Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

SKKN áp dụng mô hình trường học mới VNEN vào xây dưng trường học thân thiện, học sinh tích cực đạt hiệu quả ở trường tiểu học thanh sơn tĩnh gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.

Lí do chọn đề tài

Bác Hồ nói “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, cần có sự giáo dục
ngoài xã hội và gia đình… Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy nhưng nếu
thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả không hoàn toàn”. Quả
vậy, nhà trường – Gia đình – Xã hội đều có vai trò quan trọng trong việc hình thành
và phát triển nhân cách con người. Nhà trường là cái nôi đầu tiên cho mỗi học sinh
bắt đầu cuộc sống học tập và rèn luyện. Đến trường, học sinh được học hành,
nhưng không phải học tập thụ động mà là chủ động tiếp thu những kiến thức, tri
thức khoa học có hệ thồng, tự bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, rèn luyện
hành vi đạo đức. Sau nữa là từ kiến thức, kĩ năng cần thiết mà sáng tạo, vươn lên
hình thành và phát triển phẩm chất tốt đẹp của con người mới, đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế- văn hóa toàn cầu.
Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện là góp phần nâng cao chất lượng
dạy - học, tạo ra một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân văn. Xuất phát từ nhu
cầu thực tiễn, năm học 2008-2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chỉ thị Số
40/2008/CT-BGDĐT ngày 22/7/2008 về việc phát động phong trào thi đua “Xây
dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông giai
đoạn 2008-2013. Tiếp nữa, ngày 22/7/2008, Bộ tiếp tục ban hành Kế hoạch
307/KH-BGDĐT về triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” trong các trường phổ thông năm học 2008-2009 và giai đoạn
2008-2013. Đến nay, phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực” đã được triển khai thực hiện rộng khắp mọi miền đất nước, đồng thời
được các trường quan tâm, rút kinh nghiệm và tiếp tục triển khai có chiều sâu.
Tuy nhiên, việc tổ chức phong trào sao cho hiệu quả, phù hợp với đặc thù
của mỗi nhà trường là sự sáng tạo riêng của “Người quản lý” trong các đơn vị
trường học. Trong gần 4 năm triển khai và thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực”, sau mỗi năm học với vai trò là người


quản lý lãnh đạo điều hành nhà trường, bản thân tôi đã nghiêm túc đánh giá, rút
kinh nghiệm về những ưu điểm, hạn chế của các giải pháp. Từ đó, tìm ra những
nguyên nhân yếu kém, hạn chế và đưa ra các biện pháp chỉ đạo phù hợp, sát với
thực tế, nhằm khắc phục những bất cập cho các năm học tiếp theo.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện chiến lược
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước” thì mô hình trường học mới VNEN là một thử nghiệm đầu
tiên. Dù còn nhiều ý kiến trái chiều nhưng mô hình này đã được áp dụng ở nhiều
trường tiều học, mở ra những cách dạy học mới khác biệt với cách truyền giảng thu
động một chiều. Qua nghiên cứu tài liệu, tập huấn, tham quan học hỏi kinh nghiệm,
tôi nhận thấy việc áp dụng mô hình trường học mới VNEN để xây dựng “Trường
1


học thân thiện- Học sinh tích cực” là rất cần thiết. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài
nghiên cứu: “ Áp dụng mô hình trường học mới VNEN vào việc xây dựng
Trường học thân thiện - Học sinh tích cực ở trường Tiểu học Thanh Sơn - Tĩnh
Gia”
1.2.

Mục đích nghiên cứu

Áp dụng mô hình trường học mới VNEN để xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực trong trường học tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo
dục toàn diện cho học sinh, mang đến sự hứng thú, chủ động, tích cực trong học
tập cho các em. Phát triển những kỹ năng học tập, kỹ năng giao tiếp, ứng xử, giúp
học sinh mạnh dạn chủ động tiếp thu kiến thức, tự tin trong mọi hoạt động học
tập cũng như vui chơi, xây dựng trường lớp sạch đẹp, an toàn. Trong đó, đặc biệt
là phát huy khả năng tự tìm hiểu, khám phá, tư duy sáng tạo cho các em học sinh
để các em cảm nhận được “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Đặc biệt, giúp

các em tiếp cận dần với mô hình trường học mới.
1.3.

Đối tượng nghiên cứu.

Biện pháp chỉ đạo áp dụng mô hình trường học mới VNEN để xây dựng
Trường học thân thiện- Học sinh tích cực đạt hiệu quả ở trường Tiểu học Thanh
Sơn- Tĩnh Gia.
1.4.
-

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra
Phương pháp trắc nghiệm
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Nhận thức về “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”
Trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền kinh tế hội
nhập, đang tiến đến nền kinh tế tri thức của thế kỷ XXI, chính vì vậy đòi hỏi cần
có những con người có kỹ năng tư duy cao, tự tin phát triển năng lực của mình.
Phương pháp quản lý, phương pháp giáo dục cũ không thể xây dựng và phát triển
cho học sinh những kỹ năng đó. Chính vì thế mỗi người quản lý, mỗi giáo viên
cần đổi mới phương pháp làm việc, quản lý và dạy học theo phương pháp mới,
từng bước sử dụng hiệu quả công nghệ dạy học tiên tiến, để yêu cầu trên đạt hiệu
quả cần phải có những biện pháp tích cực trong việc xây dựng mô hình: “Trường
học thân thiện, học sinh tích cực”.
Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích

2


cực” trong các trường phổ thông giai đoạn 2008-2013 của Bộ Giáo dục và Đào tạo
phát động nhằm xây dựng trường học có chất lượng giáo dục toàn diện, hiệu quả.
Các thầy giáo, cô giáo thân thiện trong giảng dạy, thân thiện trong đánh giá xếp
loại kết quả học tập, rèn luyện của học sinh, thể hiện sự công bằng, khách quan
trong giảng dạy và giáo dục học sinh, thể hiện lương tâm, trách nhiệm của
người làm công tác giáo dục đối với thế hệ học sinh, những chủ nhân tương lai của
đất nước. Trường học thân thiện gắn bó chặt chẽ với việc phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh. Trong môi trường giáo dục toàn diện đó, học
sinh hứng thú học tập, chủ động tìm hiểu kiến thức dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, thực hiện tốt học đi đôi với hành, biết rèn luyện kỹ năng và phương pháp học
tập, đặc biệt là phát huy khả năng tự tìm hiểu, khả năng khám phá, tư duy sáng
tạo. Trong quá trình thực hiện đổi mới giáo dục, đổi mới công tác quản lý, đổi mới
phương pháp dạy học, thực hiện phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, các biện pháp đưa ra để thực hiện xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực là cơ sở để hình thành mô hình trường thân thiện, lớp
thân thiện.
Để đạt được kết quả tốt trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực”, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, cần phải
thực hiện các biện pháp giáo dục tích cực, cụ thể hóa nội dung các công việc phù
hợp với tình hình thực tế của trường, của địa phương, để xây dựng và hoàn thành
được các mục tiêu mà nhiệm vụ năm học đã đề ra.
Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực chính là sự cụ thể hóa của
yêu cầu “Dạy tốt, học tốt” mà chúng ta đã tiến hành thực hiện trước đây, nhưng
hiện nay dạy tốt không chỉ là hoạt động của cá nhân giáo viên, mà là hoạt động
của tập thể các thầy giáo, cô giáo, là sự tham gia của gia đình, xã hội vào quá trình
sư phạm, tạo môi trường thân thiện cho học sinh. Dạy tốt không chỉ có các thầy
giáo, cô giáo là người dạy, truyền đạt những kiến thức văn hóa, những hành vi đạo

