Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

SKKN chỉ đạo dạy học chủ đề vật chất và năng lượng môn khoa học lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.08 KB, 23 trang )

A/ PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Khoa học là một môn học thực nghiệm và lí thuyết, đặc trưng này quyết định
bản chất của phương pháp nhận thức khoa học.
Bản chất của phương pháp nhận thức khoa học là sự kết hợp thực nghiệm
khoa học và tư duy lí luận, đề cao vai trò của sự chính xác .
Phương pháp dạy học khoa học phải tuân theo những quy luật chung của
phương pháp dạy học đồng thời phản ánh được phương pháp nhận thức khoa
học. Vì vậy phương pháp dạy học khoa học có những nét đặc trưng riêng đó là
phương pháp truyền đạt có lập luận trên cơ sở thí nghiệm – trực quan, nghĩa là
có sự kết hợp thống nhất phương pháp thực nghiệm – thực hành với tư duy khái
niệm.
Khi bắt đầu dạy khoa học phải xuất phát từ trực quan sinh động để đi đến
hình thành các khái niệm trừu tượng của khoa học, càng lên lớp cao thì càng
phải cần rèn luyện cho học sinh sử dụng khái niệm như công cụ của tư duy.
Từ những vấn đề nêu trên tôi thấy rằng việc ứng dụng các phương pháp dạy
học tích cực vào giảng dạy môn khoa học ở Tiểu học là rất cần thiết, trong đó
phương pháp thí nghiệm - thực hành được sử dụng khá nhiều.
Có thể nói đồ dùng thiết bị dạy học là yếu tố rất quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng dạy học các môn học ở Tiểu học. Việc sử dụng đồ dùng dạy học
của giáo viên trên lớp góp phần đặt nền móng cho quá trình nhận thức của học
sinh và tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học; giúp giáo
viên thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, chống "dạy chay" và giúp cho sự
nhận thức của học sinh có cơ sở khoa học và hợp lý. Sử dụng thí nghiệm để dạy
học tích cực là phương pháp đặc thù của các môn khoa học thực nghiệm trong
đó môn Khoa học là một điển hình. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học khoa
học là rất quan trọng. Hannes Alfven - một nhà Vật lý học người Thụy Điển - đã
từng nói “Khoa học mà không có thí nghiệm thì như một công trình nghiên cứu
đi chệch hướng, chỉ còn là những phỏng đoán, tưởng tượng”.
Trong chương trình Khoa học lớp 4, chủ đề “Vật chất và năng lượng” được


dạy trong 37 bài. Đây là chủ đề chiếm thời lượng nhiều nhất trong môn Khoa
học lớp 4 (chủ đề “Con người và sức khỏe: 19 bài; chủ đề “Thực vật và động
vật”: 14 bài) và cũng là chủ đề “khó” tổ chức thực hiện đối với giáo viên, bởi có
tới 50% số bài của chủ đề có yêu cầu thực hiện các thí nghiệm khoa học. Những
bài đó cần chuẩn bị công phu, lập kế hoạch chặt chẽ, chi tiết và có những bài đồ
dùng dạy học rất khó để giáo viên tự làm cũng như khó cho việc tổ chức sử dụng
và khai thác.
Qua thực tế chỉ đạo chuyên môn tại trường Tiểu học Lộc Sơn và tham gia
sinh hoạt chuyên môn cụm trường về môn Khoa học, bản thân tôi nhận thấy việc
dạy môn Khoa học nói chung và dạy các bài thuộc chủ đề “Vật chất và năng
lượng” nói riêng của giáo viên vẫn còn một số hạn chế như: đồ dùng được cấp
phát chưa đủ phục vụ cho bài dạy; giáo viên ngại sử dụng, sử dụng chưa đúng
lúc, đúng chỗ; chưa khai thác hết hiệu quả, tác dụng; chưa đầu tư thời gian, công
1


sức làm thêm các đồ dùng, thiết bị cần thiết cho tiết dạy; và đặc biệt là việc
hướng dẫn thực hiện các thí nghiệm khoa học của giáo viên rất lúng túng, sự
thành công của các thí nghiệm khoa học tiến hành trong các giờ học còn hạn
chế. Nhiều giáo viên sử dụng đồ dùng phương tiện dạy học chỉ nhằm minh họa
cho lời giảng, ... Nhiều giờ học diễn ra đơn điệu, nhàm chán với những hoạt
động quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa, thuyết trình, hỏi đáp, ghi chép trong
khi lẽ ra các em phải được tham gia vào việc thực hiện các thí nghiệm khoa học,
được tìm tòi, nghiên cứu, khám phá ra những nội dung thú vị trong bài học của
mình. Vậy: Làm thế nào để phát huy được tính chủ động, tích cực của học sinh
trong giờ học? Làm thế nào để sử dụng đồ dùng dạy học và tổ chức thực hiện
các thí nghiệm khoa học hiệu quả? Làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học
môn Khoa học nói chung và chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng theo
đúng yêu cầu đặc trưng của môn học? là những vấn đề cấp thiết đang đặt ra cho
mỗi giáo viên. Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Chỉ đạo dạy học chủ đề “Vật chất và

năng lượng” môn Khoa học lớp 4” làm nội dung nghiên cứu của mình.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Mục đích của đề tài nhằm:
- Xác định các biện pháp nhằm cải tiến phương pháp dạy học Khoa học 4 theo
hướng phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học khoa học lớp 4, tập trung
vào những bài có yêu cầu thực hành, thí nghiệm thuộc chủ đề “Vật chất và năng
lượng”.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

- Nội dung và phương pháp dạy học khoa học lớp 4, cách sử dụng đồ dùng
phương tiện dạy học khoa học lớp 4. Tập trung vào những bài thuộc chủ đề “Vật
chất và năng lượng”
- Học sinh khối 4 của trường Tiểu học Lộc Sơn – Hậu Lộc – Thanh Hóa.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này tôi sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc tài liệu, tra cứu, phân tích các tài
liệu khoa học, sách báo, hồ sơ có liên quan đến đề tài...
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra, khảo sát, phỏng vấn, trao
đổi, quan sát, tổng kết kinh nghiệm,...
- Các phương pháp bổ trợ: Toán học, thống kê,...

2


B- NỘI DUNG ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN


1. Một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học
Nhiều nghiên cứu tâm lý học đã cho thấy, học sinh Tiểu học, đặc biệt ở
các lớp đầu cấp thường tư duy dựa vào những tính chất, dấu hiệu trực quan, cụ
thể của đối tượng. Sai lầm hay gặp của các em trong quá trình hình thành khái
niệm là khái quát trên cơ sở những dấu hiệu không bản chất. Tuy vậy, cuối bậc
Tiểu học, khi khái quát hóa để hình thành khái niệm, các em dần thoát khỏi sự
chi phối mạnh của những dấu hiệu trực quan và ngày càng dựa nhiều hơn vào
những dấu hiệu phản ánh mối quan hệ bản chất giữa các sự vật và hiện tượng
được hình thành trong quá trình học tập.
Học sinh Tiểu học tìm tòi chủ yếu để “xem điều gì xảy ra” hơn là bắt đầu
từ việc xem xét các khả năng và kiểm tra sự phù hợp của chúng. Ý kiến của các
em (ví dụ khi dự đoán) thường dựa vào kinh nghiệm đã có hoặc chỉ là dựa vào
trường hợp chung đã biết để xét một trường hợp cụ thể chứ chưa phải ở mức dựa
vào một lí thuyết để suy diễn rút ra hệ quả.
Học sinh Tiểu học chủ yếu tư duy với các biểu tượng gắn với những sự
vật, hiện tượng cụ thể. Các em có thể suy nghĩ lôgíc nhưng phụ thuộc vào thông
tin có từ các giác quan. Các em khó suy nghĩ về những cái trừu tượng.
Khi quan sát, làm thí nghiệm, học sinh Tiểu học có xu hướng mô tả hơn là
giải thích kết quả tìm thấy được của mình. Trong dạy học cần lưu ý mức độ cho
phù hợp hoặc sự nâng dần, giúp các em phát triển. Chẳng hạn, cần hướng dẫn
các em quan tâm tới những mối liên hệ trừu tượng cũng như cụ thể, tìm cách lí
giải các kết quả, giải thích kết quả theo cách mà có thể vận dụng rộng rãi hơn
cho cả tình huống khác; liên hệ những điều quan sát được với những hiểu biết
khoa học, đề xuất cách giải thích dựa vào việc suy diễn từ kiến thức khoa học
đã biết.
2. Về chương trình và sách giáo khoa
Tích hợp các nội dung của các khoa học tự nhiên với khoa học về sức
khỏe. Nội dung được lựa chọn thiết thực, gần gũi và có ý nghĩa với học sinh.
Chú trọng tới hình thành và phát triển các kĩ năng trong học tập khoa học
như quan sát, dự đoán, giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên đơn giản và kĩ

năng vận dụng các kiến thức khoa học vào cuộc sống
Tăng cường tổ chức các hoạt động học tập nhằm tạo điều kiện cho học
sinh phát huy tính tích cực, tự lực tìm tòi phát hiện ra kiến thức, và thực hành
những hành vi có lợi cho sức khỏe, cá nhân và cộng đồng.
Trong sách giáo khoa Khoa học, chức năng hướng dẫn phương pháp dạy
học của sách được quan tâm. Các kết quả quan sát, thí nghiệm, kết luận không
được cung cấp sẵn. Vì vậy học sinh phải tích cực hoạt động, quan sát, làm thí
nghiệm, suy nghĩ về những thông tin nhận được; thảo luận, trao đổi để rút ra các
kết luận. Khối lượng kiến thức vừa phải, vì vậy có điều kiện tổ chức các hoạt
động tìm tòi, khám phá,...
3. Về vai trò của đồ dùng, thiết bị dạy học
3


