gắn liền
với mỗi đề tài cho trước, các tranh minh họa bước vẽ, bố cục, tranh hướng dẫn
cách vẽ của giáo viên và các hình vẽ minh họa bảng. Học sinh qua các bức tranh
ảnh mẫu sẽ hiểu rõ hơn về đề tài, tạo điều kiện cho học sinh vẽ tranh đạt chất
lượng cao. Đa số các tranh ảnh mẫu là do giáo viên chủ động chuẩn bị, sưu tầm,
có sự tham gia chuẩn bị của học sinh theo yêu cầu của giáo viên.

2


2/ Thực trạng
- Học sinh học Vẽ tranh thường có hiện tượng ít chú ý nghe lời hướng dẫn

của giáo viên về đề tài, tiếp nhận còn tản mạn, hay quên. Vì đề tài vẽ tranh trong
chương trình học khá quen thuộc với cuộc sống xung quanh nên các em nghe
giảng không tập trung, chỉ muốn vẽ ngay, dù chưa hiểu rõ nội dung đề tài. Bài
vẽ theo phương pháp liệt kê là chủ yếu. Nhất là tiểu học, các em thiếu chú ý tiếp
thu sự hướng dẫn của giáo viên nên hình vẽ thường bị nhỏ hơn so với trang giấy,
bài vẽ tẩy xóa nhiều, không có bố cục, màu vẽ đơn điệu, nhạt nhòa.
- Đối với tranh ảnh mẫu, tranh minh họa, hướng dẫn cách vẽ các em cũng
ngại suy nghĩ tìm nội dung đề tài nên chép lại ngay tranh mẫu, hình vẽ gợi ý của
giáo viên hoặc vở tập vẽ.
- Tư liệu của các đề tài còn phụ thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên, chưa
có các video clip, các mô hình minh họa sinh động đề tài như: mô hình các con
vật (với bài vẽ con vật); dáng người; nhà cửa; cây cối .v.v. để học sinh tìm hiểu
đề tài sâu hơn.
- Chất liệu vẽ tranh chưa phong phú, thường là bút chì, bút dạ, sáp màu.
- Khuôn khổ vẽ tranh trong vở Tập vẽ hạn chế trong khi các bài vẽ tranh
dự thi thường là trên khổ giấy A3.
* Kết quả điều tra học sinh: (Trang sau)

3


Chất lượng bài Vẽ tranh: Giữa học kì I - Năm học 2018- 2019
Hoàn thành

Hoàn thành tốt

Lớp

SL


%

SL

%

5A(36)

16

44,4%

20

55.6 %

5B(37)

10

27,0%

27

73,0%

4A(30)

8


26,6%

22

73,4%

4B(29)1KT

11

38,0%

18

62,0%

3A(34)

8

23,5%

26

76,6%

3B(31)

8


25,8%

23

74,2%

2A(27)

19

70,3%

8

29,7%

2B(26)

17

65,4%

9

34,6%

2C(27)

9


33,3%

18

66,7%

1A(29)

15

51,7%

14

48,3%

1B(28)

15

53,6%

13

46,4%

1C(29)

15


51,7%

14

48,3%

1D(27)

16

59,2%

11

40,8%

3/ Một số biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Vẽ tranh cho
học sinh tiểu học.
3.1. Hướng dẫn tìm chọn nội dung đề tài:
Đề tài để vẽ tranh rất phong phú, trong mỗi đề tài lại có nhiều nội dung để
học sinh lựa chọn. Có thể hướng dẫn học sinh khai thác nội dung đề tài bằng
nhiều cách khác nhau như:
- Giới thiệu các bức tranh ảnh có cùng đề tài. So sánh các bức tranh ảnh
nhiều đề tài để tìm ra đặc điểm nội dung của đề tài cho trước.
- Tích cực sử dụng các trò chơi, kể chuyện, video clip, mô hình phù hợp
mang nội dung bài học để giờ học thêm hấp dẫn, sinh động, cuốn hút học sinh.
- Yêu cầu học sinh nêu nội dung mình định vẽ qua tưởng tượng, giáo viên
điều chỉnh ngay trên lời phát biểu của học sinh để các em vẽ sát đề tài.
4



Để tạo không khí học tập vui vẻ, lôi cuốn, hấp dẫn học sinh, giáo viên có
thể tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm để các em thể hiện năng lực cá
nhân, rèn luyện năng lực làm việc nhóm. Giáo viên cần quan tâm đến tất cả các
đối tượng học sinh, tạo điều kiện để tất cả các em đều tích cực hoạt động.