đức tốt, cách ứng xử, tình đoàn kết thân ái cho học sinh, mà chính các em được
trưởng thành thông qua các hoạt động tích cực trong học tập, trong hoạt động tập
thể, vui chơi, múa hát, hoạt động xã hội. Các em không chỉ là đối tượng cần được
giáo dục, mà các em chính là những người nuôi dưỡng và duy trì bản sắc văn hóa
dân tộc. Các em được tham gia vào các hoạt động trồng và chăm sóc cây, hoa, tạo
cảnh quan cho trường, lớp học, được rèn kỹ năng sống qua các hoạt động vui chơi,
học tập và lao động, qua việc chăm sóc, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sỹ,
các gia đình có công với cách mạng, ý thức giữ gìn và bảo vệ các di tích lịch sử
của địa phương, của đất nước.
2.1.2. Nhận thức về mô hình Trường học mới (VNEN)
Trường học mới Việt Nam (viết tắt là VNEN) được các chuyên gia giáo dục
3


quốc tế từ các nước có nền giáo dục tiên tiến hỗ trợ và phát triển cho Colombia.
Mô hình này đạt được những thành công và được nhân rộng khắp châu Mỹ Latinh. UNESCO xem mô hình này có chất lượng tốt, là giải pháp giáo dục hiệu quả
và khuyến khích các nước đang phát triển vận dụng.
Theo mô hình VNEN, học sinh tự học (theo hình
thức cá nhân, nhóm) tiến tới tự trang bị cho mình kỹ
năng học tập suốt đời. Như vậy, tự học trở thành yếu tố
nổi bật nhất của mô hình VNEN. Học sinh tự tự đi từ tri
thức, kinh nghiệm của bản thân đến việc lĩnh hội kiến thức và tiến tới thực hành,
vận dụng kiến thức vào cuộc sống.
Theo phương pháp "truyền thống", giáo viên giảng giải kiến thức có sẵn cho
học sinh, hoặc nêu câu hỏi vấn đáp cho các em trả lời. Từ đó, rút ra bài học cần
thiết. Với cách dạy này, học sinh học tập một cách thụ động, bị áp đặt, vì thế
không khắc sâu được kiến thức, tư duy chưa phát triển ở mức độ nhạy bén, các kỹ
năng sống bị coi nhẹ Theo phương pháp mới của VNEN, học sinh sẽ có cơ hội giải
quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác, phối hợp với người khác.. .Như vậy, vai trò chủ
thể tích cực của học sinh được phát huy cao độ, các em không còn thụ động nghe

giáo viên giảng bài nữa. Đó là xu thế tất yếu của dạy học.
Rõ ràng, phong trào xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” và
áp dụng “Mô hình trường học mới VNEN” có chỗ gặp gỡ với nhau. Muốn áp dụng
lý luận dạy học tích cực cho học sinh thì môi trường phải thực sự nhân ái, trong
lành, phải kế thừa những kết quả đạt được từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
mô hình giáo dục hiện đại, khắc phục những lạc hậu, góp phần vào việc đổi mới
giáo dục. Giáo viên cũng vì thế mà tự tin áp dụng các phương pháp giáo dục tiên
tiến của thế giới vào việc nâng cao chất lượng dạy học. Những biện pháp giáo dục,
các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học trước đây còn có những mặt hạn chế
như chưa phát huy được tính tích cực và chưa tạo được nhiều hứng thú trong học
tập cho học sinh. Và tôi nhận thấy mô hình trường học mới đã khắc phục được
những hạn chế nêu trên.
2.2.Thực trạng việc xây dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích cực ở
trường Tiểu học Thanh Sơn.
Là trường đạt chuẩn Quốc gia mức độ 1, trường Tiểu học Thanh Sơn luôn
duy trì và củng cố các tiêu chuẩn theo qui định. Cùng với thực hiện nhiệm vụ các
năm học, phong trào thi đua xây dựngTHTT – HSTC được Bộ GD phát động, nhà
trường đã phát động đến toàn thể cán bộ, giáo viên, học sinh và hưởng ứng tích cực
thực hiện cuộc vận động.
Thực hiện phong trào thi đua xây dựng THTT – HSTC của Bộ GD&ĐT phát
động từ năm 2008 là một bước để nhà trường tiếp tục hoàn thiện xây dựng được
4


một môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của
địa phương và đáp ứng yêu cầu xã hội và học sinh, luôn phát huy tính chủ động tích
cực, sáng tạo trong học tập và trong các hoạt động xã hội góp phần vào sự phát
triển của đất nước.
Qua những năm thực hiện phong trào nhà trường đã có những chuyển biến rõ
nét, đặc biệt là cảnh quan khuôn viên trường lớp ngày càng khang trang Xanh –

Sạch – Đẹp với hệ thống cơ sở vật chất tương đối đầy đủ phục vụ cho công tác dạy
và học. Mạng lưới trường lớp được qui hoạch ổn định, CSVC hàng năm được nâng
cấp theo hướng kiên cố hoá.
Chất lượng giáo dục trong những năm gần đây từng bước được nâng cao.
Nhà trường thực hiện dạy đủ, dạy đúng các môn học theo qui định. thực hiện
nghiêm túc chương trình đổi mới phương pháp dạy học. Chú trọng giáo dục các
mặt chất lượng giáo dục đại trà và chất lượng mũi nhọn, đổi mới cách học theo
phương pháp tích cực, học sinh tự phát huy tính tích cực và sáng tạo trong học tập.
Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động bổ trợ khác, các cuộc thi, các đợt vận động
do ngành tổ chức nhằm góp phần vào việc giáo dục học sinh phát triển toàn diện.
Đội ngũ giáo viên nhà trường đã dần được ổn định về số lượng và chất
lượng.