Thiết bị đồ dùng dạy học là những phương tiện vật chất giúp cho giáo
viên và học sinh tổ chức hợp lý có hiệu quả quá trình dạy học, giáo dục đối với
các môn học trong nhà trường nhằm thực hiện chương trình dạy học. Trong quá
trình đổi mới phương pháp dạy học, thiết bị đồ dùng dạy học là một trong những
điều kiện cơ bản không thể thiếu để giáo viên, học sinh thực hiện mục tiêu dạy
học. Thiết bị đồ dùng dạy học tạo điều kiện trực tiếp cho học sinh huy động mọi
năng lực hoạt động nhận thức, tiếp cận thực tiễn, nâng cao khả năng tự học, rèn
luyện kỹ năng học tập và thực hành.
Thiết bị đồ dùng dạy học dưới sự điều khiển của người giáo viên có tác
dụng rất to lớn: Làm tăng tốc độ truyền thông tin, tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn làm
cho giờ học sinh động, hiệu quả hơn. Sự hỗ trợ đắc lực của thiết bị là cầu nối
giữa người dạy và người học, làm cho hai nhân tố này gắn kết với nhau trong
việc thực hiện mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và
làm cho chất lượng giảng dạy và học tập được nâng cao.
Việc dạy học khoa học phải sử dụng hệ thống phương pháp có kết hợp biện
chứng thí nghiệm – thực hành với tư duy lí luận, vận dụng mô hình trong quá

trình chiếm lĩnh kiến thức khoa học. Trong giảng dạy khoa học chúng ta cần
chấm dứt tình trạng dạy và học theo lối giáo điều không có thí nghiệm, không có
đồ dùng trực quan . …
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ

1. Thuận lợi
- Trường đã được công nhận trường Tiểu học đạt chuẩn Quốc gia mức độ 2 vào
tháng 6/2011 nên cơ sở vật chất khang trang, đáp ứng yêu cầu đổi mới phương
pháp dạy học - giáo dục. Đội ngũ giáo viên luôn tâm huyết, nhiệt tình trong công
tác giảng dạy.
- Lãnh đạo nhà trường rất quan tâm đến công tác đổi mới phương pháp dạy học;
làm và sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học; duy trì hội thi “Giáo viên giỏi”; “Đồ
dùng dạy học tự làm” cấp trường hàng năm.Chính vì thế mà đồ dùng dạy học
được bổ sung vào kho thiết bị nhà trường ngày càng phong phú tạo điều kiện để
giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học một cách thường xuyên.
- Bản thân là một cán bộ quản lý trực tiếp chỉ đạo công tác chuyên môn ở trường
nhiều năm, hai năm gần đây được tham gia tổ cốt cán bộ môn Khoa học của
Phòng giáo dục và Đào tạo nên việc nắm bắt tình hình đổi mới phương pháp dạy
học và sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học của giáo viên, học sinh sát sao, là điều
kiện tốt để chỉ đạo việc đổi mới phương pháp dạy học chủ đề “Vật chất và năng
lượng” thuộc môn Khoa học lớp 4 đạt hiệu quả.
- Giáo viên hiểu được tầm quan trọng của thí nghiệm khoa học: “thí nghiệm” là
một phương pháp dạy học tích cực đồng thời cũng là dạng phương tiện trực
quan có hiệu quả. Đa số giáo viên thích sử dụng “thí nghiệm” vì nó tạo nên
những hiện tượng mà học sinh ít được quan sát trong thực tế.
- Đồ dùng, thiết bị dạy học môn Khoa học được cấp phát theo danh mục tối
thiểu, một số thí nghiệm, thực hành sẵn có đồ dùng thiết bị cho giáo viên, học
sinh sử dụng khá thuận tiện.
4



2. Khó khăn
- Một số giáo viên chưa nhận thức hết tầm quan trọng của đồ dùng, thiết bị dạy
học đối với việc nâng cao chất lượng dạy học các môn học và tạo ra hứng thú
cho học sinh khi tiếp cận với nội dung bài học.
- Việc sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên thường không thường xuyên. Chủ
yếu thực hiện trong các giờ thao giảng, dự giờ,....
- Nhiều giờ học khoa học chưa đạt kết quả cao do giáo viên chưa tổ chức cho
học sinh được tìm tòi, thí nghiệm để tự chiếm lĩnh kiến thức, chưa thực hiện đổi
mới phương pháp dạy học.
- Trường chưa có phòng thí nghiệm, việc tổ chức thực hiện thí nghiệm gặp khó
khăn. Do đồ dùng thí nghiệm không có nhiều nên hay phải bố trí học sinh ngồi
theo nhóm lớn, phải di chuyển, sắp xếp bàn ghế mỗi khi tổ chức, mất khá nhiều
thời gian,... Việc tổ chức khai thác đồ dùng chưa triệt để.
- Khi có đồ dùng thí nghiệm, giáo viên phải có thời gian làm thử để rút kinh
nghiệm và để đảm bảo thí nghiệm thành công. Nhưng thường giáo viên không
có nhiều thời gian để chuẩn bị nên khi lên lớp có nhiều tình huống xảy ra khi
làm thí nghiệm làm cho giáo viên lúng túng, không chủ động khi xử lý, thậm chí
có những thí nghiệm không thành công.
- Một số học sinh còn rụt rè, lúng túng, thao tác chậm trong khi làm thí nghiệm.
3. Kết quả thực trạng
Qua việc phân tích những thuận lợi và khó khăn như trên, năm học 20142015 tôi đã tiến hành khảo sát đối với đội ngũ giáo viên và học sinh khối 4, 5
của trường về Vai trò của của đồ dùng thiết bị thí nghiệm; việc sử dụng đồ dùng
thiết bị thí nghiệm trong dạy học; sự hứng thú do các thí nghiệm khoa học mang
lại và kết quả học tập chủ đề “Vật chất và năng lượng” của học sinh và đã thu
được kết quả như sau:
- Kết quả khảo sát đội ngũ giáo viên:
Tổng
số GV


Vai trò của
ĐDDH

Quan
trọng
16

14

Việc sử dụng
ĐDDH

Không Thường Chưa
quan
xuyên thường
trọng
xuyên
2
8
8

Việc tự làm
ĐDDH

Tích
cực

Chưa
tích
cực

8

8

Hứng thú khi sử
dụng ĐDDH

Hứng
thú
10

Không
hứng
thú
6

- Kết quả học tập của học sinh sau khi học xong chủ đề “Vật chất và năng
lượng”:
Sĩ số
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
40

34

85%


6

15%

* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên: Qua phân tích thực trạng tôi thấy
việc sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế là do những nguyên
nhân chủ yếu sau:
5