3.2. Rèn kĩ năng vẽ nét.
- Để học sinh nắm được kĩ năng vẽ nét, ngay từ lớp 1, trong chương trình
học đã bao gồm các bài vẽ nét thẳng, nét cong.... Các bài vẽ đơn giản như vẽ lá
cờ, vẽ cá, vẽ cây vẽ nhà, vẽ quả… là sự phối hợp các nét vẽ đã học sau đó nâng
cao dần lên qua các bài vẽ có chủ đề như vẽ chim và hoa, vẽ tranh phong cảnh
đơn giản. Tuy nhiên với thời lượng ít, số học sinh nắm vững kĩ năng vẽ không
nhiều, đặc biệt là cách bố cục hợp lí các hình ảnh trong bài vẽ. Giáo viên cần
cho các em so sánh những bức tranh có nét vẽ tốt, hình vẽ sinh động, bố cục hợp
lý, màu sắc hài hòa so sánh với các bức tranh chưa đẹp, để học sinh nhận ra
những ưu khuyết điểm của bài vẽ, từ đó nắm được cách vẽ và rút kinh nghiệm
cho bài vẽ của mình.
- Thao tác minh họa bảng là không thể thiếu khi dạy Mĩ thuật bởi vì ngoài
hướng dẫn về lý thuyết thì với tâm lý lứa tuổi học sinh khối 1, 2, 3,4,5 được trực
tiếp quan sát thao tác mẫu của giáo viên sẽ giúp các em nắm bắt nhanh hơn cách
vẽ tranh, vẽ hình hài hòa, cân đối. Giáo viên vẽ minh họa một nội dung của đề
tài vào phần khung tranh đã kẻ sẵn. Vừa vẽ vừa có những miêu tả bằng lời và
các lưu ý đối với học sinh về cách vẽ hình, sắp xếp bố cục. Với đặc điểm thích
bắt chước các hành động của người khác của các em, cách vẽ mẫu của giáo viên
góp phần giúp học sinh hình thành kỹ năng vẽ hình và bố cục hợp lí. Nhưng để
tránh sự sao chép thụ động của học sinh, khi chuyển sang phần thực hành, giáo
viên phải xóa bài minh họa để tránh làm ảnh hưởng đến sự sáng tạo của học
sinh.
5



- Có thể cho học sinh thực hành vẽ trên bảng, trên khổ giấy lớn để các em
quen thuộc với cách vẽ hình hài hòa sau đó yêu cầu học sinh khác đưa ra nhận
xét bài của bạn để rút ra bài học.
- Áp dụng phương pháp “cùng làm việc”: Ghép nhóm học sinh khá giỏi với
học sinh yếu để cùng thảo luận, chọn nội dung tranh, phân công mỗi bạn vẽ một
hình cho đến khi tranh hoàn thiện. Bằng cách này, với sự động viên khích lệ của
giáo viên cho các nhóm, học sinh sẽ cạnh tranh trong học tập, ngoài ra còn bổ
sung cho nhau, tạo sự hứng thú thi đua cho giờ học.
Bài vẽ của học sinh theo nhóm của hoc sinh tham gia cuộc thi ATGT

3.3. Đổi mới chất liệu vẽ tranh.
Hiện tại học sinh thường vẽ bài thực hành trên vở tập vẽ là chủ yếu. Để học
sinh có thể phát triển hơn trong nét vẽ tôi đang xen kẽ cho học sinh vẽ thực hành
trên khổ giấy A3 đóng quyển – khổ giấy của hầu hết các bài vẽ tranh thiếu nhi.
Qua quá trình dạy, giáo viên có thể nhanh chóng nắm bắt được khả năng của
từng em, phát hiện học sinh có năng khiếu để tiếp tục bồi dưỡng, tìm ra hạn chế
của học sinh yếu để rèn luyện khắc phục.
Ban đầu, để học sinh làm quen với khổ giấy rộng, giáo viên cho học sinh vẽ
hình vào bảng con, vào bảng lớp trên khung hình cho trước để hình vẽ được to
rõ. Sau khi học sinh quen thuộc với cách vẽ hình, giáo viên cho phép học sinh vẽ
vào vào vở hoặc giấy bằng bút nét to. Nhằm hạn chế việc tẩy xóa, rụt rè khi vẽ
hình của học sinh, bước đầu không nên để các em sử dụng bút chì. Điều này bắt
buộc học sinh phải suy nghĩ, lựa chọn hình vẽ của mình thận trọng trước khi đặt
bút. Nhờ đó bài vẽ sẽ đẹp hơn về hình, chặt chẽ hơn về bố cục.
6


3.4. Tổ chức tham quan, dã ngoại, hoạt động ngoài trời
Các hoạt động tham quan dã ngoại, hoạt động ngoài trời được học sinh rất