Năm học

29

GV
đạt
chuẩn
%)
100

GV
trên
chuẩn
(%)
79,2

28


100

73,9

26

100

73,9

26

100

Số cán
bộ GV

20122013
20132014
20142015
20152016

Số SKKN được
công nhận

GV giỏi

Tỉnh


Huyện

Tỉn
h

5

1

1

1

1

1

Huyện
3

1

1

Tổng hợp chất lượng giáo dục 3 năm gần đây:
• Đánh giá theo thông tư 32
Hạnh kiểm
Năm học

2012-


TH
ĐĐ
558

Văn hoá đại trà

CĐĐ

G

K

TB

Y

Trườn
g

Huyện

0

121

264

158


15

67

26

5

HSHT
CTTH

Số học sinh giỏi
Tỉnh

106


2013
20132014

558

0

102

233

210


13

102

32

3

116

• Đánh giá theo thông tư 30
Năm học

2014-2015

Phẩm chất

Năng lực

Kiến thức, kĩ
năng

Đạt

Đạt

Hoàn thành

SL


TL

SL

TL

SL

TL

538

100

528

98,1

528

98,1

Học sinh
được
khen
thưởng
358

HSHTC
TTH


93

Bên cạnh những thành tích đã đạt được, nhà trường vẫn còn có đối mặt với
những khó khăn nhất định như:
Chất lượng đội ngũ: Trình độ chuyên môn chưa đồng đều, việc đổi mới
phương pháp dạy học của số ít giáo viên thực hiện chưa được hiệu quả, giáo
viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cấp huyện còn thấp;
Học sinh:Một bộ phận học sinh bố mẹ đi làm ăn xa các em ở nhà với ông bà,
hoặc bố mẹ mải làm ăn không có thời gian quan tâm đến các em( Khu vực Thanh
Trung). Một bộ phận học sinh điều kiện kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn ảnh
hưởng đến việc học tập của các em( Khu vực Phượng Áng)
Về cơ sở vật chất : mặc dù khuôn viên nhà trường đã được tu bổ nhưng cây
xanh vẫn còn thiếu, chưa có công trình vệ sinh đạt tiêu chuẩn dành riêng cho giáo
viên và học sinh. Cổng trường xuống cấp, khuôn viên chưa thực sự đẹp mắt, thiếu
bồn hoa cây cảnh làm điểm nhấn cho cảnh quan nhà trường.
* Nguyên nhân
Công tác quản lý chỉ đạo của Ban giám hiệu đôi lúc còn nể nang, nhiều giáo
viên chưa đổi mới phương pháp dạy học, vận dụng các phương pháp dạy học chưa
linh họat, hình thức tổ chức dạy học còn đơn điệu, chưa sáng tạo, chưa phong phú.
Thiếu cơ sở vật chất, thiếu giáo viên nên ảnh hưởng đến chất lượng chung của nhà
trường. Giáo viên chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động tập thể và hoạt
động ngoài giờ lên lớp do đó chưa thu hút được học sinh. Việc tổ chức các trò
chơi dân gian, thi hát dân ca, cho học sinh chưa thường xuyên, còn mang tính
hình thức chưa phát huy được khả năng tự tìm tòi, khám phá của học sinh. Các
em ít được giao lưu, khi tham gia các hoạt động học tập, vui chơi còn rụt rè,
thiếu tự tin, ngại giao tiếp vì vốn ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Công tác xã
hội hóa giáo dục chưa phát huy hết hiệu quả.
2.3 . Các giải pháp đã sử dụng
6



2.3.1. Làm tốt công tác tuyên truyền về phong trào thi đua xây dựng “Trường
học thân thiện – Học sinh tích cực”
Triển khai chỉ thị số 40 của Bộ GD&ĐT về phong trào thi đua xây dựng
Trường học thân thiện- Học sinh tích cực,báo cáo đến các cấp ủy Đảng, chính
quyền, triển khai đến toàn thể giáo viên và học sinh và các bậc phụ huynh.
Làm tốt công tác tuyên truyền thông qua các cuộc họp: Hội đồng sư phạm,
họp phụ huynh học sinh, họp giao ban tại địa phương, tại thôn xóm,…
Gián tiếp thông qua các chỉ thị, văn bản báo cáo về kế hoạch thực hiện xây
dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích cực của nhà trường.
Tại nhà trường chủ động triển khai từng nội dung yêu cầu đến cán bộ giáo
viên, học sinh, phụ huynh học sinh.
Tổ chức cho giáo viên trong trường đi tham quan các trường dạy học theo mô
hình trường học mới như: Tiểu học Các SơnA, Tiểu học Hải An.
2.3.2. Thành lập ban chỉ đạo xây dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích
cực của nhà trường và của lớp học thân thiện
Muốn xây dựng thành công “ Trường học thân thiện” cũng cần phải xây
dựng cho được từng lớp học thân thiện, vì “Xây dựng lớp học thân thiện” là nhân
tố để góp phần trong quá trình thực hiện phong trào “ Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” góp phần hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học. Vì vậy
tôi đã thành lập Ban chỉ đạo như sau:
Ban chỉ đạo nhà trường

Ban chỉ đạo của lớp

Hiệu trưởng: Trưởng ban

Chỉ đạo


GV chủ nhiệm: TBCĐ

P.Hiệu trưởng: Phó ban

Lớp trưởng: tổ trưởng

CT Công đoàn: Phó ban

Lớp phó: Tổ phó

Chủ tịch Hội PH: Phó ban

Hỗ trợ thực hiện

Học sinh: Thành viên.

Tổ trưởng CM: Tổ trưởng
Giáo viên: ban viên
Ban chỉ đạo được phân công phụ trách và họp đánh giá 1 kỳ/lần, được phân
công cụ thể gắn với nội dung thực hiện. Ban chỉ đạo khảo sát thực tế với những nội
dung quy định và tổ chức thực hiện theo kế hoạch cụ thể.
2.3.3. Thực hiện xây dựng trường lớp xanh – sạch – đẹp, an toàn.
2.3.3.1. Xây dựng khuôn viên nhà trường xanh- sạch- đẹp
7


Sau khi ban chỉ đạo của nhà trường khảo sát và lên kế hoạch, nhà trường đã
chủ động trọng việc phát huy nội lực của thầy và trò, tạo dựng một khuôn viên hợp
lý đảm bảo xanh – sạch – đẹp. Hàng năm trồng cây xanh bóng mát, bồn hoa cây
cảnh làm đường đi lối đi lại xuống các phòng học.