- Yêu cầu về đồ dùng thí nghiệm trong môn Khoa học nhiều nhưng đồ dùng cấp
phát mới chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ. Giáo viên ngại chuẩn bị đồ dùng
vì có những bài yêu cầu phải chuẩn bị thêm đồ dùng ngoài số được cấp phát;
giáo viên không có nhiều thời gian nên việc tự làm đồ dùng phục vụ cho các thí
nghiệm khoa học còn rất ít.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho việc tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học còn
hạn chế, gây khó khăn cho giáo viên khi thực hiện.
- Việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học còn lúng túng do giáo viên chưa
biết kết hợp linh hoạt các phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Chưa tự tin
áp dụng các phương pháp, kỹ thuật dạy học hiện đại ...
- Việc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học thường mất thêm thời gian, yêu cầu
phải có sự chuẩn bị công phu của cả giáo viên và học sinh nên nhiều giáo viên
rất ngại sử dụng.
- Một số giáo viên thực hiện các thí nghiệm lúng túng do chưa nắm được quy
trình, thao tác vụng về do không thường xuyên được rèn luyện; một số lại gặp
khó khăn về kiến thức, về cơ sở suy luận để dẫn đến kết luận của bài học do kiến
thức phổ thông có liên quan đã bị mai một,...
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1.Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức cho giáo viên về tầm quan trọng của đồ

dùng, thiết bị đối với việc nâng cao chất lượng dạy học môn Khoa học nói
chung, chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng
Trong những năm gần đây cũng như các bậc học, ngành học khác, bậc
Tiểu học quan tâm nhiều đến đổi mới phương pháp dạy học. Theo quan điểm
triết học duy vật biến chứng: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ
tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của nhận thức chân
lý, nhận thức hiện thực khách quan", quan điểm này càng có giá trị với học sinh
Tiểu học. Hơn nữa theo quan điểm dạy học hiện đại: Quá trình dạy học không
chỉ nhằm mục tiêu duy nhất là giúp học sinh nhận thức một số kiến thức kỹ năng
cụ thể mà cần phát huy tính tích cực chủ động, phát triển năng lực sáng tạo của
học sinh. Vai trò của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn, còn học sinh có vai
trò chủ động sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức. Để làm tốt được điều này thì
sự hỗ trợ của đồ dùng dạy học là không thể thiếu được. Đối với học sinh tiểu
học, đồ dùng, thiết bị dạy học lại càng đặc biệt quan trọng vì nó giúp các em
quan sát sự vật, hiện tượng một cách trực quan, giúp học sinh nhận thức sâu hơn
nội dung bài học, hình thành tốt kỹ năng kỹ xảo. Thiết bị, đồ dùng dạy học là
phương tiện, là điều kiện vật chất để đổi mới phương pháp dạy học.
Thiết bị dạy học có tầm quan trọng và thiết thực như vậy nhưng không phải
cán bộ quản lý nào, giáo viên nào cũng xác định đúng mức tầm quan trọng đó
cho nên tôi đã thực hiện việc nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán bộ giáo viên
nhà trường bằng các biện pháp, đó là:
Tạo sự thống nhất trong công tác chỉ đạo bằng cách triển khai, quán triệt đầy
đủ các văn bản chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, của ngành đến các tổ chức đoàn thể
6


trong nhà trường và bản thân mỗi cán bộ giáo viên; tổ chức học tập, trao đổi,
thảo luận, in ấn gửi đến tận tay nếu thấy cần thiết.
Tổ chức cho giáo viên học tập nhiệm vụ năm học và các văn bản chỉ đạo của
ngành một cách đầy đủ, giúp giáo viên thấy được việc làm và sử dụng đồ dùng,

thiết bị dạy học thuộc vào quy chế chuyên môn nên mọi giáo viên phải tích cực
thực hiện. Bên cạnh đó tổ chức cho giáo viên học tập, trao đổi về tầm quan trọng
của đồ dùng, thiết bị dạy học đối với con đường nhận thức chân lý; đối với sự
hứng thú, tích cực, chủ động, … của học sinh để từ đó tạo ra động cơ đúng đắn,
tích cực cho giáo viên trong việc sử dụng đồ dùng, thiết bị đề nâng cao hiệu quả
của bài dạy.
Tích cực tuyên truyền, giải thích để giáo viên thấy việc sử dụng đồ dùng,
thiết bị dạy học có ảnh hưởng không những đến việc lên lớp của giáo viên mà
còn cả sự phát triển về chuyên môn nghiệp vụ của mỗi người. Bởi vì kỹ năng sử
dụng, khai thác đồ dùng dạy học là một mặt biểu hiện về kiến thức, kỹ năng sư
phạm của giáo viên; cách chuẩn bị, sắp xếp đồ dùng, thiết bị là biểu hiện về nề
nếp, tác phong làm việc khoa học và ý thức học tập trau dồi chuyên môn của
mỗi người,…
Sau một số tiết dạy thao giảng, chuyên đề có thể tổ chức cho giáo viên trao
đổi, phân tích sâu để thấy được tác dụng cụ thể của đồ dùng, thiết bị dạy học đến
việc nhận thức của học sinh; sự hợp tác của học sinh – học sinh, học sinh – giáo
viên khi khai thác, sử dụng đồ dùng thiết bị; sự sinh động, hấp dẫn, tường minh
do đồ dùng, thiết bị mang lại cho bài dạy,…Để từ đó, giáo viên có ý thức quan
tâm thoả đáng cho việc làm, chuẩn bị và sử dụng đồ dùng thiết bị hàng ngày của
bản thân.
2.Biện pháp 2: Bổ sung cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để tạo thuận lợi
cho giáo viên tổ chức thực hiện các thí nghiệm khoa học hiệu quả khi dạy
học chủ đề “Vật chất và năng lượng”
Nhà trường chưa có “phòng thí nghiệm” riêng nhưng thuận lợi là trường còn
dư 01 phòng học. Vì vậy tôi đã đề xuất với Hiệu trưởng lấy phòng dư thừa này
sắp xếp lại để làm phòng cho giáo viên và học sinh tổ chức thực hiện các thí
nghiệm khoa học. Căn cứ vào tình hình thực tế về thiết bị và sĩ số học sinh, năng
lực của giáo viên, chúng tôi đã sắp xếp, bố trí kê bàn ghế trong “Phòng thí
nghiệm” theo hình chữ U như sau:
Bàn biểu diễn

TN

Nhóm 4

Nhóm 1
Nhóm 2

Nhóm 3

Tủ, giá để thiết bị TN

7


Ghi chú: “Bàn biểu diễn thí nghiệm” trong hình trên thường sử dụng khi học sinh báo cáo
kết quả sau khi đã thực hiện thí nghiệm theo nhóm (hoặc GV biểu diễn lại các thí nghiệm khi
cần thiết phải tường minh về một vấn đề).

Bàn ghế dùng trong phòng thí nghiệm ưu tiên cho loại bàn ghế đúng quy
chuẩn đối với học sinh lớp 4, 5 để thuận lợi cho việc di chuyển khi học tập theo
nhóm. Vị trí để thiết bị đảm bảo đủ chỗ, an toàn và dễ sử dụng. Với việc sắp xếp
phòng cho giáo viên, học sinh làm thí nghiệm như trên đã góp phần giải quyết
khó khăn về cơ sở vật chất, tạo ra những thuận lợi cho giáo viên khi hướng dẫn,
tổ chức cho học sinh thực hiện các thí nghiệm khoa học.
Để tạo sự sẵn sàng cho việc sử dụng đồ dùng thiết bị thí nghiệm, tất cả các
đồ dùng được cấp phát, mỗi khi nhận về tôi đều cho bổ sung vào danh mục đồ
dùng dạy học của khối lớp, bóc dỡ nhãn mác và lắp đặt để trên giá. Yêu cầu cán
bộ phụ trách thiết bị thường xuyên lau chùi, kiểm tra và xử lý những chi tiết hư
hỏng. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, yêu cầu giáo viên nêu rõ tên đồ
dùng dạy học cho môn Khoa học, cách sử dụng, các đồ dùng cần bổ sung thêm...

để giáo viên nắm vững được nội dung dạy học cần sử dụng đồ dùng, thiết bị hỗ
trợ và có kế hoạch sử dụng hợp lý.
Để làm phong phú thêm nguồn đồ dùng, thiết bị thí nghiệm tôi đã phát động
phong trào tự làm đồ dùng dạy học trong giáo viên và học sinh. Để việc bổ sung
đồ dùng, thiết bị hiệu quả và thiết thực, tôi đã lên một bản thống kê bao gồm các
mục: Tên bài học, đồ dùng đã có, đồ dùng cần làm thêm, phát cho từng giáo
viên trực tiếp giảng dạy để nghiên cứu và sử dụng trong quá trình dạy học của
mình. Với cách làm trên chúng tôi đã bổ sung được một lượng đáng kể thiết bị
đồ dùng phục vụ cho các thí nghiệm khoa học.
3.Biện pháp 3: Giới thiệu một số phương pháp dạy học đặc trưng trong dạy
học chủ đề “Vật chất và năng lượng” và chỉ đạo giáo viên vận dụng linh
hoạt
Để chuẩn bị cho dạy học bộ môn Khoa học nói chung và chủ đề “Vật chất và
năng lượng” môn Khoa học lớp 4 nói riêng, tôi đã tổ chức cho khối lớp 4,5 sinh
hoạt chuyên môn nhằm trao đổi, thảo luận về các phương pháp dạy học đặc
trưng có tác dụng phát huy được tính tích cực, gây hứng thú cho học sinh như:
Phương pháp quan sát, phương pháp thí nghiệm, phương pháp Trò chơi học tập,
phương pháp Dạy và học hợp tác trong nhóm nhỏ; phương pháp “Bàn tay nặn
bột” (đây là phương pháp mới được ngành tổ chức chuyên đề giới thiệu đến
đông đảo cán bộ quản lý và giáo viên vào đầu năm học 2013-2014, yêu cầu vận
dụng trong dạy học Khoa học và Tự nhiên – Xã hội) và một số kỹ thuật dạy học
tích cực.,… Ở từng phương pháp tôi đã giúp giáo viên nắm bắt được một số dấu
hiệu đặc trưng, tác dụng của phương pháp, các bước sử dụng trong dạy học,v.v.
Ví dụ:
a. Phương pháp thí nghiệm
- Một số dấu hiệu đặc trưng
+ Học sinh phải chọn ra một số yếu tố riêng biệt có thể khống chế được để
nghiên cứu hoặc phải tác động lên hiện tượng, sự vật cần nghiên cứu.
8