yêu thích. Có thể kết hợp nội dung sinh hoạt ngoại khóa giúp học sinh tìm hiểu
đề tài của tranh. Trực tiếp tham gia và là một “nhân vật” trong hoạt động, được
trải nghiệm qua thực tế sẽ giúp học sinh liên hệ tốt hơn vào bài vẽ của mình.
Tùy điều kiện của địa phương và của trường sở tại, có thể tham mưu với ban
giám hiệu nhà trường, phối kết hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường,
lựa chọn một số đề tài tổ chức tham quan, dã ngoại hoặc trực tiếp vẽ ngoài trời
cho học sinh:
- Lễ hội: Trung thu, đua thuyền, rước đèn, chọi gà, đấu vật…
- Quân đội: Tham quan bảo tàng quân đội; đi thăm doanh trại quân đội;
chúc mừng các đơn vị bộ đội nhân các ngày kỉ niệm trong năm; tổ chức văn
nghệ, giao lưu…
- Vui chơi: Ở sân trường, tổ chức trò chơi dân gian.
- Vẽ vườn cây, vườn hoa, phong cảnh: tham quan, vẽ trực tiếp tại địa điểm
đẹp như cảnh làng quê, công viên, vườn cây, vườn hoa đẹp…
Trong buổi tham quan, giáo viên phát phiếu thảo luận cho học sinh thảo
luận theo nhóm, yêu cầu trong khoảng thời gian quy định tự tìm hiểu về các nội
dung chính của đề tài:
Ví dụ với bài: Vẽ tranh: Đề tài phong cảnh
Nội dung phiếu thảo luận:
- Nơi em đang đến là cảnh đẹp ở đâu? (vùng miền)
- Phong cảnh nơi đó có những hình ảnh, màu sắc nổi bật nào?
- Để vẽ phong cảnh đó em chọn các hình ảnh gì?
- Cảm nhận của em về cảnh đẹp nơi đây?
- Em còn biết phong cảnh ở những vùng miền nào khác? Nơi đó có hình
ảnh, màu sắc nổi bật nào?
Hết thời gian thảo luận, các nhóm đưa ra kết quả, giáo viên tổng hợp và kết
luận chung.

7



3.5. Về phương tiện, đồ dùng dạy học:
Nhờ đổi mới về phương pháp dạy học, áp dụng công nghệ thông tin vào
dạy học mà hiện nay chất lượng học của học sinh ngày càng tiến bộ. Việc tăng
cường thiết bị đồ dùng dạy học, kho tư liệu dạy gắn liền với chất lượng học của
học sinh. Có đồ dùng trực quan tốt, sát nội dung bài, lại được trình bày đẹp mắt
sẽ gây sự tập trung thích thú và chú ý của học sinh.
Ví dụ: Đối với các bài vẽ con vật: Vẽ gà, vẽ con vật nuôi… phải có tranh
ảnh để học sinh nhận ra đặc điểm của con vật đó. Có thể chuẩn bị băng đĩa hình,
tư liệu về các con vật để gợi cho học sinh nhớ lại hình ảnh, hoạt động sinh động
của con vật, tham khảo thêm nội dung cho bài vẽ.
- Trực quan đối với Mĩ thuật không chỉ có mẫu thực mà còn là nhớ lại
những gì học sinh đã trông thấy. Do đó, ngôn ngữ giáo viên sử dụng phải là
ngôn ngữ giàu hình tượng, miêu tả hình dáng, màu sắc, âm thanh. Những hình
ảnh qua lời nói của giáo viên cũng mang tính trực quan, giúp học sinh hình dung
ra đối tượng vẽ. Sử dụng trực quan trong giờ dạy Mĩ thuật chỉ có hiệu quả khi
lời hướng dẫn của giáo viên được đưa ra đúng chỗ, đúng thời điểm.
3.6. Các giải pháp để giải quyết vấn đề:
* Phát huy và nâng cao vai trò của người dạy bằng cách luôn học hỏi, trau
dồi kiến thức một cách tích cực, hiệu quả:
VD1: Bài: Vẽ tranh đề tài trường em (lớp 4)
Chuẩn bị:
4 tranh có nội dung khác nhau nhưng cùng vẽ về một đề tài (tranh phong
cảnh trường em, học sinh dọn vệ sinh sân trường, học sinh đang học bài, vui
chơi… ) trong đó có những tranh do các em học sinh lớp trước vẽ.

8


Sử dụng đồ dùng do tôi tự làm, gồm: 1 khung hình bằng giấy cứng A3,

hình ảnh nhà, cây, các bạn học sinh…được cắt rời rồi sau đó theo lời giảng, giáo
viên sẽ dán dần các hình để thành một bức tranh đề tài trường em.
Kết quả: Giúp các em học tập kinh nghiệm của các bạn và biến nó thành
kinh nghiệm của bản thân. Khi vẽ tranh các em sẽ phát huy được những mặt tốt
và hạn chế những mặt chưa tốt trong cách sắp xếp bố cục và sử dụng màu sắc
trong bài. Để học sinh dễ phân tích và quan sát khơi dậy hứng thú cho các em.
VD2: Bài 19 – lớp 1 Vẽ Gà.
Ở phần quan sát nhận biết đặc điểm của con Gà, giáo viên có thể đưa đồ
dùng để học sinh quan sát nhận xét và tìm đặc điểm riêng của con vật. Tôi sử
dụng đồ dùng dạy học: cắt rời từng bộ phận con Gà và ghép từng bộ phận của nó
để học sinh dễ dàng nắm được các bộ phận của con vật.
Giáo viên có thể vẽ và hướng dẫn học sinh cùng làm thêm một số tranh
phục vụ cho từng bài dạy và bằng những chất liệu khác nhau như bút sáp, màu
nước, màu bột …
Kết quả thực tế khi các em hoàn thành bài vẽ

