Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh khối 3 trường tiểu học nga bạch nga sơn học tốt môn tin học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.22 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4.Các phương pháp nghiên cứu
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1.Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư
thế thực hành cho học sinh.
2.3.2.Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối
tượng học sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học.
2.3.3. Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh
nắm vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận
- Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục các đề tài SKKN

Trang
1
1
1
2


2
2
2
3
4
4
6
9
13
14
14
14

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng các phương tiện hiện đại
càng quan trọng và cần thiết. Do đó, Tin học trở thành công cụ không thể thiếu
trong đời sống xã hội. Ngày nay tin học đã có những bước tiến nhanh chóng về
ứng dụng của nó trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tin học được quan tâm
nhiều hơn bao giờ hết vì nó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống văn
minh góp phần đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
tiến đến nền kinh tế tri thức. Máy tính cùng với phần mềm là công cụ đắc lực
giúp chúng ta học tập, quản lý, tổ chức, sắp xếp và xử lý công việc một cách
nhanh chóng và chính xác. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Đảng
và nhà nước ta đã yêu cầu Bộ giáo dục và Đào tạo đưa môn Tin học vào trong
nhà trường ngay từ Tiểu học. Học sinh được tiếp xúc với môn Tin học để làm
quen dần với lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học

những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
Trong những năm gần đây Tin học là môn học mới được đưa vào nhà
trường nên các em học sinh say mê hứng thú học và được các nhà trường quan
tâm đầu tư, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Cũng như các môn học khác, việc xây
dựng chương trình môn Tin học theo đúng quy trình và đảm bảo đầy đủ các
thành tố như: mục tiêu dạy học, nội dung và chuẩn cần đạt tới, phương pháp và
phương tiện dạy học, cách thức đánh giá kết quả học tập của học sinh.[1]
Qua quá trình nghiên cứu và thực tế giảng dạy môn tin học khối 3, 4, 5 tại
Trường tiểu học Nga Bạch tôi thấy rằng môn Tin học ở bậc tiểu học bước đầu
giúp học sinh làm quen với một số kiến thức ban đầu về công nghệ thông tin,
hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết cho người lao
động hiện đại. Tuy nhiên việc dạy học Tin học vẫn còn những bất cập và hạn chế
nhất định, hiệu quả chưa thực sự cao. Bởi vậy, việc dạy học tốt môn Tin học là
yêu cầu bức thiết hiện nay, đặc biệt là học sinh đầu cấp. Vậy người giáo viên
phải nghiên cứu nội dung và vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để
giúp học sinh học khối 3 học tốt môn Tin học? Làm thế nào để các em sử dụng
máy tính vào việc học tập đạt hiệu quả cao. Đó là điều bản thân tôi trăn trở, suy
nghĩ và mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “Biện pháp rèn học sinh khối 3 Trường
Tiểu học Nga Bạch – Nga Sơn học tốt môn Tin học trong giai đoạn hiện nay”
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2. Mục đích nghiên cứu
+ Nghiên cứu tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng
dạy và đổi mới phương pháp để dạy tốt môn Tin học ở Tiểu học.
+ Giúp giáo viên sử dụng công nghệ thông tin như một công cụ lao động
trí tuệ để nâng cao chất lượng dạy học.
+ Giúp học sinh:
- “Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và
trong đời sống.
- Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những môn học khác,
trong hoạt động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích

ứng với đời sống xã hội hiện đại.
2


- Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng công cụ Tin
học.
- Rèn luyện một số phẩm chất của con người hiện đại như cẩn thận, tỉ mỉ,
chính xác, thói quen tự kiểm tra.” [1]
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Môn tin học lớp 3.
Học sinh khối 3 Trường tiểu học Nga Bạch – Nga Sơn – Thanh Hóa.
1.4. Các phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu lý luận, thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phối
hợp các phương pháp chính sau đây:
* Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Sử dụng phương pháp này để nghiên cứu cách dạy học, các tài liệu, phần
mềm liên quan. Do đó cần sử dụng phương pháp nghiên cứu lí luận để dạy tốt
môn Tin học.
* Phương pháp ứng dụng thực tiễn:
Bộ môn Tin học là một bộ môn mới ở trường tiểu học và chủ yếu là sủ
dụng phương pháp trực quan sinh động để ứng dụng thực hành:
- Phương pháp quan sát - Kiểm tra việc học tập của học sinh (bài cũ, bài
mới, bài tập).
- Phương pháp điều tra.(Phỏng vấn học sinh khối lớp 3. Sử dụng bảng
biểu đối chiếu).
- Phương pháp khảo nghiệm: Thăm lớp, dự giờ, kiểm tra chất lượng sau giờ học.
*Phương pháp thống kê - xử lý dữ liệu:
Là hệ thống các phương pháp dùng để thu thập, xử lý và phân tích các con
số, số liệu để rút ra kết luận liên quan tới dạy học môn Tin học ở khối lớp 3.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Tin học là môn học mang tính khoa học và công nghệ. Học sinh học tốt
môn Tin học có điều kiện thuận lợi để trẻ thích ứng với đời sống xã hội hiện đại,
góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và trở thành người có ích cho xã hội để
xây dựng và bảo vệ đất nước trong tương lai. Chính vì lẽ đó nên Đảng và nhà
nước ta luôn quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện cho giáo dục tin học trong các
nhà trường được phát triển. Điều đó thể hiện qua các chỉ thị, nghị quyết, thông
tư hướng dẫn, đặc biệt là Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa công
nghệ thông tin vào nhà trường. Và quyết định số 50/QĐ-BGD&ĐT ngày
30/10/2003 về việc ban hành chương trinh môn Tin học ở bậc tiểu học. Trong
nhiệm vụ năm học 2016 - 2017 Bộ trưởng giáo dục đào tạo nhấn mạnh: Tiếp tục
thực hiện tổ chức dạy học môn Tin học theo Chương trình giáo dục phổ thông
ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ
GD & ĐT ở những nơi có đủ điều kiện. Đẩy mạnh các hoạt động giáo dục có nội
dung Tin học – công nghệ thông tin dưới hình thức các câu lạc bộ để học sinh
được tiếp cận, hình thành các kĩ năng học tập, sử dụng sáng tạo. Môn tin học là
môn tự chọn nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thoải mái không bị gò ép.
Là môn học trực quan, sinh động, môn học khám phá những lĩnh vực mới nên
3