Vận động phụ huynh học sinh cùng nhà trường tạo môi trường giáo dục lành
mạnh như: ủng hộ ngày công lao động, cây cảnh, trang trí lớp học thân thiện và tu
sủa khuôn viên nhà trường, xây bể nước sạch….
Tổ chức cho học sinh vệ sinh lớp hàng ngày và vệ sinh chuyên trường 1lần/
ngày đối với lớp 3,4,5. Mỗi lớp đều có thùng chứa rác và phân loại rác thải để thu
gom và xử lý .
Phối hợp với hoạt động của Đội Thiếu niên phân công các chi đội, các sao
chăm sóc các công trình măng non trong nhà trường và có đánh giá hàng tuần của
đội Cờ đỏ, chấm điểm đánh giá cách trang trí, chăm sóc bồn hoa cây cảnh.
Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, huy động nguồn lực xây dựng nhà vệ sinh
tự hoại, đồng thời thường xuyên quan tâm chăm sóc, bảo dưỡng để đảm bảo vệ
sinh chung và đủ tiêu chuẩn vệ sinh học đường. Phụ huynh các lớp tự kiểm tra
phòng học của học sinh để có ý kiến đề xuất: Mắc hệ thống điện đủ ánh sáng và
quạt mát cho học sinh sử dụng, dần dần mua bàn ghế mới thay thế bàn ghế cũ theo
qui định thông tư của liên bộ. Vận động con em xa quê có điều kiện tài trợ xây mới
cổng trường.
Đối với nhà trường trang trí các câu khẩu hiệu mang tính giáo dục cao như:
Mỗi ngày đến trường là một ngày vui, Học tập và làm theo tấm gương Hồ Chí
Minh, Lời dạy của Bác Hồ đối với Thiếu niên Nhi đồng…
Nhà trường phải quan tâm đến công tác phòng cháy chữa cháy và có các
dụng cụ phòng cháy chữa cháy: bình xịt, xô chậu xách nước, để tại các phòng học
và thư viện.

8


Hình 1,2. Khuôn viên sân trường
2.3.3.2. Trang trí lớp học thân thiện
Môi trường giáo dục tốt sẽ là nơi học sinh phát triển nhân cách tốt. Ở trong
môi trường đó, trẻ được tiếp thu tri thức trong một bầu không khí thân thiện, gần

gũi như ở gia đình, điều đó góp phần giúp trẻ hứng thú trong học tập và đem lại
hiệu quả cao trong giáo dục. Lớp học được coi như ngôi nhà chung, ngôi nhà thứ
hai của mình và các em thấy được mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày
vui, bản thân các em thêm yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó.
Chính vì lẽ đó, việc trang trí lớp học thân thiện là một sự sáng tạo phù hợp
với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các em nhận thức về cái đẹp và có ý thức
gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp.
Các mảng trang trí lớp học chủ yếu là phục vụ cho học sinh. Làm sao để
cuốn hút học sinh luôn có các nhu cầu đọc, tham khảo, tìm hiểu các thông tin
ở các mảng này. Không khí lớp học xanh, sạch, đẹp, an toàn thân thiện là yếu
tố quan trọng góp phần thu hút trẻ đến trường, đến lớp, góp thêm cho lớp học
một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động, hăng say trong giờ học,
rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, tránh tình trạng trang trí lớp như một mô
hình, không gần gũi, thực tế với học sinh. Do đó, giáo viên cùng tất cả học sinh
trong lớp bắt tay vào trang trí lớp học phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của học
sinh. Mỗi em đều được góp công sức và nêu lên những ý tưởng sáng tạo của
mình để trang trí cho lớp học.
Các câu khẩu hiệu trang trí lớp học mang ý nghĩa quan trọng, mang tính giáo
dục cao như: “Dạy tốt, học tốt”, “ Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, ”Nội
quy học sinh”, “Năm điều Bác Hồ dạy”... Và luôn luôn nhắc nhở học sinh nên
giữ gìn tài sản chung của nhà trường từ chỗ ngồi, cửa sổ, lớp học, hành lang cho
đến sân trường với câu khẩu hiệu: “Hãy giữ gìn tài sản chung của chúng ta”.
Những lời nhắc nhở nhẹ nhàng đạt được kết quả cao như : “Cho tôi xin rác!” đặt
phía ngoài sọt rác. “ Tắt đèn, tắt quạt bạn nhé” ở gần ổ cắm điện...Sẽ giúp học
sinh có ý thức tự giác giữ gìn vệ sinh trường lớp, biết tiết kiệm điện.
Để mang lại động cơ, hứng thú khi các em được quan sát chính những sản
phẩm, thành quả do mình làm ra thì giáo viên phải cùng học sinh xây dựng “ Góc
học tập”. Góc học tập là nơi để các đồ dùng của giáo viên và học sinh tự làm để
chuẩn bị cho tiết học. Và đồng thời cũng là nơi để trưng bày các sản phẩm đẹp mà
sau tiết học các em hoàn thiện như sản phẩm môn thủ công, mĩ thuật, những bài

văn hay, bài viết chữ đẹp...Những học sinh nào có bài hay và đẹp thì được trưng
bày ở góc học tập này. Việc làm này cũng nhằm khuyến khích động viên các em sẽ
cố gắng nhiều hơn để có sản phẩm được trưng bày.
Giáo viên còn sưu tầm thêm những nội dung, kiến thức mới như những câu ca
dao tục ngữ, những bài toán hay, lịch sử địa phương... nhằm khuyến khích sự tò
9


mò, khám phá của các em. Qua đó, giáo viên có thể dễ dàng cung cấp thêm hiểu
biết cho học sinh mà không cần phải nhồi nhét, gò ép gây áp lực cho các em.
Để thuận tiện cho các em tìm kiếm thông tin, tài liệu tham khảo và phát triển óc
sáng tạo, tạo thói quen đọc sách cho học sinh thì ngay trong lớp học, phải xây
dựng một góc thư viện. Mỗi lớp sử dụng một chiếc tủ nhỏ để trưng bày sách.
Sách là một nguồn giải trí rất lớn đối với trẻ em cũng như người lớn. Do đó, trong
góc thư viện luôn có những tài liệu bổ ích, những quyển sách, quyển truyện hay, có
giá trị được mượn từ thư viện trường, của giáo viên, phụ huynh và các em đóng
góp để góc thư viện thêm phong phú . Các em tự giữ sách ở góc thư viện và trang
trí, sắp xếp cho đẹp. Việc làm này rèn cho các em kĩ năng có ý thức trách nhiệm
bảo quản tài sản chung, giữ cho sạch sẽ và gọn gàng ,ngăn nắp. Từ góc thư viện
này các em cũng tạo nên mối thân thiện đoàn kết khi các em cùng nhau đọc truyện,
trao đổi, tìm hiểu thông tin trong những giờ giải lao và còn tăng khả năng tự học,
tự tìm hiểu kiến thức của học sinh.
Ngoài ra, các em được thoải mái tâm sự với nhau qua “ Hòm thư bè bạn”, “
Điều em muốn nói”. Các em được giải trí qua các câu chuyện vui mà các bạn
trong lớp sưu tầm được bỏ vào trong “Hòm thư vui”. Các em được trưng bày sản
vật địa phương thông qua “ Góc cộng đồng”

Hình 3. Góc cộng đồng
Hình 4. Góc thư viện
2.3.4. Tổ chức dạy và học hiệu quả, phù hợp với đặc điểm học sinh ở địa phương, giúp

các em tự tin trong học tập.