Tôi hoàn toàn nhất trí và đánh giá cao cách dạy học theo phương pháp đổi
mới hiện nay. Toàn ngành giáo dục đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong hoạt động học
tập. Đó chính là con đường hiệu quả nhất để đạt được mục tiêu dạy học. Chức
năng cơ bản của người thầy là chủ đạo, tổ chức các hoạt động ấy để học sinh chủ
động chiếm lĩnh nội dung học tập bằng những phương pháp thích hợp với từng
bài học. Dạy mỹ thuật cũng như dạy học các môn học khác và cũng phải tuân
9


thủ theo phương pháp chung và có những phương pháp riêng biệt. Tiết học có
thành công hay không là do phần lớn ở người thầy cô và muốn làm được điều
này tôi cần phải nắm vững và thực hiện thật tốt các bước, thao tác, kỹ năng của
bộ môn.

* Giới thiệu bài lôi cuốn và xúc tích.
Đối với từng khối lớp khác nhau tôi chọn cách vào bài phù hợp có thể
dùng những bài hát, trò chơi, những hình ảnh liên quan đến đến bài học.
VD1: Khi dạy bài 22: vẽ tranh đề tài con vật nuôi - Lớp 1
Tôi có thể bắt trước tiếng kêu của con vật rồi hỏi học sinh con vật đó kêu,
gáy là con vật gì? Hoặc ngược lại, tôi nêu tên con vật và yêu cầu học sinh bắt
trước tiếng kêu của con vật ấy.
VD2: Khi dạy bài 7: “Đề tài an toàn giao thông” - lớp 5, tôi cho các em
quan sát các đoạn băng về những hình ảnh người đi sai luật giao thông (1 phút)
Giáo viên hỏi: Các em có suy nghĩ gì khi nhìn thấy những hình ảnh này?
(Nếu chúng ta không chấp hành đúng luật giao thông thì sẽ dễ gây ra những vụ
tai nạn đáng tiếc).
Giáo viên hỏi: Chúng ta cần làm gì để hạn chế tai nạn giao thông?
(Chấp hành đúng luật giao thông và tuyên truyền cho mọi người cùng
thực hiện).
Giáo viên hỏi: Các em tuyên truyền bằng những hình thức nào?
(Tuyên truyền bằng chính hành động đi đúng luật của mình, bằng vẽ tranh cổ
động, lên án người đi sai luật, viết bài, viết báo…)
VD3: Vẽ tranh đề tài Mẹ hoặc cô giáo – Lớp 2 – bài 23. Giáo viên có thể
hát một đoạn bài “Lúc ở nhà mẹ cũng là cô giáo…” hoặc đọc bài thơ về mẹ và
cô. Rồi hỏi trực tiếp các em: Các em có thích vẽ tranh về mẹ và cô giáo
không?...Hôm nay cô sẽ cùng các em vẽ về đề tài này…
Như vậy việc giới thiệu đối với một bài mới rất cần thiết và càng cần thiết hơn
nếu người giáo viên tìm được cách giới thiệu gây được sự kích thích, hứng thú
đối với học sinh. Vậy để làm thế nào để có được cách vào bài như thế?
Theo tôi để làm được điều này người thầy trước hết phải tìm hiểu kỹ bài dạy,
xem xét, tìm ra cách lạ, hay gây ấn tượng và cụ thể hơn là cách chọn những hình
ảnh phù hợp liên quan đến bài học, nhất là đối với học sinh lớp 1, 2.
* Giúp học sinh nắm được nội dung bài học bằng cách phát huy tính tích
cực, chủ động phát hiện kiến thức mới.

10


Tạo hứng thú bằng cách đặt những câu hỏi khơi gợi thông tin, kích thích
tính tò mò của học sinh. Mỗi giáo viên có một cách khai thác bài khác nhau, có
thể cho các em khai thác trên tranh ảnh, hoặc đặt câu hỏi trả lời.
Ở môn mỹ thuật, phương pháp vấn đáp được sử dụng nhiều. Phương
pháp vấn đáp kích thích được học sinh suy nghĩ, giúp học sinh hiểu, áp dụng vào
bài vẽ của mình.
VD1: Bài “Vẽ tranh đề tài phong cảnh’’
Giáo viên cho học sinh quan sát tranh ảnh (băng hình)
Hỏi: Tranh phong cảnh thường có hình ảnh gì?
(Tranh phong cảnh vẽ về cảnh vật xung quanh em, như: nhà, cây, hoa cỏ,…
Tranh phong cảnh vẽ cảnh là chính có thể điểm thêm người, con vật… cho
bức tranh thêm sinh động.)
Vì sao lại phải đặt câu hỏi như thế? Phải làm thế nào để có những câu hỏi
vừa sát nội dung của bài lại vừa dễ hiểu với học sinh? Để làm được điều này tôi
đã suy nghĩ và chắt lọc ra những câu hỏi không phải chỉ xoay quanh nội dung
bài học mà còn liên quan và thật gần gũi, quen thuộc với đời sống hàng ngày của
các em. Điều này sẽ thôi thúc học sinh phải tư duy, nghĩ lại những hoạt động đã
và đang xảy ra xung quanh mình.
VD2: Khi dạy bài 19: “Vẽ tranh đề tài Sân trường em giờ ra chơi’’- Lớp
2, tôi cho các em quan sát 2 bức tranh và đặt câu hỏi.
Hỏi: Bức tranh này vẽ các bạn đang làm gì?
(Tranh vẽ các bạn học sinh đang quét sân trường, đang chơi nhảy dây, chơi kéo
co…)
Hỏi: Hình dáng, điệu bộ của các bạn như thế nào?
(Hình dáng của các bạn sinh động, mỗi bạn một tư thế: bạn đang nhảy lên, bạn
quay nghiêng, bạn cúi xuống …)
Hỏi: Em có nhận xét gì về màu sắc của bức tranh này?