+ Học sinh cần phải theo dõi, quan sát các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm.
+ Học sinh cần biết thiết lập các mối quan hệ: nguyên nhân- kết quả, giải thích
các kết quả thí nghiệm để rút ra kết luận
+ Các điều kiện và quá trình được kiểm soát là thiết yếu đối với một số thí
nghiệm khoa học.
+ Bằng cách thử nghiệm các kết quả khác nhau, hành động khác nhau trong
phương pháp học tập khám phá (không yêu cầu kiểm soát chặt chẽ các điều kiện
và quá trình như phương pháp thí nghiệm), cũng giúp học sinh đạt được hiểu
biết trực tiếp mà đôi khi rất sâu sắc về quá trình cũng như kỹ năng thí nghiệm.
- Tác dụng:
+ Giúp học sinh đi sâu vào tìm hiểu bản chất các sự vật hiện tượng, sự vật tự
nhiên.
+ Thí nghiệm được sử dụng như “nguồn” dẫn học sinh đi tìm tri thức mới, vì thế
các em sẽ hiểu sâu, nhớ lâu.
+ Rèn luyện cho học sinh một số kỹ năng: đặt thí nghiệm, lắp ráp các dụng cụ
thí nghiệm, quan sát, ghi chép các diễn biến của thí nghiệm,…
- Yêu cầu sư phạm khi thực hiện thí nghiệm:
+ Vừa sức: nội dung thí nghiệm phù hợp yêu cầu chương trình và khả năng tiếp
thu của học sinh
+ Rõ ràng: Thiết bị thể hiện rõ những chi tiết chủ yếu, thể hiện tính trực quan
+ An toàn: Mọi trang thiết bị đảm bảo an toàn cho giáo viên, học sinh
+ Gây hứng thú và thuyết phục: Học sinh thấy rõ mục đích thí nghiệm, thí
nghiệm phải đảm bảo thành công. Những suy lí để dẫn tới kết luận phải chặt chẽ
lô gíc.
- Các bước hướng dẫn làm thí nghiệm:
Bước 1: Xác định mục đích thí nghiệm
Bước 2: Vạch kế hoạch thí nghiệm
Bước 3: Tiến hành thí nghiệm
Bước 4: Phân tích kết quả và kết luận.

b. Phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Đối với phương pháp “Bàn tay nặn bột” tôi đã giúp giáo viên hiểu được khái
niệm, lịch sử phát triển và đặc biệt là tiến trình dạy học theo phương pháp này.
Phương pháp dạy học “Bàn tay nặn bột” (BTNB) là phương pháp dạy học
khoa học dựa trên cơ sở của sự tìm tòi – nghiên cứu, áp dụng cho việc dạy học
các môn khoa học tự nhiên.
Tiến trình dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề.
- Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào
bài học. Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học.
- Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích
thích tính tò mò của học sinh.
- Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng.
Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh.
9


- Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của
mình về sự vật, hiện tượng mới.
- Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, ….
- Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú
trọng đến các quan niệm sai.
Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm
- Đề xuất câu hỏi
+ Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, giáo viên giúp học
sinh đề xuất câu hỏi.
+ Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong
lớp từ đó học sinh đặt câu hỏi liên quan đến bài học để giúp học sinh so sánh.
- Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu
+ Từ những câu hỏi của học sinh, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các

em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó.
+ Giáo viên ghi chú lên bảng các đề xuất của học sinh để các ý kiến sau không
trùng lặp.
+ Khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến của nhau hơn là ý kiến của giáo
viên nhận xét.
Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu
- Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật.
- Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, giáo viên giúp học
sinh đề xuất câu hỏi.
- Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp
từ đó học sinh đặt câu hỏi liên quan đến bài học để giúp học sinh so sánh.
Bước 5: Kết luận kiến thức mới
Như vậy, qua việc tìm hiểu về phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học
các môn Tự nhiên và Xã hội và Khoa học, tôi nhận thấy đây là một phương pháp
có thể phát huy tối đa khả năng tự học và sáng tạo của học sinh, giúp các em tự
phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên
cứu tài liệu hay điều tra. Nhờ đó học sinh hình thành khả năng suy luận theo
phương pháp nghiên cứu từ nhỏ, góp phần hình thành tác phong và phương pháp
làm việc của một nhà khoa học khi các em trưởng thành. Tuy nhiên để sử dụng
phương pháp này trong dạy học Khoa học một cách hiệu quả người giáo viên
cần có sự chuẩn bị kỹ càng cho bài dạy, nghiên cứu các tình huống có thể xảy ra
và dự kiến phương án giải quyết để việc vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn
bột” vào dạy học khoa học đạt hiệu quả cao.v.v.
4.Biện pháp 4: Tìm hiểu, thống kê các bài học có yêu cầu thực hành, thí
nghiệm; thống kê đồ dùng thiết bị cần chuẩn bị cho bài dạy và triển khai đến
từng tổ, khối, từng giáo viên.
Nghiên cứu kỹ nội dung chương trình môn Khoa học lớp 4 và các văn bản
chỉ đạo chuyên môn hiện hành như: chuẩn Kiến thức kỹ năng môn Khoa học lớp
4; Tài liệu hướng dẫn điều chỉnh nội dung chương trình của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, danh mục đồ dùng, thiết bị tối thiểu các môn học ở Tiểu học, tình trạng kho

10


thiết bị của trường,... Làm bản thống kê chi tiết các bài dạy có yêu cầu thực hiện
các thí nghiệm khoa học và các thiết bị tương ứng. Thống kê các đồ dùng theo
quy định cần phải chuẩn bị và gửi kết quả thống kê đến tổ, khối và từng giáo
viên đang trực tiếp giảng dạy của khối 4 để tiện trong việc chuẩn bị và sử dụng
đồ dùng, thiết bị hằng ngày. Chủ đề “Vật chất và năng lượng” có 17 bài có yêu
cầu về thực hành thí nghiệm, tôi thống kê đầy đủ cả 17 bài để gửi đến từng giáo
viên. Nội dung thống kê cụ thể (Xem phụ lục)
5.Biện pháp 5: Tổ chức chuyên đề Đổi mới phương pháp dạy học môn Khoa
học lớp 4, tập trung vào dạng bài có yêu cầu về thực hành, thí nghiệm
Ngay từ đầu năm học tôi yêu cầu các tổ lấy ý kiến đề xuất của giáo viên về
cách xây dựng kế hoạch bài học theo hướng đổi mới, khuyến khích giáo viên đề
xuất các bài, các chủ đề khó dạy để từ đó tôi có kế hoạch cụ thể cho việc tổ chức
chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học tại trường, bao gồm các công việc sau:
- Tổ chức cho giáo viên trao đổi về một kiểu giáo án mẫu (kế hoạch bài học)
theo tinh thần đổi mới.
- Chỉ đạo giáo viên vận dụng linh hoạt việc đánh giá tiết dạy theo hướng đổi mới
phương pháp dạy học.
- Chọn đối tượng thực nghiệm: lựa chọn bài dạy (thường là theo đề xuất của các
tổ chuyên môn hoặc giáo viên), lớp dạy, người dạy.
- Tổ chức cho đối tượng thực nghiệm chuẩn bị tiết dạy: Chỉ đạo một giáo viên
có năng lực chuyên môn vững vàng (đặc biệt là có kiến thức phổ thông về môn
Vật lý tương đối vững), xây dựng kế hoạch bài học theo hướng đổi mới. Tổ chức
cho giáo viên góp ý, bổ sung kế hoạch bài học trước khi dạy. Chuẩn bị các đồ
dùng, thiết bị cần thiết phục vụ cho tiết dạy; thực hiện thử các thí nghiệm và tự
phân tích rút kinh nghiệm trước khi tiến hành dạy thật. Đảm bảo khi hướng dẫn
học sinh làm thí nghiệm, giáo viên xử lý được các tình huống để thí nghiệm
khoa học thành công 100%.