Đổi mới phương pháp dạy học, dạy học lấy học sinh làm trung tâm, phát huy
tính chủ động sáng tạo cho học sinh trong học tập và rèn luyện. Đó là “Dạy và
học có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của học sinh, giúp các em tự tin
trong học tập. Thầy, cô giáo tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm
10


khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn
luyện khả năng tự học của học sinh. Học sinh được khuyến khích đề xuất sáng
kiến và cùng các thầy, cô giáo thực hiện các giải pháp để việc dạy và học có hiệu
quả ngày càng cao”.
Phương pháp dạy học theo hướng “Lấy học sinh làm trung tâm” thực sự là
phương pháp dạy học tích cực, thân thiện với học sinh. Thực hiện phương
pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên chỉ là người tổ chức và trợ
giúp hoạt động tiếp thu kiến thức của học sinh, giáo viên hướng dẫn học sinh
tìm hiểu kiến thức bài học thông qua những câu hỏi, những giải đáp, những câu
trả lời của thầy, của bạn, học sinh là nhân vật trung tâm trên lớp học. Giáo viên là
người nêu vấn đề và cùng học sinh tranh luận cho tới khi học sinh hiểu vấn đề,
học sinh có thể được giáo viên giao cho các bài tập làm chung theo nhóm, để
các em có cơ hội cùng nhau chia sẻ và phát biểu ý kiến của mình cho bài giải
của nhóm. Giáo viên cũng có thể nêu trước vấn đề và cho học sinh về nhà tự
nghiên cứu, tìm tòi để đến buổi học trên lớp ngày hôm sau học sinh thảo luận và
tranh luận với nhau trong cặp và trong nhóm. Việc tranh luận đó sẽ giúp các em
hiểu sâu hơn, nhớ nhanh hơn kiến thức của bài, vì các em được tiếp thu kiến thức
một cách chủ động, thoải mái. Vận dụng phương pháp này tạo cho học sinh ý
thức tự giác trong học tập, học sinh tự nghiên cứu, rèn cho mình thói quen tìm
tòi, suy nghĩ, tự giải quyết vấn đề, giúp học sinh hình thành thói quen chủ động,
độc lập, sáng tạo, biết chia sẻ những suy nghĩ của mình với người khác. Thầy, cô

giáo cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy sẽ khuyến khích học sinh đi
học chuyên cần, thích học, từ đó các em sẽ tích cực, chủ động, sáng tạo và luôn
có ý thức phấn đấu vươn lên trong học tập cũng như trong rèn luyện. Để giúp
giáo viên vận dụng tốt việc đổi mới phương pháp giảng dạy phù hợp đối tượng
học sinh, trong công tác xây dựng kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học,
kế hoạch chỉ đạo chuyên môn, người quản lý cần nghiên cứu đưa ra nội chuyên
môn, qua công tác kiểm tra, qua hội giảng. Thông qua các hoạt động này giáo
viên được trao đổi học tập ở đồng nghiệp rất nhiều.
Trong công tác giảng dạy, giáo dục học sinh ngoài mối quan hệ thầy-trò thì
mối quan hệ giữa các học trò với nhau cũng rất cần thiết và quan trọng.
Phương pháp dạy học theo hướng “Lấy người học làm trung tâm” nhấn mạnh
vào việc tự học, tự nghiên cứu của cá nhân các em học sinh với các hoạt động
học tập theo nhóm trong và ngoài giờ học. Trong các hoạt động này, mối quan
hệ giữa các học trò không chỉ là sự kết bạn cùng sở thích riêng, mà còn là mối
quan hệ chia sẻ kiến thức trong nhóm khi thảo luận trên lớp và các hoạt động
theo nhóm ngoài lớp học, khi cùng làm một bài tập sưu tầm hay nghiên cứu nhỏ
ngoài lớp học. Mối quan hệ giữa trò với trò sẽ thân thiện hơn, gắn bó hơn do
các em tham gia các hoạt động, không chỉ vui chơi giải trí mà còn học tập với
nhau, chia sẻ công việc và tri thức cùng với nhau.
11


Ví dụ: Trong bài giảng giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận nhóm để tìm
hiểu bài, hoặc cùng nhau tìm cách giải một bài tập Toán hay một bài tập
Tiếng Việt. Chẳng hạn dạy bài: Không khí cần cho sự cháy (Khoa học lớp 5),
giáo viên cùng học sinh làm thí nghiệm, học sinh quan sát thí nghiệm, sau đó
thảo luận trong nhóm, trao đổi với nhau, thống nhất ghi vào phiếu học tập,
trình bày ý kiến của nhóm trước lớp.( Sử dựng phương pháp bàn tay nặn bột).
Hoặc đối với môn Mĩ Thuật giáo viên đã thực hành một số buổi dạy Mĩ thuật theo
phương pháp Đan Mạch đã tạo được hứng thú cho học sinh trong học tập.

Để thực hiện tốt phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học
sinh tích cực”, việc xây dựng và lập kế hoạch hoạt động của trường, tôi luôn
chủ động về việc thực hiện mục tiêu, liệt kê rõ từng bước mình đã thực hiện thế
nào, dự đoán những thử thách có thể xảy ra, xác định rõ các mục tiêu phấn đấu,
nội dung hoạt động chuyên môn, các hoạt động đoàn thể cần cụ thể việc gì, làm
thế nào, ai chỉ đạo, ai thực hiện, thời gian hoàn thành. Phối hợp với các đoàn
thể cùng xây dựng, tìm các biện pháp thực hiện phù hợp với tình hình thực tế
của trường, vận dụng linh hoạt những biện pháp để nhằm thực hiện và đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
Với việc ứng dụng Công nghệ thông tin trong công tác quản lý, giảng dạy, kết
hợp với đổi mới phương pháp dạy học, đã giúp giáo viên tổ chức được các
hoạt động dạy và học đa dạng, phong phú tạo được hiệu quả cao trong hoạt động
học tập, rèn luyện của học sinh. Tạo điều kiện cho giáo viên tiếp xúc với công
nghệ thông tin trong soạn, giảng, quản lý học sinh, thường xuyên cập nhật được
các thông tin mới nhất, những tư liệu trực quan sinh động, đẹp mắt có tính thực tế
để áp dụng vào các bài học cho các lớp, từ đó giúp các em hiểu sâu hơn nội dung
kiến thức của bài học, kiến thức học sinh tiếp thu được không xa rời thực tiễn,
các tiết học theo cách soạn giảng PowerPoint với những hình ảnh sinh động thu
hút học sinh tích cực, chủ động tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài.
Chính vì vậy, người giáo viên phải luôn nhận thức một cách đúng đắn: phải
tự rèn luyện, hoàn thiện những kĩ năng về công nghệ thông tin, kĩ năng tư duy,
từ đó vận dụng các phương pháp dạy học sao cho linh hoạt, nhẹ nhàng, thoải
mái để kích thích sự hứng thú, say mê học tập và khả năng sáng tạo của tất cả học
sinh.