(Hs nêu nhận xét về màu sắc bức tranh, bức tranh vẽ màu hình ảnh chính nổi bật
hơn hình ảnh phụ, kết hợp hài hòa 2 gam màu nóng, lạnh và đã biết cách sử
dụng độ đậm, nhạt trong bài.)
Để học sinh thực sự hiểu bài, giáo viên phải chú ý đến việc nêu câu hỏi
phù hợp, luôn gây những yếu tố bất ngờ hứng thú để các em hăng hái trả lời,
giáo viên phải chú ý đến từng nhận thức của các em để khai thác nội dung bài.
11


Để tình trạng này không bao giờ xảy ra, người thầy phải tôn trọng câu trả
lời của học sinh, chăm chú thực sự khi nghe học sinh trả lời và có thái độ với tất
cả các câu trả lời dù đúng hay chưa đúng. Không được chê bai hay phản đối câu
trả lời của học sinh dù là câu trả lời sai. Bởi khi học sinh trả lời các em đều nghĩ
cả thầy cô và các bạn đang chờ đợi ý kiến của mình mà khi trả lời xong cô lại
chê thì em đó sẽ xấu hổ với lớp như vậy các em sẽ sợ phát biểu và gây ra kết quả
không mong muốn trong giờ học.
* Tạo điều kiện để học sinh cảm thấy thoải mái trong thời gian thực hành.
Nếu có điều kiện, Giáo viên nên cho học sinh được vẽ thực tế ở ngoài trời.
ví dụ như bài: Vẽ tranh phong cảnh, vẽ cây, vẽ nhà, vẽ trường…
Có thể cho học sinh vẽ theo nhóm, như nhóm đôi, nhóm ba…để hình thức
vẽ phong phú hơn, học sinh được học tập thể, làm quen với việc hoạt động
nhóm.
Trong khi làm bài giáo viên phải nắm vững tâm lý của học sinh để từ đó xây
dựng kế hoạch và phương pháp tác động vào các em tạo ra được không khí cạnh
tranh trong học tập (khen bạn vẽ đẹp), kích thích sự sáng tạo, xóa bỏ tư tưởng
chán học không muốn trong học tập. Từ một nhóm học sinh khá giáo viên có thể
dùng làm hạt nhân kích thích gây ra một làn sóng lan truyền trong học tập.
* Tạo sự tự nhiên và sự chủ động của học sinh khi đánh giá kết quả bài vẽ.
Cuối tiết học của từng bài, giáo viên cần dành thời gian để nhận xét, đánh
giá bài vẽ của học sinh (có thể dùng nam châm, dây, cặp…để treo bài các em).

Khi đánh giá tranh vẽ của các em cần phải dựa trên đặc điểm tâm sinh lý của lứa
tuổi, từ các khối lớp khác nhau giữa học sinh lớp 1 và lớp học sinh lớp 5.
Không nên áp đạt lấy tiêu chuẩn đánh giá tranh vẽ của người lớn để đánh giá
các em. Dựa trên những yếu tố có thể phân loại và đánh giá đúng với khả năng
để khích lệ học sinh học tập là chủ yếu:
- Khi đánh giá cần căn cứ vào yêu cầu của bài học, động viên khuyến khích các
em có tính sáng tạo.
- Những em học sinh yếu không nên chê bai quá nhiều với những em chưa đạt
mà chỉ nên nhắc nhở, động viên các em bài sau cố gắng vẽ tốt hơn.
Như vậy mới tạo ra cho các em sự tìm tòi, hứng thú say mê và thể hiện cái
mới sáng tạo trong bài vẽ của mình.

* Tạo hứng thú cho học sinh qua việc nhận xét bài của bạn, của mình.