- Tổ chức dự giờ, thảo luận, rút kinh nghiệm về tiết dạy.
Tổ chức rút kinh nghiệm riêng và chung cho các tiết thực nghiệm, trọng tâm
phân tích kỹ vào việc tổ chức thực hiện thí nghiệm trên lớp của giáo viên. Sau
đó đưa ra kết luận là những điểm thống nhất cơ bản khi dạy một dạng bài, một
kiểu bài ở một khối lớp nhất định để trên cơ sở đó giáo viên có thể vận dụng
thuận lợi và linh hoạt, sáng tạo trong lớp dạy của mình.
Ví dụ: Trên cơ sở đề xuất của giáo viên khối 4, tôi đã chọn bài Bài 37: “Tại sao
có gió?” để tổ chức dạy thực nghiệm. Tôi tổ chức dạy thực nghiệm ở lớp 4A.
Tôi xin trình bày lại Kế hoạch bài học chi tiết của tiết dạy thực nghiệm tại
lớp 4A:
Ghi chú: Trong kế hoạch bài học các kí hiệu viết tắt: GV: giáo viên; HS: học sinh; HĐ: hoạt
động

KHOA HỌC 4- BÀI 37: TẠI SAO CÓ GIÓ?
I. MỤC TIÊU: Sau bài học, học sinh biết:
- Làm thí nghiệm chứng minh không khí chuyển động tạo thành gió.
- Giải thích tại sao có gió?
11


- Giải thích tại sao ban ngày gió biển thổi vào đất liền, ban đêm gió từ đất liền
thổi ra biển.
II. ĐỒ DÙNG DẠY HỌC:
- Chong chóng (HĐ1)- Đồ dùng thí nghiệm đủ cho 3 nhóm và 1 bộ cho GV bao
gồm: Hộp đối lưu, nến, bật lửa, vài mẩu hương (HĐ2).
- Tranh hình 6, hình 7 (SGK) (HĐ3).
- Máy chiếu (HĐ3).
III. CÁC HOẠT ĐÔNG DẠY HỌC CHỦ YẾU.
1. Kiểm tra bài cũ:
- GV yêu cầu học sinh nêu những ví dụ chứng tỏ không khí cần cho sự sống của

người, động vật, thực vật.
- GV, HS nhận xét.
2. Dạy học bài mới:
* Giới thiệu bài: GV nêu câu hỏi: Nhờ đâu mà lá cây lay động? Diều bay lên
cao? Và dẫn dắt nêu vấn đề và giới thiệu bài, ghi đầu bài.
* Hướng dẫn học sinh học bài:
GV chia lớp ngồi thành 3 nhóm ( Mỗi tổ một nhóm).
Hoạt động 1: Trò chơi chong chóng.
- GV chọn HS tham gia chơi: 6 em (mỗi nhóm 2 em).
- GV hướng dẫn cách chơi.
- Yêu cầu HS quan sát các bạn chơi và suy nghĩ các câu hỏi sau:
+ Theo em khi nào chong chóng quay?
+ Khi nào chong chóng không quay?
+ Khi nào chong chóng quay nhanh? Quay chậm?
+ Làm thế nào để chong chóng quay khi trời không có gió?
- Học sinh nhận xét về trạng thái của chong chóng khi chưa di chuyển.
- Học sinh chơi trò chơi: Đi, chạy nhanh theo hiệu lệnh của GV.
GV tổ chức cho HS chơi 2 lượt.
- HS thảo luận nhóm để thống nhất phương án trả lời các câu hỏi.
- Đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo luận, các nhóm còn lại nhận xét, bổ sung,
nhắc lại…
-H? Qua trò chơi này các em đã biết chong chóng không quay khi không có gió.
Trước khi thực hiện trò chơi các em đều xác nhận trong lớp học không có gió,
chong chóng không quay. Vậy theo các em trong trò chơi vừa rồi thì gió từ đâu
ra? (HS trả lời). Trên cơ sở trả lời của học sinh, GV giúp HS nêu kết luận:
* Kết luận: Khi ta chạy, không khí xung quanh ta chuyển động; không khí
chuyển động tạo ra gió. Gió thổi làm chong chóng quay. Gió thổi mạnh làm
chong chóng quay nhanh, gió thổi yếu làm chong chóng quay chậm. Không có
gió tác động thì chong chóng không quay.
Hoạt động 2: Tìm hiểu nguyên nhân gây ra gió.

GV hướng dẫn học sinh thực hành thí nghiệm theo nhóm:
- Yêu cầu học sinh quan sát hình 4 (SGK) và nêu các dụng cụ cần cho thí
nghiệm.
12


- Đại diện nhóm nhận đồ dùng thí nghiệm.
- Các nhóm kiểm tra đồ dùng đã chuẩn bị và so với yêu cầu xem đã đủ chưa.
- HS đọc phần hướng dẫn thí nghiệm trong SGK.
- GV yêu cầu HS thực hành thí nghiệm, quan sát hiện tượng và trả lời 3 câu hỏi
trong SGK:
+ Phần nào của hộp có không khí nóng? Tại sao?
+ Phần nào của hộp có không khí lạnh?
+ Quan sát hướng của khói. Khói bay ra qua ống nào?
- GV lưu ý HS khi thực hành thí nghiệm chú ý đảm bảo an toàn.
- HS thực hành thí nghiệm, GV hướng dẫn giúp đỡ.
- Yêu cầu đại diện nhóm báo cáo việc thực hiện của nhóm. Các nhóm khác
nghe, quan sát, nhận xét và nêu lại kết quả.
*Giúp HS khắc sâu kết quả : (Chỉ
hình vẽ bên và nêu):Trong thí nghiệm
này, không khí ở ống A có ngọn nến
đang cháy thì nóng lên, nhẹ đi và bay
lên cao. Không khí ở ống B không có
nến cháy thì lạnh, nặng hơn và đi
xuống.

- Yêu cầu các nhóm giải thích tại sao khói lại bay ra qua ống A?
-HS đọc mục “Bóng đèn toả sáng” trang 75 SGK.
- HS giải thích tại sao có gió?
* Kết luận: Không khí chuyển động từ nơi lạnh đến nơi nóng. Sự chênh lệch

nhiệt độ của không khí là nguyên nhân gây ra sự chuyển động của không khí.
Không khí chuyển động tạo thành gió.
Hoạt động 3: Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự chuyển động của không khí
trong tự nhiên.
- Yêu cầu HS quan sát hình 6, hình 7 trang 75 SGK và nêu nội dung từng hình.
- Yêu cầu HS đọc thầm mục “Bóng đèn tỏa sáng trang” 75 SGK kết hợp những
kiến thức thu được qua hoạt động 2 để giải thích câu hỏi: Tại sao ban ngày gió
thổi từ biển vào đất liền và ban đêm gió thổi từ đất liền ra biển?
- HS thảo luận nhóm đôi, trả lời câu hỏi.
- Đại diện nhóm báo cáo kết quả thảo luận.
* Kết luận: Sự chênh lệch nhiệt độ vào ban ngày và ban đêm giữa biển và đất
liền đã làm cho chiều gió thay đổi giữa ngày và đêm.
- GV giới thiệu về các loại gió trong tự nhiên.
3. Củng cố nội dung bài học:
- HS nêu nguyên nhân tạo ra gió?
13


- GV giới thiệu một số ví dụ về sự tạo ra gió, ứng dụng của gió trong đời sống
con người.
Sau khi tổ chức cho giáo viên dạy và dự giờ, tôi tiếp tục tổ chức cho giáo
viên thảo luận rút kinh nghiệm về giờ dạy. Khi thảo luận tôi đã hướng giáo viên
thảo luận sâu vào Hoạt động 2: Thí nghiệm để tìm hiểu nguyên nhân gây ra gió.
Trên cơ sở ý kiến thảo luận của giáo viên, tôi đã đi đến kết luận của chuyên
đề như sau:
Thứ nhất, yêu cầu sư phạm khi thực hiện thí nghiệm: Vừa sức, rõ ràng, an
toàn, gây hứng thú và thuyết phục.
Thứ hai, củng cố về các bước hướng dẫn làm thí nghiệm: 4 bước (như đã
trình bày ở biện pháp 3)
Thứ ba, lưu ý giáo viên một số vấn đề khi sử dụng phương pháp Thí

nghiệm, đó là:
- Các mức độ vận dụng phương pháp thí nghiệm: Tùy từng thí nghiệm và trình
độ học sinh, giáo viên có thể yêu cầu học sinh học theo phương pháp thí nghiệm
ở các mức độ khác nhau:
Mức 1: Một số thí nghiệm chưa yêu cầu học sinh làm trực tiếp mà chỉ yêu cầu
các em quan sát hình vẽ hoặc đọc phần mô tả trong sách giáo khoa, sau đó học
sinh thảo luận đưa ra dự đoán kết quả thí nghiệm và giải thích, kết luận.
Mức 2: Giáo viên làm mẫu, hướng dẫn học sinh làm theo.
Mức 3: Giáo viên giao nhiệm vụ, giúp đỡ học sinh từng bước tiến hành thí
nghiệm thông qua phiếu học tập hoặc chỉ dẫn bằng lời.
Mức 4: Giáo viên giao nhiệm vụ, học sinh tự làm. Giáo viên theo dõi và đưa ra
chỉ dẫn nếu thấy cần thiết.
- Yêu cầu về việc thực hiện các thí nghiệm trong môn Khoa học nói riêng và các
môn học khác nói chung:
+ Tăng cường tổ chức cho học sinh tiếp cận với các thí nghiệm khoa học theo
các mức độ khác nhau tùy vào điều kiện trang thiết bị của nhà trường và khả
năng tiếp thu của HS nhưng hạn chế việc mô tả thí nghiệm suông.
+ Khuyến khích giáo viên làm và thiết kế các dụng cụ thí nghiệm theo hướng:
phù hợp yêu cầu bài học, khả năng của giáo viên-học sinh, an toàn, tiết kiệm và
thành công.
+ Những bài yêu cầu thí nghiệm mà trang thiết bị đã được cấp phát thì yêu cầu
GV phải sử dụng triệt để. Nếu không sử dụng thì coi như vi phạm quy chế
chuyên môn.
+ Để đảm bảo thí nghiệm thành công yêu cầu giáo viên phải thực hiện và rút
kinh nghiệm trước khi thực hiện trên lớp, có kế hoạch bổ sung các đồ dùng thiết
bị cần thiết để đảm bảo cho thí nghiệm thành công.
6.Biện pháp 6: Chỉ đạo vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho các bài
thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”, môn Khoa học 4
Sau khi được tiếp thu chuyên đề vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
trong dạy học Tự nhiên- Xã hội và Khoa học”, tôi xác định đây là phương pháp