12


Hình 5,6. Một tiết học của học sinh lớp 2
Chính việc vận dụng những phương pháp dạy học tích cực đã giúp người

quản lí và giáo viên từng bước hoàn thiện những kĩ năng sư phạm, để từ đó
vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong công tác quản lý, chỉ đạo, giảng dạy và giáo
dục học sinh. Quá trình vận dụng những phương pháp dạy học tích cực này, sự
say mê học tập và những tiến bộ rõ rệt của học sinh chính là nguồn động lực
thúc đẩy chúng tôi luôn nỗ lực và phấn đấu không ngừng. Việc áp dụng giảng
dạy theo hướng chuyên môn hóa đã tạo ra rất nhiều thuận lợi, giúp cho người
giáo viên nắm bắt được khả năng nhận thức của các đối tượng học sinh. Từ đó sẽ
vận dụng những phương pháp dạy học tích cực sao cho phù hợp, từng bước
uốn nắn và tạo điều kiện để các em khắc phục những mặt còn tồn tại, đồng thời
giúp các em phát huy tối đa khả năng của bản thân.
2.3.5. Chú trọng rèn kỹ năng tự học, kỹ năng sống cho học sinh
Để thực hiện yêu cầu về kĩ năng tự học, đầu tiên giáo viên phải dạy học sinh
kĩ năng thực hiện các lệnh ở sách giáo khoa. Sách giáo khoa không chỉ cung cấp
các kiến thức có sẵn mà còn giúp học sinh đi tìm kiến thức mới thông qua các kênh
hình và kênh chữ. Đây là một nội dung cơ bản mà trong quá trình tổ chức tự học
của học sinh, giáo viên cần phải lên kế hoạch cho học sinh thực hiện. Qua đó học
sinh được rèn luyện tốt hơn kĩ năng phân tích, so sánh, thiết lập mối quan hệ nhân
quả, khái quát hóa, trừu tượng hóa các sự kiện, hiện tượng đi đến kiến thức. Hướng
dẫn các em nắm được nội dung chính, bản chất từ tài liệu đã đọc, không nhất thiết
các em phải nhớ hết thông tin trong sách giáo khoa và tài liệu tham khảo mà chỉ
nhớ kiến thức trọng tâm căn bản nhất. Khi phát hiện ra những mâu thuẫn giữa kiến
thức đã biết và chưa biết, các em sẽ “ bật” ra những câu hỏi. Nhưng để câu hỏi sát
với mục đích dạy học và đúng tiến độ giờ học, giáo viên cần phải định hướng cho
học sinh ra câu hỏi và yêu cầu các em diễn đạt nội dung chính đã học. Có như thế
13


sau khi hoàn thành câu hỏi đặt ra, học sinh tách ra nội dung chính và bản chất vấn
đề. Đó là cách các em tự lực lĩnh hội kiến thức được một phần, và thể hiện năng lực
tự học của các em.

Thực hiện nhiệm vụ chuyên môn dạy các môn học theo chương trình, nhà
trường rất chú trọng đến rèn kỹ năng sống cho học sinh dưới nhiều hình thức như:
Chuyên đề nói chuyện về kỹ năng sống, xây dựng qui tắc ứng xử, thực hiện nội qui
của nhà trường và Đội đề ra. Thông qua các hoạt động tập thể, các trò chơi, các
cuộc thi, các phong trào nghìn việc tốt,…cơ bản đã rèn học sinh có kĩ năng sống
một cách thường xuyên tương đối tốt.
Chỉ đạo Đội Thiếu niên và Đoàn Thanh niên tổ chức cho các em hoạt động
ngoài giờ lên lớp: xây dựng nền nếp các qui định của nhà trường: nề nếp tập thể
dục giữa giờ 3 buổi/tuần, múa hát tập thể sân trường 2 buổi/tuần, vệ sinh, học tập
chuyên cần.. Nhà trường chỉ đạo Liên đội thành lập đội Cờ đỏ để học sinh cùng
giáo viên theo dõi nề nếp, hoạt động vui chơi của học sinh và được đánh giá hàng
tuần cùng với sự đánh giá nhận xét của các thầy, cô giáo trong buổi giao ban để các
em có hướng sửa chữa cho tuần sau.
Tập huấn cho đội cờ đỏ, phụ trách sao để các em tổ chức sinh hoạt đến các lớp
15 phút đầu giờ với các nội dung: đọc báo Đội và làm theo gương tốt, phòng chống
tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác, các tệ nạn xã hội, kỹ
năng ứng xử, vệ sinh an toàn thực phẩm, làm việc theo nhóm, các trò chơi mang
tính giáo dục cao., xây dựng kỹ năng giao tiếp: gọi bạn – xưng tôi, qui tắc ứng xử,
hòm thư cứu bạn, xây dựng đôi bạn cùng tiến để các em giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
và học sinh có cơ hội bày tỏ ý kiến của mình , thể hiện tâm tư tình cảm giúp các
em hiểu nhau hơn và có niềm tin trong học tập, rèn luyện.
Vận động giáo viên và học sinh tham gia ủng hộ học sinh nghèo, đồng bào bão
lụt trong và ngoài tỉnh, mua tăm tre giúp đỡ người tàn tật, chất độc màu da cam,
tặng quà tết cho học sinh nghèo
Liên hệ và cùng phối hợp với phụ huynh học sinh thông qua cuộc họp phụ
huynh hoặc sổ liên lạc để cùng phụ huynh tạo điều kiện tốt cho các em học tập,
không gây áp lực và ảnh hưởng của gia đình đến học sinh, hướng dẫn cho con em
một số việc để giúp đỡ gia đình tùy theo sức, qua đó rèn cho học sinh có ý thức tự
lập và kỹ năng sống.