12


Sau khi học sinh hoàn thành bài vẽ của mình, học sinh mang sản phẩm
lên trưng bày, tuỳ từng nội dung bài học mà giáo viên có hình thức tổ chức khác
nhau. Sau đó giáo viên gọi học sinh nhận xét bài của bạn, đánh giá theo 3 mức
độ sau: Hoàn thành tốt, Hoàn thành, (Chưa hoàn thành: có thể khuyến khích học
sinh về nhà làm tiếp rồi giáo viên chấm sau). Và tìm ra bài mình yêu thích. Qua
đó giúp học sinh học tập những kinh nghiệm để vẽ tốt bài vẽ của mình.
Việc cho học sinh được chủ động đánh giá bài bạn và bài mình giúp học
sinh có thêm chính kiến của bản thân và sẽ tự rút được những kinh nghiệm từ
những việc mình chưa làm được và phát huy được thế mạnh của mình.
* Tổ chức lồng ghép các trò chơi phù hợp.
Môn mỹ thuật là một môn học nghệ thuật. Vì vậy giáo viên phải tổ chức sao
cho giờ học nhẹ nhàng, thoải mái, vui tươi mang tính nghệ thuật và có thể tổ
chức bằng nhiều hình thức như lồng ghép trò chơi. Lồng ghép trò chơi không chỉ

kích thích các em hoạt động mà còn giúp các em phát triển trí nhớ, trí tưởng
tượng sáng tạo thông qua việc tái tạo nội dung, hình tượng, tiếng kêu, tiếng động
…để xây dựng hình ảnh của bài vẽ.
Nhưng khi sử dụng trò chơi giáo viên có thể áp dụng vào từng bài học khác
nhau, có bài thì giáo viên cần lồng ghép trò chơi có bài thì không cần.
Giáo viên phải biết lồng ghép đúng tùy từng nội dung của các bài học có thể ở
phần mở bài, thực hành hay ở cuối bài học.
VD1: Bài 22: Vẽ vật nuôi trong nhà (lớp 1)
Giáo viên có thể cho chơi trò chơi ngay ở phần đầu. Cho cả lớp hát bài hát
có tên con vật sau đó hỏi trong bài hát có tên những con vật gì. Rồi giáo viên
giới thiệu bài mới. Hoặc có những bài giáo viên có thể cho phần trò chơi dưới
cuối bài để củng cố bài.
Hoặc để củng cố cho bài này giáo viên có thể chọn cách sau khi học sinh
đã làm xong bài, giáo viên chi học sinh thành 3 nhóm hoặc 2 nhóm và cho học
sinh chơi trò chơi: “ai nhanh, ai khéo”. Học sinh sẽ phải lần lượt lên lắp những
bộ phận con vật được cắt rời thành con vật hoàn chỉnh. Tổ nào xong trước sẽ
chiến thắng. Thời gian tối đa cho các đội là 3 phút.
Cũng có thể cho học sinh chơi trò chơi đơn giản hơn, mang tính tổng quát
hơn như: cô giáo sẽ vẽ nhanh lên bảng nhiều hình tròn tương đương cho 2 hay 3
đội. Nhiệm vụ của học sinh là trong vòng 3 phút, các em lần lượt lên vẽ thêm
vào hình để có được con vật hoặc hình ảnh đã được học như: từ hình tròn thì
thêm tia nắng nữa sẽ thành ông mặt trời; thêm đầu, cánh, đuôi,… thành con vật,

VD2: Bài 23: Vẽ tranh đề tài mẹ hoặc cô giáo ( lớp 2)
13


Sau khi nhận xét xong bài của học sinh, cô giáo có thể cho các em chơi
trò chơi. Thi tìm hiểu những bài hát nói về mẹ hoặc cô giáo, các bạn nêu tên bài
hát và hát một vài câu. Qua trò chơi giúp các em nhận biết và cảm thụ thêm và

đây cũng là cách học thoải mái nhẹ nhàng. Các em vừa được học lại vừa chơi trò
chơi. Sau khi học xong các em có cảm giác thoải mái, hứng thú, hưng phấn cho
môn học sau.
*Giới thiệu sản phẩm nặn, tạo hình, tranh vẽ. Triển lãm tranh theo từng
chủ đề vào những dịp kỉ niệm, ngày lễ trong năm, treo tranh vẽ vào phần
trang trí lớp “góc sáng tạo”, “sản phẩm năng khiếu”…
Ngoài giờ học chính, để có những kết quả đồng bộ và lâu dài thì việc thể
hiện mình, khẳng định mình cũng là một cách hay ta nên thường xuyên thực
hiện. Những ngày lễ trong năm như 20-11 Ngày Nhà Giáo Việt Nam, 22- 12
Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam,…tôi cũng xin ban lãnh đạo nhà
trường cho phép môn mĩ thuật được mở triển lãm nhỏ để chào mừng lễ kỉ niệm.
Những bài vẽ, những sản phẩm sáng tạo của các em sẽ được trưng bày
trang trọng ở hai bên sân khấu của trường, giới thiệu rộng rãi để các học sinh,
các thầy cô, các bậc phụ huynh,…được biết, được chiêm ngưỡng. Việc làm này
giúp các em thêm tự hào và cố gắng hơn đối với môn học. Em nào có bài đẹp
được trưng bày sẽ thật hãnh diện với mọi người, em nào chưa có bài được trưng
bày thì năm sau cố gắng hơn. Giúp cho phụ huynh có cái nhìn sâu sắc hơn với
môn học, để họ có cái nhìn tích cực hơn về môn học này.
Các bài vẽ được trưng bày của học sinh