học sinh rất hứng thú học, nhất là những tiết thực hành. Đối với học sinh tiểu
học tư duy trìu tượng chưa phát triển, tư duy cụ thể giữ vai trò quan trọng. Chính
vì thế, giáo viên phải lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù
hợp. Do vậy việc dạy học môn Tin học cần được quan tâm và tổ chức có hiệu
quả, vận dụng phù hợp và linh hoạt với điều kiện thực tế trong nhà trường để
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Trong năm học 2016 - 2017, tôi được phân công, giảng dạy môn Tin học
từ khối lớp 3 Trường tiểu học Nga Bạch – Nga Sơn – Thanh Hóa, bản thân

nghiên cứu và nhận thấy những vấn đề sau:
Trường tiểu học Nga Bạch đã được sự ủng hộ của các cấp uỷ – UBND –
các ban ngành, phụ huynh toàn trường hỗ trợ cơ sở vật chất cho nhà trường. Tạo
điều kiện sắm sửa máy móc, trang thiết bị, Sách giáo khoa và phần mềm kèm
theo tạo điều kiện cho giáo viên trong việc giảng dạy môn Tin học.
Nội dung sách giáo khoa nhẹ nhàng, trình bày đẹp, sách chú trọng nhiều
về phần thực hành rất phù hợp với lứa tuổi học sinh tiểu học.
Tuy nhiên còn có một số khó khăn, hạn chế sau:
* Về phía nhà trường:
Nhà trường đã có một phòng máy vi tính để cho học sinh học nhưng vẫn
còn hạn chế về số lượng cũng như chất lượng, mỗi ca thực hành có tới 3 em ngồi
cùng một máy nên các em không có nhiều thời gian để thực hành, làm bài tập một
cách đầy đủ. Hơn nữa nhiều máy cấu hình máy đã cũ, chất lượng không còn tốt
nên hay hỏng hóc, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng học tập của học sinh.
* Về phía giáo viên:
- Việc dạy của giáo viên còn chưa bài bản, chưa phát huy hết tính tích cực
chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập. Thêm vào đó việc đầu
tư cho nghiên cứu bài dạy chưa nhiều, việc đổi mới phương pháp chưa triệt để,
hình thức tổ chức dạy học còn rập khuôn, máy móc. Dẫn đến nội dung các tiết
dạy còn nghèo nàn, đơn điệu.
- Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ môn tin học còn quá ít. Nhất là
những tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học.
- Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học
nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu chưa có sự thống nhất
và đang hoàn chỉnh.
- Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi
thực hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến
học sinh thiếu máy, không thực hành được.
* Về phía học sinh:
- Đời sống kinh tế của địa phương còn gặp nhiều khó khăn, rất ít học sinh

ở nhà có máy vi tính. Vì vậy học sinh chỉ được tiếp xúc với máy vi tính ở trường
là chủ yếu, do đó sự tìm tòi và khám phá máy tính với các em học sinh còn hạn
chế, nên thao tác của các em chưa thành thạo.
- Học sinh thường ngồi tự do, chưa đúng tư thế trước máy tính khi thực hành.
- Một số học sinh đứng trước máy tính còn có tâm lý sợ máy hỏng nên
việc sử dụng máy tinh còn rất hạn chế.
4


Trước khi thực hiện chuyên đề, qua khảo sát thực tế khối lớp 3, bản thân
thu được kết quả như sau:
Mức độ thao tác
Thao tác nhanh, đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm
Chưa biết thao tác

Trước khi thực hiện chuyên đề
Số HS
Tỷ lệ
10/118
8,47
40/118
33,90
46/118
38,98
22/118
18,65
Bảng 1