14


Hình 7,8. Ủng hộ học sinh nghèo ăn Tết Bính Thân
2.3.6. Tổ chức các hoạt động tập thể vui chơi lành mạnh.
Nhà trường phối hợp với Đội Thiếu niên lên kế hoạch cho học sinh tổ chức
các giờ hoạt động tập thể qui định theo chủ đề, chủ điểm hàng tuần. Thành lập các
câu lạc bộ đối với học sinh: sinh hoạt 2 lần/tuần. Đó là các câu lạc bộ Toán học,
Tiếng Việt, Thể dục thể thao, Tiếng Anh, Nghệ thuật. Mỗi câu lạc bộ được phân
công người phụ trách cụ thể.
Có lịch thường xuyên tập thể dục và múa hát tập thể sân trường và phải thực sự
như một buổi đồng diễn trước khán giả, để từ đó học sinh nhận thức được ý thức
tham gia và truyền thống của nhà trường. Tổ chức cho học sinh chơi trò chơi dân
gian theo khối lớp được tổ chức theo lịch và có giáo viên cùng tham gia. Mỗi tháng
các lớp tổ chức buổi lễ sinh nhật cho các học sinh có ngày sinh cùng trong tháng
tạo không khí đầm ấm, thân mật cho các em.
Tổ chức giao lưu các câu lạc bộ theo chủ đề các ngày kỉ niệm trong từng tháng ,
thi văn nghệ, tổ chức các trò chơi dân gian (nhảy dây, kéo co, ô ăn quan, trồng hoa
nhảy nụ,…) các nội dung trên đều phù hợp lứa tuổi học sinh nhằm giáo dục và nuôi
dưỡng văn hóa dân tộc một cách hiệu quả, giúp các em vui thích đến trường, tăng
cường sức khỏe, phát triển giao tiếp, bình đẳng giới là hoạt động rất cần thiết để
hình thành nhân cách con người Việt Nam

15


Hình 9,10. Hoạt động tổ chức sinh nhật của học sinh lớp 3.

Hình 11,12. Giao lưu câu lạc bộ
2.3.7. Tổ chức cho học sinh tìm hiểu chăm sóc và phát huy giá trị các di tích lịch

sử văn hóa, cách mạng ở địa phương.
Hàng năm nhà trường đã tổ chức giáo dục truyền thống văn hóa và tinh thần
cách mạng cho học sinh ngay từ đầu năm học để học sinh nhận thức rõ truyền
thống dân tộc như: bộ đội cụ Hồ như: Tổ chức mời cựu chiến binh nói chuyện thời
sự về anh bộ đội Cụ Hồ, các chiến dịch lịch sử nhân dịp ngày kỷ niệm 30/4, giới
thiệu về phong trào uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta, mời công an triển khai về
ATGT và phòng chống ma túy….Cho học sinh tự sưu tầm các danh lam thắng cảnh
và di tích lịch sử, những bài hát của tỉnh Thanh Hóa và quê hương Tĩnh Gia, giới
thiệu thêm cho học sinh các truyền thống văn hóa lịch sử địa phương như: danh
nhân Lương Chí, Đào Duy Từ,… và lịch sử đất nước trong thời kỳ hội nhập.

16


Đăng ký với chính quyền địa phương chăm sóc tượng đài liệt sỹ. Hàng tháng
nhà trường tổ chức cho học sinh vệ sinh, trong khuôn viên tượng đài, thăm viếng
với xã nhân dịp 27-7 hàng năm, dịp Tết Nguyên Đán.
Tổ chức cho học sinh thi kể chuyện về anh bộ đội cụ Hồ, thi giới thiệu về
danh lam thắng cảnh, đóng vai phóng viên nhỏ…
Tổ chức cho học sinh sinh hoạt tại thư viện nhà trường theo hướng dẫn của
giáo viên thư viện: tìm hiểu di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh của đất nước
và các hoạt động văn hóa văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, tài nguyên thiên nhiên,
anh hùng cách mạng qua các thời kỳ, cội nguồn dân tộc, tìm hiểu các ngày lịch sử
của dân tộc…
Tổ chức ngoại khóa cho học sinh xem video về và các di tích lịch sử do các
thầy cô sưu tầm qua mạng.
2.3.8. Công tác kiểm tra đánh giá
Xác định việc kiểm tra đánh giá có ý nghĩa rất quan trọng, yêu cầu kiểm tra
đánh giá về tiêu chuẩn lớp học thân thiện, trường học thân thiện trở thành một
trong những nội dung trong việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Các nội dung xây

dựng trường học thân thiện học sinh tích cực giúp chúng ta nắm bắt được những gì
đã làm được và chưa làm được, từ đó có biện pháp thúc đẩy hay điều chỉnh các
mục tiêu theo kế hoạch đề ra
Phải làm tốt công tác đánh giá chính xác nhất của từng lớp về thực hiện được 5
nội dung xây dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích cực, vì mỗi lớp là một
nhân tố góp phần thành công của nhà trường. Công tác tự đánh giá của lớp, kiểm
tra đánh giá của nhà trường đối với lớp học thân thiện được gắn với xếp loại lớp
hàng tháng, kiểm tra đánh giá định kỳ của nhà trường theo từng tiêu chí cụ thể bằng
văn bản và có xác nhận của các lớp và các đoàn thể. Ban chỉ đạo tổ chức thực hiện
kế hoạch kiểm tra thường xuyên theo định kỳ 2 lần/ năm và tổng kết cùng theo năm
học. Sau việc kiểm tra đánh giá phải làm tốt công tác thi đua khen thưởng hàng
năm để ghi nhận và động viên cán bộ giáo viên, học sinh một cách kịp thời.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến
Sau 3 năm thực hiện xây dựng Trường học thân thiện- Học sinh tích cực, đặc
biệt năm học 2014- 2015 và năm học 2015- 2016, tôi đã áp dụng mô hình VNEN
để xây dựng các nội dung của Trường học thân thiện - Học sinh tích cực nhà trường
đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Khuôn viên đã trường đã được thay đổi, cảnh quan
được khoác trên mình một màu áo mới. Nhờ công tác xã hội hóa giáo dục nhà
trường đã làm lại cổng trường khang trang hơn, đã có khu vệ sinh dành cho giáo
viên riêng. Sân trường đã được phủ một màu xanh. Các lớp học được trang trí thân
17


thiện, đẹp mắt, hiệu quả sử dụng cao. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp được tổ chức
thường xuyên, hiệu quả. Phương pháp và hình thức tổ chức dạy học được giáo viên
tích cực đổi mới theo hướng đa dạng hóa hình thức học tập tạo hứng thú học tập
cho học sinh. Học sinh mạnh dạn, tự tin hơn trong học tập và giao tiếp.
Kết quả xếp loại Xây dựng trường học thân thiện học sinh tích cực:
Năm học 2012- 2013
Năm học 2013- 2014

Loại Khá
Loại Tốt
Năm học 2015- 2016 : Phấn đấu đạt loại Xuất sắc.