14


* Dùng tranh vẽ và sản phẩm sáng tạo để tặng người thân và bạn bè nhân
các dịp lễ tết trong năm.
Tôi luôn khuyến khích các em sáng tạo những tấm bưu thiếp, bức tranh đẹp,
sản phẩm sáng tạo…để dành tặng thầy cô, cha mẹ, bạn bè…nhân những dịp kỉ
niệm. Việc này khơi gợi trong các em tình cảm chân trọng, biết quan tâm, chia
sẻ với những người thân yêu xung quanh các em, đồng thời giúp trí tưởng tượng
trong mỗi học sinh được phát huy. Vì thế mà môn mĩ thuật luôn là một trong

những môn học được các em yêu thích, là môn học dành được nhiều thành tích
cao của trường cũng như của huyện.

15


*Khuyến khích học sinh gửi bài tham gia các cuộc thi trên báo, trên đài
truyền hình.
Ngoài những cuộc thi thường niên của nhà trường cũng như của huyện,
tôi thường khuyến khích các em tham gia gửi bài vẽ hay sản phẩm sáng tạo tham
gia các cuộc thi do báo Thiếu niên nhi đồng, báo Văn tuổi thơ,…tổ chức. Việc
làm này giúp các em thêm háo hức thi đua và chủ động làm bài và dấy lên
phong trào học mĩ thuật ở mỗi lớp học, khối lớp. Giúp các em có thêm nhận
thức về tầm quan trọng của môn học, thêm yêu thích môn học này cũng như
phân môn vẽ tranh đề tài.
Vì thế mà mỗi lần bước vào lớp tôi đều được học sinh chào đón bằng
những ánh mắt hân hoan, nụ cười tươi sáng…giúp tôi có thêm nhiệt huyết trong
việc dạy học này. Còn các em có thêm nhiều cách học đa dạng và bổ ích để tiếp
thu tốt những kiến thức mới, nắm chắc những kiến thức cũ.
Bài vẽ của học sinh tham gia cuộc thi Chiếc ô tô mơ ước

3.7. Động viên, khích lệ học sinh
Với đặc điểm tâm lý lứa tuổi để học sinh hào hứng tích cực, trong quá trình
tìm hiểu đề tài, giáo viên phải luôn chú ý khen ngợi, biểu dương những ý kiến
phát biểu tốt. Phải chú ý đặt các câu hỏi vừa sức cho các đối tượng khác nhau,
khuyến khích tinh thần của tất cả các em. Đối với bài vẽ của học sinh, giáo viên
cần thường xuyên khen ngợi những ưu điểm để học sinh tự tin phát huy, nêu
16



hướng khắc phục những khuyết điểm cần điều chỉnh dưới hình thức góp ý nhẹ
nhàng không áp đặt như “bài vẽ có đẹp hơn không nếu em vẽ như thế này….”
- Để lôi cuốn học sinh vào bài giảng giáo viên có thể dùng những câu hỏi
ngắn gọn, dễ hiểu, những ví dụ sinh động nhằm gây hứng thú học tập cho học
sinh để dẫn dắt các em đến với nội dung bài học và nên đặt ra các câu hỏi gợi
mở và lời nói gợi cảm. Sự khêu gợi hứng thú học tập cho các em là rất cần thiết
ngay từ phần vào bài mới. Giáo viên sử dụng những lời nói phù hợp với tâm lý,
sẽ tạo được sự phấn chấn cho học sinh, các em sẽ vẽ với tất cả sự hào hứng say
mê, kết quả của giờ học vẽ tốt.
- Nếu chuẩn bị đồ dùng dạy học chu đáo, có chất lượng thì giờ học Mĩ thuật
sẽ rất bổ ích lý thú hấp dẫn đối với học sinh, vì nhờ phương pháp trực quan, các
em sẽ phát huy được trí tưởng tượng. Học sinh quan sát, nhận xét kĩ về bố cục,
hình vẽ sẽ tránh được trường hợp các em vẽ hình không cân đối với khổ giấy.
4/ Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi thực hiện giải pháp tôi thấy chất lượng học tập cuối học kỳ I của
các em đã được nâng cao rõ rệt hơn so với những năm trước.
- 100% các em biết cách vẽ tranh đề tài.
- Một số học sinh phát huy được năng khiếu của mình, có sự sáng tạo
trong các bài vẽ tranh đề tài. Các bài vẽ tranh đề tài phong phú và sinh động;
học sinh ngày càng hứng thú hơn với môn học và chất lượng cũng được nâng
lên rõ rệt.
Kết quả cụ thể như sau: (Trang sau)

Chất lượng bài Vẽ tranh: Cuối học kì I - Năm học 2018- 2019
17


Lớp

Hoàn thành tốt


Hoàn thành

Sĩ số

SL

%

SL

%

5A(36)