14


dạy đặc trưng và rất có hiệu quả đối với môn Khoa học và nó đặc biệt thích hợp
với các bài có yêu cầu thực hành và thí nghiệm.
Chính vì thế tôi đã tiến hành triển khai phương pháp dạy học này đến đội
ngũ giáo viên của trường. Sau khi giới thiệu phương pháp “Bàn tay nặn bột”, để
việc áp dụng phương pháp có hiệu quả tôi đã:
- Giới thiệu đến giáo viên cuốn tài liệu “Phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy
học môn Tự nhiên- Xã hội và Khoa học ở trường Tiểu học” của nhóm tác giả
Phạm Ngọc Định- Nguyễn Ngọc Yến- Lương Việt Thái; xuất bản năm 2012.
- Tổ chức cho giáo viên thảo luận để hiểu được tiến trình 5 bước khi tiến hành
dạy học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong đó bước 1 “Tình huống
xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề”, bước 2 “Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của
học sinh” và bước 3 “Đề xuất câu hỏi (dự đoán/ giả thuyết) và phương án tìm
tòi” tôi đề nghị giáo viên đặc biệt quan tâm.
- Yêu cầu giáo viên tìm hiểu và thống kê các bài có thể áp dụng phương pháp
“Bàn tay nặn bột” thuộc chủ đề “Vật chất và năng lượng”, môn Khoa học lớp 4
mà tài liệu đã giới thiệu.
Cụ thể các bài đó là:
+ Bài 21: Ba thể của nước
Nội dung bài học áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột: Các thể của nước, tính
chất của nước khi tồn tại ở 3 thể khác nhau và sự chuyển thể của nước.
+ Bài 22: Mây được hình thành như thế nào? Mưa từ đâu ra?
Nội dung áp dụng: Sự hình thành của mây, mưa.
+ Bài 31: Không khí có những tính chất gì?
Nội dung áp dụng: Tìm hiểu các tính chất của không khí
+ Bài 32: Không khí gồm những thành phần nào?
Nội dung áp dụng: Tìm hiểu về các thành phần của không khí như: khí ô-xy,
khí ni – tơ, khí các-bô-níc,…

+ Bài 42: Sự lan truyền âm thanh. Nội dung áp dụng: Tìm hiểu sự lan truyền âm
thanh trong không khí, qua chất lỏng, qua chất rắn,…
+ Bài 45: Ánh sáng
Nội dung áp dụng: Tìm hiểu về đường truyền của ánh sáng, về sự truyền
ánh sáng qua các vật, về vấn đề mắt nhìn thấy vật khi nào.
+ Bài 46: Bóng tối. Nội dung áp dụng: Sự xuất hiện của bóng tối; vị trí, hình
dạng của bóng tối; sự thay đổi về hình dạng, kích thước của bóng.
- Yêu cầu giáo viên lựa chọn địa chỉ và lập kế hoạch dạy học theo phương pháp
“Bàn tay nặn bột” một hoạt động hoặc một bài mà bản thân hứng thú nhất.
- Tổ chức cho giáo viên trao đổi, góp ý để hoàn chỉnh kế hoạch trước khi thực
hiện trên lớp.
- Tổ chức dạy thực nghiệm và rút kinh nghiệm tại tổ, khối, tại trường và phát
triển ra cụm chuyên môn.
Tôi đã tổ chức dạy thực nghiệm tại lớp 4B bài 21: Ba thể của nước. Tôi
xin trình bày lại kế hoạch bài học chi tiết:
KHOA HỌC - BÀI 21: BA THỂ CỦA NƯỚC
15


1. Nội dung áp dụng phương pháp Bàn tay nặn bột: Các thể của nước, tính
chất của nước khi tồn tại ở 3 thể khác nhau và sự chuyển thể của nước.
2. Mục tiêu hoạt động:
- Kiến thức: Học sinh hiểu được các thể của nước trong tự nhiên (lỏng, rắn,
khí), tính chất của nước khi tồn tại ở ba thể đó và hiểu được sự chuyển thể của
nước.
- Kĩ năng: Nêu được các thể của nước trong tự nhiên, nêu được sự chuyển thể
của nước và tính chất của nước ở các thể khác nhau.
3. Phương án tìm tòi: Phương pháp thí nghiệm
4. Đồ dùng dạy học:
Đá lạnh, muối hột, nước lọc, nước sôi, ống nghiệm, ca nhựa, đĩa nhựa nhỏ,

nhiệt kế
5. Tiến trình đề xuất:
a. Đưa ra tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề:
- GV hỏi: Theo em trong tự nhiên nước tồn tại ở những dạng nào? (dạng lỏng,
khói, đông cục)
- GV yêu cầu học sinh nêu một số ví dụ về các thể của nước.
- GV hỏi: Em biết gì về sự tồn tại của nước ở các thể mà em vừa nêu?
b. Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh
- GV yêu cầu học sinh ghi chép những hiểu biết ban đầu của mình vào vở ghi
chép khoa học về sự tồn tại của nước ở các thể vừa nêu, thảo luận nhóm thống
nhất ý kiến và ghi vào bảng nhóm. Các ý kiến của học sinh có thể là:
+ Nước tồn tại ở dạng đông cục rất cứng và lạnh
+ Nước có thể chuyển từ dạng rắn sang dạng lỏng và ngược lại.
+ Nước có thể chuyển từ dạng lỏng thành dạng hơi.
+ Nước ở dạng lỏng và rắn thường trong suốt, không màu, không mùi, không vị
+ Ở cả ba dạng thì tính chất của nước giống nhau.….
c. Đề xuất câu hỏi và phương án tìm tòi:
- Từ các biểu tượng ban đầu do học sinh đề xuất, giáo viên tập hợp thành các
nhóm biểu tượng ban đầu rồi giúp các em đề xuất các câu hỏi liên quan đến sự
tồn tại của nước ở ba thể rắn, lỏng, khí.
Ví dụ các câu hỏi đề xuất có thể là:Nước có ở dạng khí và chảy không? Khi nào
nước có dạng khói? Khi nào nước đông thành cục? Nước có tồn tại ở dạng
bong bóng không? Vì sao khi nước lạnh lại bốc hơi? Tại sao nước khi sôi lại
bốc khói? Khi nào nước ở dạng lỏng?Vì sao nước lại có hình dạng khác nhau?
Tại sao nước đông thành đá gặp nóng thì tan chảy? ….
- Giáo viên tổng hợp các câu hỏi, chỉnh sửa và nhóm các câu hỏi phù hợp với
nội dung tìm hiểu về sự tồn tại của nước ở ba thể: lỏng, rắn, khí:
+ Khi nào thì nước ở thể lỏng chuyển thành thể rắn và ngược lại?
+ Khi nào thì nước ở thể lỏng chuyển chuyển thành thể khí và ngược lại?
+ Nước ở ba thể lỏng, rắn và khí có những điểm nào giống và khác nhau?