Năm học 2014- 2015
Loại Tốt

Năm học 2014- 2015: Có 1 học sinh đạt giải khuyến khích trong Hôi thi Chúng
em kể chuyện Bác Hồ do Hội đồng Đội tổ chức.
Về giáo viên: Năm học 2015- 2016 có một giáo viên đạt giáo viên giỏi cấp Huyện
Về chất lượng học sinh: Tỉ lệ học sinh lên lớp thẳng năm học 2014- 2015: Đạt
98,1%. Kết quả kiểm tra cuối kì 1 năm học 2015-2016 như sau:
Tổng số
HS
557

Tiếng Việt
Hoàn thành
SL
%
547
98,2

Toán
Hoàn thành
SL
%
556
98


Khoa học
Hoàn thành
SL
%
217
98,6

LS & Địa lý
Hoàn thành
SL
%
218
99,1

Năm học 2014- 2015 và 2015- 2016 nhà trường phát động các lớp trang trí lớp
học thân thiện và tổ chức chấm thi đưa giữa các lớp. Kết quả chấm Trang trí lớp
học thân thiện năm học 2015- 2016 như sau:
-

Giải nhất : 5A
Giải nhì : 5D
Giải ba : 1A, 1B, 2A, 4D
Còn lại các lớp đạt giải khuyến khích.

Năm học 2015- 2016, nhà trường tổ chức sinh hoạt các câu lạc bộ và giao lưu
câu lạc bộ Toán các khối. Kết quả cụ thể:
- Giải nhất : 5D, 4D, 3A, 2A, 1B
- Giải nhì : 5A, 4B, 3C, 2B, 1C
- Giải ba: Các lớp còn lại của các khối.
Hiện nay đã chọn được một đội giao lưu của Câu lạc bộ Toán 5 gồm 6 thành

viên chuẩn bị tham gia giao lưu cấp cụm.
Hằng năm đều vận động quyên góp giúp đỡ học sinh nghèo ăn tết cụ thể: Tết Ất
Mùi vận động được só tiền là : 3000000 đồng. Tết Bính Thân đã vận động quyên
góp được số tiền là : 8100000 đồng. Số tiền này được trao cho những em gia đình
có hoàn cảnh khó khăn để phần nào giúp đỡ các em có một cái tết đầm ấm, vui vẻ.
18

N
Hoàn
SL
330


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
3.1.

Kết luận

Phong trào thi đua xây dựng Trường học thân thiện - Học sinh tích cực là
một nhiệm vụ quan trọng góp phần phát triển sự nghiệp đổi mới giáo dục . Việc áp
dụng mô hình trường học mới VNEN vào xây dựng Trường học thân thiện - Học
sinh tích cực là cụ thể hóa của yêu cầu Dạy tốt - Học tốt trong nhà trường nhằm
huy động sức mạnh tổng hợp của các lực lượng xã hội góp phần xây dựng môi
trương giáo dục an toàn, thân thiện , hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa
phương và đáp ứng nhu cầu xã hội. Đồng thời, phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của học sinh trong học tập và các hoạt động xã hội một cách phù hợp hiệu
quả từ các phương pháp mới của VNEN. Với 5 nội dung cụ thể , thực chất đây là
một phong trào thi đua nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của xã hội nhằm chăm
lo cho sự nghiệp giáo dục, tạo môi trường giáo dục, khuyến khích học tập và dạy
học có hiệu quả. Điểm khác biệt là phong trào tập trung phần nhiều vào phạm vi vĩ

mô, còn mô hình VNEN tập trung vào các phương pháp giáo dục vi mô. Trường
học thân thiện - Học sinh tích cực đặc biệt coi trọng vai trò chủ thể của học sinh,
coi trọng các mối quan hệ thân thiện giữa con người với môi trường, cộng đồng,
giữa con người với con người, đồng thời, coi trọng việc góp phần bảo tồn phát
triển văn hóa dân gian, tôn trọng và giữ gìn các di tích lịch sử văn hóa cách mạng.
Cùng với việc xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia và thực hiện có hiệu quả các
cuộc vận động, các phong trào thi đua thì phong trào thi đua xây dựng Trường học
thân thiện- Học sinh tích cực góp phần phát triển nhà trường toàn diện một cách
vững chắc. Bản thân tôi thấy tự hào khi nhà trường là địa chỉ tin cậy của các bậc
phụ huynh học sinh, là môi trường mà mỗi học sinh: “Mỗi ngày đến trường là một
ngày vui”
3.2.

Kiến nghị

Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, hoc sinh tích cực” có
ý nghĩa vô cùng quan trọng trong các trường phổ thông. Phong trào thi đua đã
thúc đẩy được phong trào học tập, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, xây
dựng được môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, cho nên:
Hàng năm tổ chức sơ kết, tổng kết phong trào thi đua “Xây dựng trường học
thân thiện, học sinh tích cực”, đề nghị các cấp có thẩm quyền khen thưởng và
nêu nhiều hơn các gương điển hình thực hiện tốt phong trào. Để từ đó nhân
rộng các điển hình tiên tiến tiêu biểu, phát huy được phong trào rộng rãi, mang
lại hiệu quả cao trong các trường phổ thông và trong cộng đồng.
Các cấp có thẩm quyền kịp thời đầu tư xây dựng cơ sở vật chất để mỗi
trường học thêm khang trang, đủ các điều kiện về cơ sở vật chất để phục vụ tốt
cho công tác giáo dục.
19



Để giờ tự học áp dụng theo mô hình VNEN thành công, nhất định sĩ số học
sinh vừa phải, tức là việc tổ chức các nhóm học phải hợp lý; giúp học sinh có cơ
hội hợp tác học tập tốt hơn, giáo viên cũng từ đó mà quan tâm sâu sát tới học sinh
tốt hơn. Nếu lớp quá đông, giáo viên không thể bao quát hết, hoặc không thể phân
bố lộ trình dạy học và kiểm tra phù hợp. Cần tập huấn sâu cho giáo viên kỹ năng
phát hiện, chia sẻ những khó khăn của học sinh, kịp thời giải quyết, điều chuyển vị
trí tránh ảnh hưởng sức khỏe của từng em. Nhiều giáo viên chưa có kinh nghiệm
đứng lớp, hoặc chưa quen với kỹ năng làm việc nhóm, cần được bồi dưỡng tập
huấn thường xuyên và định kỳ về phương pháp, kỹ năng ở các trường sư phạm.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân được rút ra trong quá trình
thực hiện áp dụng mô hình trường học mới VNEN vào xây dựng “Trường học thân
thiện - Học sinh tích cực”. Chắc chắn những kinh nghiệm vẫn còn nhiều hạn chế,
kính mong nhận được ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp để đề tài được hoàn
hiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Lương Đức Thạch

Một số hình ảnh của nhà trường sau khi áp dụng mô
hình trường học mới VNEN

20



21


22



×