Từ kết quả trên cho thấy: Số học sinh thao tác chậm và chưa biết thao tác
còn chiếm tỷ lệ cao. Trăn trở với chất lượng học sinh, tôi luôn đặt ra câu hỏi làm
thế nào để học sinh thao tác nhanh, đúng cao hơn và đặc biệt là có nhiều học
sinh sử dụng thành thạo máy tính. Bởi vậy cần phải có những giải pháp phù hợp
và hữu hiệu để nâng cao chất lượng dạy học tin học ở khối lớp 3.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyêt vấn đề.
2.3.1. Tăng cường giáo dục ý thức học tập, thường xuyên uốn nắn tư
thế thực hành cho học sinh.
Giáo viên luôn chú trọng giáo dục ý thức học tập của học sinh, tạo cho
học sinh sự hứng thú trong học tập từ đó sẽ giúp cho học sinh có ý thức vươn
lên. Trong mỗi tiết dạy giáo viên nên liên hệ nhiều kiến thức vào thực tế để học
sinh thấy được ứng dụng công nghệ thông tin và tầm quan trọng của môn Tin
học trong thực tiễn và tương lai sau này.
Việc giáo dục ý thức học tập cho học sinh nhất là các giờ học thực hành là
rất cần thiết. Vào đầu năm học, trước hết giáo viên cần phổ biến nội quy riêng
của phòng Tin học ngay trong buổi học đầu tiên. Đây là cơ sở để quản lí và xử lí
đối với học sinh không chấp hành đúng nội quy đề ra. Nội quy phải được đặt
ngay trên phòng thực hành, đặt tại vị trí trung tâm phía trên bảng để học sinh dễ
dàng quan sát. Các máy tính phải được đánh số thứ tự và có thể giao theo nhóm
hai hoặc ba học sinh một máy, các học sinh này có trách nhiệm quản lý và thực
hành máy của mình tránh hiện tượng giành máy, gây mất trật tự trong giờ học.
Học sinh khối 3 là lứa tuổi hồn nhiên, chưa có ý thức nhiều về hành vi của
mình nên giờ thực hành rất dễ xảy ra tình trạng lộn xộn, đùa giỡn trong khi thực
hành, ngồi thực hành với tư thế tùy tiện theo thói quen của mình. Vì vậy giáo
dục ý thức học tập cho học sinh có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
nhân cách của học sinh sau này. Giáo viên cần phải chú ý đúng mức, kịp thời
uốn nắn những sai lệch, hình thành những thói quen, thao tác đúng đắn cho học
sinh. Bởi vì vốn kiến thức ban đầu luôn có vai trò hết sức quan trọng, là nền tảng
cho các cấp học sau này. Những sai lệch ngay từ ban đầu sẽ tạo nền những thói
quen không đúng và rất khó sửa chữa, ảnh hưởng đến chất lượng học tập của

học sinh.
Phải tạo không khí lớp học thoải mái nhẹ nhàng, giáo viên phải làm cho
học sinh thương yêu, tôn trọng mình thì tiết học mới đạt hiệu quả. Giáo viên
5


không nên dùng biện pháp mạnh khi học sinh không chép bài vì làm như thế học
sinh sẽ không thu hoạch được gì. Đồng thời, trong giờ học giáo viên nên động
viên đúng mức đối với học sinh chưa hoặc không làm bài tập, cho dù các em
làm sai, trên cơ sở đó giáo viên có thể chỉ ra chỗ sai, chỗ thiếu cho từng học
sinh. Bên cạnh đó giáo viên cần khen ngợi, khích lệ kịp thời đối với từng học
sinh, làm cho học sinh có lòng tin vào bản thân mình.

Giờ học thực hành vẽ của học sinh lớp 3A- Trường TH Nga Bạch
Hình 1
Giờ thực hành phải thực hiện nghiêm túc giống như một tiết học lý thuyết
bình thường. Giáo viên hướng dẫn học sinh ngồi thực hành phải đúng tư thế và
đảm bảo các yêu cầu sau:
- “Ngồi thẳng, tư thế thoải mái sao cho không phải ngẩng cổ hay ngước
mắt khi nhìn vào màn hình, không ngồi nghiêng, ngồi ngửa khi thực hành.
- Tay đặt ngang tầm bàn phím và không phải vươn xa, chuột đặt bên tay
phải.
- Nên giữ khoảng cách giữa mắt học sinh đến màn hình từ 50cm đến
80cm.
- Không nên nhìn quá lâu vào màn hình.
- Máy tính nên đặt ở vị trí sao cho ánh sáng không chiếu thẳng vào màn
hình và không chiếu thẳng vào mắt của học sinh”.[2]