20

55.5%

16

44.5 %

5B(37)

15

40,5%

22


59,5%

4A(30)

10

33,3%

20

66,7%

4B(29)1KT

15

51,7%

14

48,3%

3A(34)

14

41,2%

20


59,8%

3B(31)

12

38,7%

19

62,3%

2A(27)

19

70,3%

8

29,7%

2B(26)

17

65,4%

9


34,6%

2C(27)

11

40,7%

16

59,3%

1A(29)

16

55,1%

13

44,9%

1B(28)

17

60,7%

11


39,3%

1C(29)

18

62%

11

38%

1D(27)

18

66,6%

9

33,4%

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1/ Kết luận
Với vai trò là một giáo viên, tôi nhận thấy: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học
sinh các lớp 1, 2, 3,4,5 khi học phân môn Vẽ tranh đều có biểu hiện vẽ theo cảm
tính. Vì vậy, trong quá trình dạy học, giáo viên phải dựa vào yếu tố này để thiết
kế bài giảng sao cho chính xác mục tiêu giáo dục, phát huy nét riêng của lứa
tuổi. Giáo viên cần nghiên cứu nội dung bài dạy, tìm ra sự liên quan của bài

trước và bài sau để củng cố kiến thức cũ, truyền đạt kiến thức mới, chuẩn bị tư
liệu mẫu mang tính thẩm mỹ cao, hấp dẫn học sinh. Giờ học Mĩ thuật phải giáo
dục cho học sinh biết yêu mến và trân trọng cái đẹp, phát huy tư duy trừu tượng,
ngôn ngữ tạo hình của các em.
2/ Kiến nghị
18


- Để học sinh học tốt, vẽ đẹp thì nhà nước và ngành giáo dục cần tạo mọi
điều kiện tốt hơn như: phòng học riêng, giá vẽ, bàn xếp mẫu, mẫu vẽ. Thực hiện
tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cùng nhau tham gia giáo
dục.
- Giáo viên dạy Vẽ tranh ở các lớp nên nghiên cứu kỹ tâm lý lứa tuổi học
sinh để có biện pháp giúp đỡ các em phát huy khả năng, tư duy sáng tạo. Cần
nhớ, hình vẽ của các em chỉ mang tính ước lệ, khái quát.
- Với học sinh, phát động nhiều những cuộc thi vẽ tranh cho học sinh để
học sinh được cọ sát, giao lưu học hỏi lẫn nhau.
- Tổ chức những buổi tọa đạm, tuyên truyền…để nâng cao tay nghề và rút
ra những kinh nghiệm để giúp giảng dạy đạt kết quả cao.
- Quan tâm xây dựng bổ sung kho tư liệu về các đề tài vẽ tranh về chất
lượng và số lượng.
Các Mác đã từng nói: “Nếu anh biết thưởng thức nghệ thuật thì anh phải
là người được giáo dục về nghệ thuật”. Ngay từ những bước chập chững đầu
tiên, nếu học sinh được giáo viên dìu dắt, nâng đỡ mà vẫn để cho các em tích
cực chủ động trong học tập, thì kết quả đem lại sẽ là nền móng vững chắc cho
một con người không chỉ biết thưởng thức nghệ thuật mà còn biết sáng tạo ra
nghệ thuật
Đó là một vài ý kiến của riêng cá nhân tôi về một số khía cạnh nhỏ của sự
tạo hứng thú cho học sinh đối với môn học mỹ thuật ở tiểu học nói chung và học
tốt phân môn vẽ tranh nói riêng. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của các

đồng nghiệp qua bài viết này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hậu lộc, ngày 27 tháng 02 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác
Người viết:

Lê Năng Dũng

PHỤ LỤC
19


Một số tranh vẽ về các đề tài của học sinh Trường Tiểu học Triệu Lộc:

( Bài vẽ phong cảnh Quê hương em)

( Bài vẽ cây của học sinh lớp 1)

(Tranh vẽ về đề tài Mẹ hoặc Cô giáo)

( Tranh vẽ về đề tài Em đi học)

( Tranh vẽ về đề tài Ngày Tết hoặc lễ hội )

( Tranh vẽ về đề tài Phong cảnh quê hương )


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Mĩ thuật và phương pháp dạy học mĩ thuật ở tiểu học (NXBGD - tác giả
Nguyễn Lăng Bình).
- Sư phạm học tiểu học (NXBGD - tác giả: Nguyễn Đình Chính, Nguyễn
Văn Luỹ, Phạm Ngọc Uyển)
- Hình họa căn bản (NXBVHTT -

tác giả: Lê Thanh Lộc)

20


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT HẬU LỘC

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC MÔN MĨ THUẬT
PHÂN MÔN VẼ TRANH CHO HỌC SINH TIỂU HỌC

Họ và tên: Lê Năng Dũng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường Tiểu học Triệu Lộc
SKKN thuộc lĩnh vực: Môn Mĩ Thuật

21
HẬU LỘC NĂM 2019



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY

22



×