- Tổ chức cho HS thảo luận, đề xuất phương án tìm tòi để trả lời ba câu hỏi
trên, thống nhất lựa chọn phương án trước khi tổ chức thực hiện các thí nghiệm.
16


d. Thực hiện phương án tìm tòi:
- Yêu cầu học sinh viết vào vở ghi chép khoa học trước khi làm thí nghiệm với
các mục: Câu hỏi, dự đoán, cách tiến hành, kết luận rút ra.
- Yêu cầu học sinh thực hiện các thí nghiệm để lần lượt trả lời cho câu hỏi thứ
nhất và thứ hai.
+ Để trả lời câu hỏi thứ nhất: Khi nào thì nước ở thể lỏng chuyển thành thể rắn
và ngược lại?, GV có thể sử dụng các thí nghiệm:
++ Nước chuyển từ thể rắn thành thể lỏng: Bỏ một cục đá lạnh nhỏ ra ngoài
không khí, một thời gian sau cục đá tan chảy thành nước (yêu cầu học sinh sử
dụng nhiệt kế để đo nhiệt độ khi đá tan chảy).
++ Nước chuyển từ thể lỏng thành thể rắn: Hướng dẫn học sinh tạo ra hỗn
hợp: 1/3 muối+2/3 nước đá (đá đập nhỏ). Sau đó đổ 20ml nước sạch vào ống
nghiệm, cho ống nghiệm này vào hỗn hợp đá và muối, để yên và quan sát. Một
thời gian nước trong ống nghiệm chuyển từ thể lỏng thành thể rắn (Lưu ý học
sinh không để hỗn hợp đá và muối rớt vào ống nghiệm; sử dụng nhiệt kế để đo
nhiệt độ của nước trong ống nghiệm để theo dõi được nhiệt độ khi nước chuyển
từ thể lỏng thành thể rắn).
+ Để trả lời câu hỏi Khi nào thì nước ở thể lỏng chuyển thành thể khí và ngược
lại?, GV hướng dẫn học sinh làm thí nghiệm như hình 3 trang 44-SGK.
- Trong quá trình làm các thí nghiệm, GV lưu ý đến tính chất của 3 thể của nước
để trả lời câu hỏi thứ ba: Nước ở ba thể lỏng, rắn và khí có những điểm nào
giống và khác nhau?
e. Kết luận kiến thức:
- GV tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả sau khi tiến hành thí nghiệm.
- Hướng dẫn học sinh so sánh lại với các suy nghĩ ban đầu của mình ở bước

b:“Làm bộc lộ biểu tượng ban đầu của học sinh” để khắc sâu kiến thức
- Yêu cầu học sinh nêu ví dụ chứng tỏ được sự chuyển thể của nước và ứng dụng
của sự chuyển thể của nước trong cuộc sống hàng ngày.
Khi vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào dạy học Khoa học lớp 4,
qua việc quan sát hoạt động của học sinh trên lớp tôi nhận thấy:
- Học sinh rất hứng thú, tò mò và tích cực nêu ra các giả thuyết, các dự đoán
khoa học của mình. Tích cực đặt các câu hỏi nhằm bộc lộ biểu tượng ban đầu
của mình về sự vật hiện tượng đang nghiên cứu.
- Dưới sự giúp đỡ của giáo viên, học sinh nhiều em đã tự lập được kế hoạch thí
nghiệm cho mình và tiến hành thí nghiệm để kiểm chứng cho dự đoán hoặc giả
thuyết mà mình đưa ra.
- Trên cơ sở các thí nghiệm khoa học, học sinh tự tìm ra kiến thức của bài học
một cách có cơ sở và căn cứ vững chắc, từ đó giúp học sinh hiểu và nhớ lâu, vận
dụng tốt nội dung bài học.
Sau dự giờ, tôi tổ chức cho giáo viên rút kinh nghiệm giờ dạy. Khi tổ chức
thảo luận, góp ý, rút kinh nghiệm về cách dạy học theo phương pháp “Bàn tay
nặn bột”, tôi đặc biệt quan tâm đến việc phân tích để giáo viên hiểu rõ trong
17


cách tổ chức tiến trình bài dạy theo 5 bước của phương pháp “Bàn tay nặn bột”
mà giáo viên thực hiện thì từng bước cụ thể được thể hiện như thế nào? Có đúng
với tiến trình sư phạm của các hoạt động nghiên cứu khoa học theo các bước của
phương pháp “Bàn tay nặn bột” không? Việc xử lý tình huống của giáo viên trên
lớp có linh hoạt không? Học sinh có chủ động, hứng thú với bài học không? Để
từ đó giáo viên hiểu sâu sắc về phương pháp và cách vận dụng trong dạy học
Khoa học nói chung và dạy học chủ đề “Vật chất và năng lượng” nói riêng.
Tôi lưu ý giáo viên về những khó khăn, hạn chế của phương pháp “Bàn tay
nặn bột” để việc áp dụng của giáo viên chủ động hơn, các khó khăn đó là:
- Do học sinh chiếm lĩnh kiến thức thông qua việc tìm tòi, khám phá của bản

thân, trong đó học sinh cần suy nghĩ đưa ra ý kiến bản thân, phải quan sát, thực
hành, phải trao đổi, thảo luận,… có những hoạt động cần phải thực hiện vài lần
nên khi áp dụng phương pháp này thường mất nhiều thời gian
- Trong quá trình tìm tòi kiến thức, có những vấn đề, tình huống nảy sinh, học
sinh có thể có những câu hỏi mà giáo viên chưa thể trả lời ngay. Đối với dạy học
khoa học, có những tình huống rất gần gũi nhưng để giải thích được không phải
là đơn giản. Đây cũng là vấn đề trở ngại về mặt tâm lý đối với giáo viên (đặc
biệt là quan niệm truyền thống, thường đặt giáo viên ở vị trí là người truyền bá
kiến thức, là người biết mọi thứ,…)
Tôi yêu cầu giáo viên: Ngoài các bài mà tài liệu “Phương pháp bàn tay nặn
bột trong dạy học môn Tự nhiên- Xã hội và Khoa học ở trường Tiểu học” đã đề
cập đề nghị giáo viên tiếp tục nghiên cứu và áp dụng phương pháp này phù hợp
với các bài khác trong môn học nhất là trong chủ đề “Vật chất và năng lượng”.
7.Biện pháp 7: Tổ chức dự giờ và góp ý rút kinh nghiệm cho giáo viên một
cách kịp thời
Sau khi tổ chức thực nghiệm sư phạm và rút kinh nghiệm, yêu cầu mỗi cá
nhân phải đăng ký thực nghiệm một tiết rồi mở rộng ra 2, 3 tiết.
Ban chỉ đạo yêu cầu tổ chuyên môn cho giáo viên đăng ký bài dạy, ngày
dạy cụ thể để có thể tổ chức dự giờ, đánh giá, tiếp tục rút kinh nghiệm tại tổ
khối. Yêu cầu các tổ, khối khi rút kinh nghiệm giờ dạy tiếp tục phân tích sâu về
vận dụng phương pháp thí nghiệm và tiến trình 5 bước của phương pháp ”Bàn
tay nặn bột” trong dạy học khoa học nói chung và dạy chủ đề "Vật chất và năng
lượng” nói riêng, đi sâu vào những vướng mắc và cách xử lý tình huống của
giáo viên trên lớp để giúp giáo viên rút kinh nghiệm kịp thời.
Cán bộ quản lý tăng cường việc kiểm tra, dự giờ thăm lớp (đột xuất hoặc có
báo trước) tại những thời điểm có bài dạy có yêu cầu thực hành thí nghiệm thuộc
chương "Vật chất và năng lượng”. Sau mỗi giờ dự, tổ chức trao đổi rút kinh
nghiệm kịp thời để giáo viên có ý thức chuẩn bị và sử dụng đồ dùng thường
xuyên; phát huy ưu điểm và khắc phục tồn tại trong cách tổ chức các hoạt động
dạy học nói chung và các thí nghiệm khoa học nói riêng. Bên cạnh đó có biện

pháp động viên khuyến khích giáo viên một cách hợp tình, hợp lý về cả tinh
thần và vật chất. Đề xuất với Hiệu trưởng đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất,
18


trong thiết bị để giáo viên vận dụng dạy học theo phương pháp thí nghiệm và
phương pháp "Bàn tay nặn bột” thuận lợi, hiệu quả.
Yêu cầu giáo viên chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy. Kiểm tra lại các đồ dùng
sẵn có trong kho thiết bị của trường, chuẩn bị thêm các đồ dùng cần thiết phục
vụ cho tiết dạy.
IV. HIỆU QUẢ

Sau khi áp dụng các biện pháp như đã trình bày ở trên trong năm học 20152016, tôi đã tiến hành khảo sát đội ngũ giáo viên và các em học sinh khối 4 và
thu được kết quả như sau:
- Về đội ngũ giáo viên:
Tổng
số GV

Vai trò của
ĐDDH

Quan
trọng
16

16

Việc sử dụng
ĐDDH


Không Thường Chưa
quan
xuyên thường
trọng
xuyên
0
15
1

- Về học sinh (thời điểm tháng 3 năm 2016)
Sĩ số
Hoàn thành
SL
TL
50

49

98%

Việc tự làm
ĐDDH

Tích
cực

Chưa
tích
cực
3


13

Hứng thú khi sử
dụng ĐDDH

Hứng
thú
16

Không
hứng
thú
0

Chưa hoàn thành
SL
TL
1

2%

Đối chiếu với hai bảng số liệu đã trình bày ở phần thực trạng tôi thấy rằng:
- Về giáo viên: Tất cả số giáo viên của trường đều nhận thức đúng tầm quan
trọng của đồ dùng dạy học. Từ đó có hứng thú trong sử dụng đồ dùng dạy học.
Số giáo viên thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học và có ý thức tự làm thêm
đồ dùng phục vụ cho bài dạy đều nâng lên đáng kể.
- Học sinh: hứng thú trong việc học tập, nhất là việc được tham gia vào các thí
nghiệm tìm tòi để tự phát hiện ra kiến thức của bài học. Các thao tác tư duy, các
phẩm chất trí tuệ được rèn luyện và phát triển. Số học sinh hoàn thành tăng từ