6



Hoc sinh lớp 3C - Trường TH Nga Bạch đang thực hành đúng yêu cầu
Hình 2
Mặt khác, phòng máy tính phải gọn gàng, sạch sẽ đảm bảo an toàn cho
học sinh.
Học Tin học phải thường xuyên tiếp xúc với máy tính, mà nhất là học sinh
tiểu học ở lứa tuổi còn nhỏ nếu không giáo dục tốt cho học sinh về ý thức vệ
sinh học đường khi thực hành máy tính thì học sinh rất dễ mắc các bệnh như cận
thị, vẹt cột sống, mệt mỏi khi ngồi học… ảnh hưởng đến sự phát triển cả về thể
lực, trí lực của học sinh sau này.
Tóm lại: Việc giáo dục cho học sinh có ý thức học tập tốt, giáo viên quan
tâm, thường xuyên uốn nắn tư thế ngồi cho học sinh giúp các em phát triển nhân
cách, đảm bảo sức khỏe vệ sinh học đường, đảm bảo an toàn phòng máy là cơ sở
để học sinh học tốt môn Tin học.
2.3.2. Vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học
sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học.
Để thực hiện tốt biện pháp này, Giáo viên cần tạo điều kiện để học sinh
chiếm lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành thái độ, biết thực hành, vận
động một cách linh hoạt không bị động hoàn toàn theo lệnh của cô giáo. Cô giáo
đóng vai trò chủ đạo điểu khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh.
Học sinh thông qua những hoạt động cụ thể để định hướng thành động cơ, kiến
tạo tri thức mới cho mình. Chẳng hạn khi dạy một nội dung lý thuyết Tin học
người giáo viên cần đưa ra một hệ thống rất nhiều câu hỏi từ dễ đến khó. Lúc
đầu bao giờ cũng nêu ra những câu hỏi rất dễ để lôi cuốn, phát huy tính tích cực
hoạt động đến tất cả các đối tượng học sinh mà nhất là những học sinh chưa
hoàn thành, giáo viên cần ưu tiên, khuyến khích các đối tượng này. Sau đó đưa

7



ra các câu hỏi khó dần để tất cả học sinh tham gia ý kiến và tự hình thành tri
thức mới, giáo viên góp ý, nhận xét để học sinh xác nhận lại tri thức mới đó.
Ví dụ: Chương 1: Làm quen với máy tính.[2]
Ở chương này, ngay từ bài học đầu tiên “Người bạn mới của em”. Khi
dạy học nội dung là cách tắt máy. Trong sách giáo khoa không trình bày quy
trình cũng như các thao tác để tắt máy. Chính vì vậy, giáo viên không nêu trực
tiếp cách tắt máy, làm như vậy là áp đặt cho học sinh phải nắm ngay kiến thức
mới. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học khơi dậy sự tích cực, tự giác hoạt
động của học sinh. Học sinh tự hoạt động, khám phá, tìm tòi và đưa ra cách tắt
máy an toàn. Chẳng hạn: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên nêu câu hỏi:
Khi không làm việc nữa, cần tắt máy tính. Nếu em không tắt máy tính mà
cứ để máy tính hoạt động suốt cả ngày thì có ảnh hưởng gì?
+ Yêu cầu học sinh thảo luận nhóm đôi.
+ Đại diện nhóm trả lời.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét và đưa ra kết luận.
+ Học sinh nhận xét và đưa ra kết luận: Em không tắt máy tính mà cứ để
máy tính hoạt động suốt cả ngày thì sẽ tốn điện, máy tính sẽ bị hao mòn nên
nhanh hỏng,…
Vậy em tắt máy bằng cách nào? Học sinh trả lời theo nhiều cách khác
nhau như: Rút nguồn điện, nhấn vào nút Power trên thân máy và trên màn hình,
dùng chuột để tắt máy, dùng bàn phím để tắt máy.
Đối với những câu hỏi khó, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt
động nhóm lớn để học sinh thảo luận đưa ra cách giải quyết hoặc trình chiếu
hình ảnh, đoạn phim về thao tác tắt máy … Yêu cầu học sinh quan sát, lựa chọn
cách làm hoặc phương án giải quyết. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu ý kiến hoặc
báo cáo kết quả thảo luận rồi chốt lại kiến thức, kỹ năng cho học sinh. Chẳng
hạn: Khi hỏi về cách tắt máy tính an toàn, giáo viên có thể nêu câu hỏi thảo luận
nhóm: Có nhiều cách tắt máy khác nhau, nhưng theo em cách tắt máy nào là an
toàn, không làm cho máy tính mau hỏng? Nếu em rút phích cắm điện khi máy

tính đang hoạt động thì có ảnh hưởng gì? Hay nhấn vào nút Power khi máy tính
đang hoạt động thì có ảnh hưởng gì?
Giáo viên có thể đưa ra liên hệ thực tế gợi mở để học sinh dễ dàng tìm ra
cách giải quyết. Chẳng hạn, một chiếc xe đang chạy trên đường với tốc độ cao nếu
phanh gấp dừng đột ngột thì chiếc xe đó như thế nào? Học sinh trả lời được câu hỏi
này thì sẽ trả lời được câu hỏi trước đó.
Giáo viên có thể nêu câu hỏi để kết luận: Vậy cách tắt máy nào là an toàn
nhất, ít làm hư hỏng máy tính? Học sinh tự tìm ra kiến thức mới cho mình. Giáo
viên nhận xét: Em tắt máy theo từng bước bằng cách sử dụng chuột hoặc bàn
phím là an toàn nhất, máy tính không bị hư hỏng và bền hơn. Học sinh xác nhận
lại tri thức mới.
Hay khi dạy học với nội dung thực hành, giáo viên không thể áp đặt, bắt
buộc học sinh thực hành một cách thụ động theo ý muốn của mình, mà người
giáo viên phải có phương pháp để phát huy tính tích cực, tự giác bằng các biện
pháp như khuyến khích, khen thưởng, để học sinh tích cực thực hành, chiếm lĩnh
tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo cho mình.
8


Trong mỗi tiết học giáo viên cần quan tâm đến từng đối
tượng học sinh tùy theo trình độ, giáo viên sẽ giao những nhiệm
vụ học tập vừa với sức học, tránh những yêu cầu quá dễ hoặc
quá khó cho học sinh. Dạy học theo nhóm, trình độ, kết hợp các
phương pháp dạy học phù hợp giúp cho tất cả các học sinh cùng
tiến bộ. Trong mỗi lớp học bao giờ cũng có những học sinh ở các
mức độ khác nhau như: học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và học sinh
chưa hoàn thành. Do vậy nếu giáo viên không phân loại mức độ học
sinh, không có phương pháp giảng dạy thích hợp dễ gây nhàm
chán cho học sinh hoàn thành tốt, học sinh hoàn thành và tâm lý căng
thẳng cho học sinh chưa hoàn thành từ đó dễ nảy sinh tâm lý chán

nản, lười biếng cho học sinh.
Giáo viên thường xuyên cải tiến nội dung, phương pháp và các hình thức
tổ chức dạy học phù hợp trong mỗi tiết học như:
- Phối hợp các hình thức dạy học theo lớp, theo nhóm hay hoạt động cá
nhân một cách phù hợp có hiệu quả. Tạo nhiều hình thức thi đua trong tổ, nhóm.
Ví dụ: Trong chương “Em tập gõ bàn phím” [2]
Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này đòi hỏi phải
có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao. Giáo viên cần giúp học
sinh hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó học sinh có ý
thức hơn trong việc rèn luyện.
Khi hướng dẫn học sinh thực hành luyện gõ với phần mềm Mario, thì giáo
viên phải hướng dẫn học sinh biết biểu tượng của phần mềm. Cách đặt tay lên
bàn phím, cách gõ phím như thế nào?
Học sinh quan sát giáo viên thực hành, sau đó thực hành theo nhóm dưới
sự hướng dẫn của giáo viên. Kết thúc lượt thực hành các nhóm tự nhận xét, đánh
giá để thành viên trong nhóm làm tốt hơn ở những lượt thực hành sau.
- Tổ chức các trò chơi học tập, cải tiến các bài tập trong
SGK thành trò chơi, câu đố hay giải ô chữ để thu hút sự chú ý ở
học sinh,... để các em được học mà chơi, chơi mà học giúp giờ học
đạt kết quả.

9


Học sinh lớp 3D- Trường TH Nga Bạch đang tập gõ với phần
mềm Mario
Hình 3
- Giáo viên nên tận dụng những phương tiện sẵn có của môn Tin học áp
dụng vào trong giảng dạy lý thuyết để học sinh dễ quan sát và nhận biết như sử
dụng các phần mềm, bài giảng điện tử... giúp học sinh tiếp thu bài tích cực, chủ

động hơn.

Hình 4
Như vậy: Khi tổ chức hoạt động dạy học, giáo viên không nên rập khuôn
tổ chức một hình thức mà cần thay đổi cá nhân – nhóm – cả lớp. Phương pháp
dạy học có thể sử dụng phương pháp truyền thống kết hợp hiện đại, lựa chọn nội
dung phù hợp chính là vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học tạo hứng thú và phát huy trí lực học sinh nâng cao chất
lượng và hiệu quả dạy học.
2.3.3. Thường xuyên kết hợp lý thuyết và thực hành giúp học sinh nắm
vững kiến thức và thao tác thành thạo máy tính.
10


Học sinh tiểu học là lứa tuổi mà tâm lý chưa phát triển, khả năng diễn đạt
kém, nếu học lý thuyết chung chung học sinh rất mau quên. Kiến thức Tin học là
những nội dung tương đối mới mẻ, xa lạ và có nhiều khái niệm rất trừu tượng
đối với học sinh. Hơn nữa Tin học đòi hỏi rất nhiều kỹ năng sử dụng máy tính
nhanh chóng và chính xác. Vì vậy, Phương pháp dạy học lý thuyết kết hợp với
thực hành có thể nói là mới đối với các môn học khác, nhưng đối với môn Tin
học tiểu học thì phương pháp này là không thể thiếu khi dạy bất kì một nội dung
Tin học nào. Đây là một phương pháp dạy học chủ đạo trong quá trình dạy học
Tin học ở tiểu học.
Chẳng hạn khi dạy nội dung tắt máy an toàn nếu yêu cầu học sinh trình
bày cách tắt máy an toàn bằng lý thuyết thì đây là một yêu cầu rất khó ngay cả
đối với học sinh hoàn thành tốt. Còn nếu yêu cầu học sinh lên tắt máy tính theo
cảm tính thì hầu hết học sinh làm được, ngay cả học sinh chưa hoàn thành. Do
các em không nắm được các bước thực hiện khi tắt máy.
Vì vậy dạy học lý thuyết gắn liền với thực hành trên máy tính là điều kiện
rất quan trọng để học sinh tự hình thành tri thức mới, hình thành kỹ năng, kỹ xảo

cho mình. Để chiếm lĩnh tri thức Tin học không đòi hỏi cao ở khả năng trình bày
lý thuyết mà đòi hỏi học sinh phải có kỹ năng thực hành giỏi, biết sử dụng máy
tính thành thạo.
Khi dạy nội dung tập vẽ trên máy tính thì theo phân phối chương trình của
Bộ giáo dục tất cả đều là tiết thực hành, không có tiết lý thuyết. Như vậy dạy Tin
học ở tiểu học đòi hỏi cao ở kỹ năng thực hành của học sinh, hình thành các thao
tác nhanh chóng, chính xác khi sử dụng chuột và bàn phím. Đây là cơ sở, là nền
tảng của một người mới bắt đầu học Tin học.
Nếu đủ máy tính cho mỗi học sinh một máy, thì giờ học Tin học sẽ thực
hiện ngay tại phòng máy, kết hợp song song giữa lý thuyết và thực hành, học nội
dung nào sẽ thực hành ngay nội dung đó.
Ví dụ: Dạy bài 3: “Vẽ đoạn thẳng” [2]
Giáo viên cần giới thiệu cho học sinh công cụ Đường Thẳng
dùng để
vẽ đoạn thẳng, cách sử dụng công cụ Đường Thẳng
như thế nào?
Trong một tiết thực hành dùng công cụ Đường Thẳng
để vẽ Thuyền
Buồm theo mẫu:
“Giáo viên phải hướng dẫn từng bước cho học sinh:
- Bước 1: Dùng công cụ Đường Thẳng
vẽ ba đoạn thẳng tạo thành
hình tam giác để làm cánh buồm (hình a).
- Bước 2: Vẽ một đoạn thẳng đứng làm cột buồm(hình b).

a)

b)

Hình 5a

- Bước 3: Vẽ một đoạn thẳng nằm ngang để tạo thân thuyền (hình c).
- Bước 4: Vẽ ba đoạn thẳng còn lại nối với nhau để làm thân thuyền (hình
d).”[3]
11


c)

d)

Hình 5b
Giáo viên thực hành cho học sinh quan sát. Sau đó giao bài tập thực hành
cho học sinh, hướng dẫn (theo nhóm) trực tiếp trên máy cho học sinh dễ quan
sát thao tác của cô và lời nói của cô.
Trong khi thực hành, nếu học sinh nào chưa thực hành được, giáo viên
tiếp tục hướng dẫn từng bước cho học sinh đó hoặc cầm tay để hướng dẫn các
bước thực hiện vẽ.
Hệ thống các bài tập thực hành, các bài tập phải phù hợp với nội dung của
bài giảng và liên hệ với một số môn học khác trong chương trình học của các
em. Các bài tập không quá dài, nâng dần từ mức đơn giản đến phức tạp, ngoài ra
giáo viên cũng phải kết hợp những bài đã học trước để học sinh ôn lại và vận
dụng thực hành một cách có hệ thống.
Ví dụ: Dạy bài “Vẽ đường cong”. [2]
Trong tiết thực hành với bài vẽ con cá sau:
“Giáo viên hướng dẫn cho học sinh:
Bước 1: Dùng công cụ Đường cong
để vẽ đường cong thứ nhất (hình a).
Bước 2: Dùng công cụ Đường cong
để vẽ đường cong thứ hai có
hướng cong ngược với đường cong thứ nhất (hình b).

Bước 3: Dùng công cụ Đường Thẳng
để vẽ đuôi, vây và mắt cá (hình c)
Bước 4: Sử dụng công cụ Tô màu
và chọn các màu như trên hình
mẫu để tô màu cho con cá (hình d).” [3]

Hình 6

12


Ở hình trên ngoài vẽ đường cong ra học sinh còn phải sử dụng công cụ vẽ
đoạn thẳng, màu vẽ đã học ở bài trước để vẽ và màu nền để trang trí cho các hoa
văn của hình con cá. Từ hình con cá trên các em sẽ liên tưởng đến bài học trang
trí hình những hình lá, hình quả táo, hình cái chén (Môn hoạt động giáo dục Mỹ
thuật ở lớp 3) và sáng tạo trong vẽ một số hình trang trí đã học (ở môn hoạt động
giáo dục Mỹ thuật lớp 3).
Trong giờ thực hành giáo viên nên tạo không khí thi đua học tập giữa các
nhóm bằng cách phân công các nhóm làm bài thực hành, sau đó các nhóm tự
nhận xét(dưới sự chỉ dẫn của giáo viên), để tạo được sự hứng thú học tập và
sáng tạo trong quá trình thực hành.
Giáo viên tận dụng những nguồn tài nguyên sẵn có của máy vi tính, hoặc
truy cập mạng để tìm kiếm thông tin, tìm kiếm tài nguyên trên Internet phục vụ
cho quá trình dạy và học.
Ví dụ: Phần mềm trò chơi rèn luyện về cách sử dụng chuột (Blocks);
Luyện gõ bằng 10 ngón tay (Mario); phần mềm luyện tư duy, tính toán, giải trí
(Phần mềm cùng học toán 3, Dots, Soukoban)….

Trò chơi Blocks
Hình 7

Như vậy: việc dạy học lý thuyết kết hợp thực hành giúp học sinh nắm
vững kiến thức, thao tác thành thạo với máy tính, phát huy được tính chủ động
sáng tạo của học sinh nên giờ học đạt hiệu quả cao.
* Từ các giải pháp trên, ta thấy chúng có mối liên quan mật thiết với
nhau:
Giải pháp 1: Là “tiền đề” bởi ngay từ khi học sinh bắt đầu làm quen với
máy tính, giáo viên đã phải uốn nắn tư thế đúng khi ngồi học trước máy tính.
Tạo thói quen ý thức vệ sinh học đường cho các em từ ban đầu để làm nền tảng
cho sau này.
Giải pháp 2: Là “cơ sở” bởi người học là chủ thể chiếm lĩnh tri thức, rèn
luyện kĩ năng, hình thành thái độ. Còn giáo viên đóng vai trò chủ đạo điều
13


khiển, định hướng quá trình hoạt động của học sinh. Để giúp học sinh nắm vững
kiến thức một cách nhẹ nhàng giáo viên cần xác định từ mục tiêu bài học, lựa
chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp. Do đó, việc
thay đổi các hình thức học tập ở mỗi phần sẽ giúp cho học sinh hứng thú học
tránh nhàm chán và từ đó giúp cho giáo viên phát hiện được năng lực của từng
đối tượng học sinh ở từng phần. Đồng thời giáo viên cũng rèn được cho học sinh
biết cách sử dụng các phần mềm giúp cho tiết học thực hành có hiệu quả hơn.
Giải pháp 3: Là “phương pháp dạy học chủ đạo” trong quá trình dạy học
tin học ở khối lớp 3.
Như vậy, nếu ở giải pháp 1 giáo viên uốn nắn tư thế thực hành thì giải
pháp 2 giáo viên vận dụng linh hoạt và sáng tạo, lựa chọn nội dung, phương
pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng dạng bài và đối tượng học
sinh để nâng cao chất lượng dạy học Tin học. Do đó, ở giải pháp 3 giáo viên
phối kết hợp giữa việc truyền thụ kiến thức lý thuyết với thực hành tạo cho học
sinh thói quen học tập trong quá trình lĩnh hội tri thức mới, hình thành kỹ năng,
kỹ xảo đem lại hiệu quả, nâng cao chất lượng dạy học.

Biện pháp 1

Biện pháp 2

Hiệu quả

Biện pháp 3

Hình 8
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiện đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua quá trình áp dụng các biện pháp trên vào giảng dạy môn tin học đối
với học sinh khối 3 ở trường tiểu học Nga Bạch – Nga Sơn – Thanh Hóa, bản
thân thấy rằng giờ học Tin học đã thực sự có chất lượng được thể hiện qua bảng
kết quả như sau:
Mức độ thao tác
Thao tác nhanh, đúng
Thao tác đúng
Thao tác chậm

Sau khi thực hiện chuyên đề
Số HS
Tỷ lệ
48/118
40,68%
58/118
49,15%
12/118
10,21%
14



Chưa biết thao tác

0/118

0%

Bảng 2
Từ kết quả đạt được ở bảng 2 cho thấy khi vận dụng các giải pháp trên
vào giảng dạy học Tin học lớp 3 trình bày ở trên đã thành công: Giờ học không
sôi nổi, hiệu quả, học sinh hứng thú học tập. Từ việc ngại giao tiếp với máy tính
nay các em đã tự tin ngồi trước máy tính để học và thực hành. Học sinh sử dụng
thành thạo chuột và bàn phím máy tính tăng lên rõ rệt. Tiết học diễn ra nhẹ
nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Các em không những nắm chắc kiến
thức mà còn thấy các em học tập phấn khởi hơn, tiếp thu bài nhanh hơn, có chất
lượng thực sự. Ít có trường hợp không hiểu bài, phần đông là thuộc bài và làm
được bài ngay tại lớp, giảm thiểu tối đa thời gian học ở nhà.
So sánh kết quả đạt được sau khi thực hiện chuyên đề ở bảng 2 với bảng 1:
+ Mức độ thao tác nhanh, đúng tăng 32,21%.
+ Mức độ thao tác đúng tăng: 15,25%.
+ Mức độ thao tác chậm đã giảm: 28,77%.
+ Mức độ chưa biết thao tác thực sự đã giảm rõ rệt: 18,65%.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
- Kết luận
Qua nghiên cứu, thử nghiệm và áp dụng sáng kiến, bản thân đã thu được
những thành công nhất định. Học sinh học tập với tinh thần thoải mái, hào hứng
và quan trọng hơn đây là cánh cửa đầu tiên mở ra cho các em một tầm nhìn rộng
lớn về sự phát triển của công nghệ thông tin, việc ứng dụng các phần mềm vào
trong học tập, đồng thời mở ra cho các em một hướng học tập mới bắt kịp với

thời đại đó là: thói quen tự học, học với tinh thần trách nhiệm cao, tự nghiên cứu
và tự tìm tòi tri thức, thúc đẩy các em có ý thức vươn lên trong học tập, hỗ trợ
tốt cho học sinh giải toán VIOLYMPIC qua mạng và thi IOE các cấp.
Trong quá trình nghiên cứu và ứng dụng vào công tác giảng dạy Tin học
bản thân rút ra bài học kinh nghiệm sau:
- Giáo viên có kế hoạch bồi dưỡng để nâng cao kiến thức bản thân đáp ứng
được những yêu cầu đổi mới, cập nhật thông tin một cách đầy đủ, chính xác.
- Muốn có giờ dạy đạt hiệu quả cao, bản thân mỗi giáo viên dạy Tin học
nhận thức được cần phải có kế hoạch bồi dưỡng Tin học cho bản thân bằng cách
tự tìm tòi, tham khảo các tài liệu có liên quan và có thể hỏi các đồng nghiệp của
trường bạn.
- Bên cạnh tìm hiểu kiến thức về Tin học, giáo viên cũng phải tìm hiểu
các kiến thức khác như văn hoá, kinh tế, chính trị, xã hội, tiếng anh để tự nâng
cao nhận thức của bản thân.
- Bên cạnh đó giáo viên cần bồi dưỡng, rèn luyện thêm cho các em tính
cẩn thận, chịu khó, chăm chỉ. Có như vậy các em mới có khả năng tiếp cận và
vươn xa hơn.

15


- Vận dụng triệt để đổi mới phương pháp trong dạy học phát huy tính tích
cực chủ động của học sinh. Tạo điều kiện cho học sinh tự học, tự tìm tòi, tự rút
ra cách giải giúp các em nhớ lâu kiến thức và là cơ sở sau này các em học tập
nghiên cứu kiến thức cao hơn.
- Hạn chế tối đa việc giảng giải của giáo viên. Khuyến khích, động viên,
khen thưởng kịp thời đối với học sinh.
- Kiến nghị:
Qua kinh nghiệm này, tôi hy vọng Ban giám hiệu, Phòng giáo dục ngày
càng quan tâm nhiều hơn nữa và đầu tư trang, thiết bị và đồ dùng dạy học hiện

đại, để nâng cao chất lượng giảng dạy và đào tạo cho học sinh.
Giáo viên Tin học cần hơn các môn học khác về các kỳ bồi dưỡng thường
xuyên, chuyên đề để học hỏi, trao đổi phương pháp, kinh nghiệm giảng dạy với
đồng nghiệp và các chuyên viên. Quan trọng hơn là sự trang bị thiết bị dạy học
phù hợp với ðặc trưng của chuyên môn như: máy chiếu projecter, phòng máy
đầy đủ....
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào dạy môn Tin học đối
với học sinh khối 3 ở Trường tiểu học Nga Bạch – Nga Sơn – Thanh Hóa. Tuy
nhiên còn nhiều yếu tố khách quan và chủ quan và vẫn còn nhiều mặt hạn chế.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để tôi hoàn thiện hơn
trong quá trình giảng dạy.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Nga Bạch, ngày 29 tháng 5 năm 2017
ĐƠN VỊ
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác
Người thực hiện

Phạm Thị Phương

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGV Cùng học Tin học quyển 1, quyển 2, quyển 3. Tác giả: Nguyễn
Xuân Huy, Bùi Việt Hà, Lê Quang Phan, Hoàng Trọng Thái, Bùi Văn Thanh.
NXB giáo dục.
2. SGK Cùng học Tin học quyển 1. Tác giả: Nguyễn Xuân Huy, Bùi Việt

Hà, Lê Quang Phan, Hoàng Trọng Thái, Bùi Văn Thanh. NXB giáo dục
3. Thực hành Cùng học Tin học quyển 1. Tác giả: Bùi Văn Thanh, Phạm
Thị Thanh Nam, Nguyễn Thị Nguyên Thúy, Đặng Bích Việt. NXB giáo dục.

17


18



×