85% lên 98%.
Điều đó khẳng định tính đúng đắn của các biện pháp mà tôi đã lựa chọn.
C- KẾT LUẬN
I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Qua quá trình thực nghiệm đề tài tôi nhận thấy: Để nâng cao hiệu quả chỉ
đạo sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học môn Khoa học lớp 4 nhất là đối những bài
có yêu cầu thực hành thí nghiệm thuộc chủ đề "Vật chất và năng lượng”, người
cán bộ quản lý cần phải:
1. Tạo sự thống nhất trong công tác chỉ đạo, triển khai đầy đủ các văn bản chỉ
đạo của ngành, lấy các văn bản đó làm những căn cứ quan trọng để xây dựng kế
hoạch chỉ đạo sát đúng, phù hợp với đặc điểm tình hình nhà trường, học sinh và
đội ngũ.
2. Rà soát, chuẩn bị, bổ sung đầy đủ các điều kiện phục vụ cho việc sử dụng đồ
dùng, thiết bị dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên. Đặc biệt
19


quan tâm đến công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, đầu tư về cơ sở vật chất
và trang bị các phương pháp, các kỹ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện
thuận lợi cho giáo viên trong việc sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học và nâng cao
tay nghề.
3. Xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể, tập trung vào những việc làm có tính chất
trọng tâm để đảm bảo tính hiệu quả của kế hoạch, như: rà soát thống kê bài dạy
có thí nghiệm, đặc biệt ghi rõ các đồ dùng thí nghiệm cần chuẩn bị; tăng cường
tổ chức chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học; thường xuyên kiểm tra việc
vận dụng chuyên đề vào thực tế giảng dạy để rút kinh nghiệm về công tác chỉ
đạo cũng như công tác giảng dạy của giáo viên.
4. Động viên giáo viên tích cực bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia tích
cực, nghiêm túc các chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học môn Khoa học do

trường, cụm chuyên môn tổ chức; tự bồi dưỡng các kiến thức khoa học cho bản
thân; thường xuyên "làm thử” các thí nghiệm khoa học, quan sát kỹ các hiện
tượng xảy ra, phân tích, rút kinh nghiệm để việc hướng dẫn học sinh thực hiện
trên lớp đạt hiệu quả cao.
5. Chỉ đạo giáo viên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh. Nhắc phụ huynh
mua sắm đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho con em và đặc biệt nhắc nhở con
em có ý thức thường xuyên chuẩn bị đủ đồ dùng học tập và sách vở hàng ngày.
II. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

Đối với nhà trường và cụm chuyên môn: Tiếp tục duy trì việc tổ chức
chuyên đề Đổi mới phương pháp dạy học các môn học đặc biệt là chủ đề “Vật
chất và năng lượng” để giáo viên có cơ hội giao lưu, học hỏi lẫn nhau, nâng cao
tay nghề.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân đã chỉ đạo thực hiện và đạt kết
quả ở đơn vị, rất mong được sự góp ý, trao đổi của đồng nghiệp để bản thân
hoàn chỉnh hơn nội dung biện pháp của mình. tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ:

Hậu Lộc, ngày 22 tháng 3 năm 2016.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết

Đỗ Thị Hoa

20



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Khoa học 4
2. Tài liệu Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên Tiểu học chu kỳ III (20032007). Tập 2. Nhà XB Giáo dục ấn hành năm 2005
3. Phương pháp “Bàn ta nặn bột” trong dạy học môn Tự nhiên và Xã
hội, môn Khoa học ở trường Tiểu học. Tác giả Phạm Ngọc ĐịnhNguyễn Ngọc Yến – Lương Việt Thái.
4. Một số tạp chí GDTH: Tập 38,40/2009; số 11/2015

21


PHỤ LỤC: THỐNG KÊ BÀI VÀ ĐỒ DÙNG CẦN SỬ DỤNG ĐỐI VỚI
CÁC BÀI CÓ YÊU CẦU THỰC HÀNH, THÍ NGHIỆM - CHƯƠNG “VẬT
CHẤT VÀ NĂNG LƯỢNG” MÔN KHOA HỌC 4
STT

1

2

3

4

5

6

Tên bài

Đồ dùng phục vụ bài dạy


Bài 20: Nước
có những tính
chất gì?

- Hình vẽ trang 42, 43
- Chuẩn bị theo nhóm:
+ 2 cốc thủy tinh giống nhau; Một cốc đựng nước, một
cốc đựng sữa;
+ Chai và một số vật chứa nước có hình dạng khác
nhau bằng thủy tinh hoặc nhựa trong;
+ Một tấm kính hoặc mặt phẳng không thấm nước và 1
khay đựng nước (như H43-SGK)
+ Một miếng vải, bông, giấy thấm, miếng mút, túi ni
lông,..
+ Một ít đường, muối, cát, … một vài chiếc thìa
Bài 21: Ba thể
- Hình 44, 45 –SGK
của nước
- Chuẩn bị theo nhóm:
+ Chai, lọ thủy tinh hoặc nhựa trong để đựng nước
+ Nguồn nhiệt: Bếp dầu, nến, đèn cồn; ống nghiệm
(hoặc chậu thủy tinh chịu nhiệt, ấm đun nước)
+ Nước đá, khăn lau bằng vải hoặc bọt biển.
Bài 25: Nước bị - Hình 52,53 SGK
ô nhiễm
- Chuẩn bị theo nhóm:
+ Một chai nước sông (hay hồ, ao); một chai nước
giếng hoặc nước máy.
+ Hai chai không

+ Hai phễu lọc nước
+ Một kính lúp (nếu có)
Bài 27: Một số - Hình trang 56,57 – SGK
cách làm sạch
- Chuẩn bị theo nhóm: Mô hình dụng cụ lọc nước đơn
nước
giản được làm từ: Hai chai nhựa trong bằng nhau;
Giấy lọc; Cát, than bột; Nước đục
Bài 30: Làm thế - Hình trang 62,63 –SGK
nào để biết có
- Chuẩn bị theo nhóm: Các túi ni lông to, dây thun
không khí?
buộc túi, kim khâu, bình thủy tinh, chai không; cục đất
khô, một miếng bọt biển hoặc vài viên gạch
Bài 31: Không - Hình 64,65 – SGK
khí có những
- Chuẩn bị theo nhóm: 8-10 quả bóng bay với hình
tính chất gì?
dạng khác nhau, dây thun buộc bóng; Bơm tiêm; Bơm
xe đạp (nếu có)
22


7

8

9

10


11
12
13

14
15
16

17

Bài 32: Không - Hình trang 66,67 – SGK
khí gồm những - Chuẩn bị theo nhóm: Lọ thủy tinh, nến, chậu thủy
thành phần nào? tinh, đế kê lọ (như hình 1 - Trang 66- SGK); Nước vôi
trong.
Bài 35: Không - Hình trang 70,71 SGK
khí cần cho sự
- Chuẩn bị theo nhóm:
cháy
+ Hai lọ thủy tinh: 1 to, 1 nhỏ
+ Một lọ thủy tinh không có đáy (hoặc ống thủy tinh),
nến, đế kê ( như hình 4 –trang 71-SGK)
Bài 37: Tại sao - Hình 74,75- SGK
có gió?
- Chong chóng, mỗi HS 1 cái
- Chuẩn bị theo nhóm:
+ Hộp đối lưu (như mô tả trong trang 74-SGK;
+ nến, diêm, vài nén hương hoặc miếng giẻ.
Bài 41: Âm
- Chuẩn bị theo nhóm: + Ống bơ (lon sữa bò), thước,

thanh
vài hòn sỏi
+ Trống nhỏ, 1 ít giấy vụn; Một số đồ vật có thể tạo ra
âm thanh; Băng cát xét ghi âm thanh của một số đồ vật
Bài 42: Sự lan
- Chuẩn bị theo nhóm: 2 ống bơ, ít vụn giấy; 2 miếng
truyền âm thanh ni lông, dây chun; một sợi dây mềm bằng đồng hoặc
sợi gai; trống, đồng hồ, chậu nước.
Bài 45: Ánh
Chuẩn bị theo nhóm: Một hộp kín; tấm kính, nhựa
sáng
trong; tấm kính mờ; tấm ván; tấm bìa; đèn pin
Bài 46: Bóng
- Chuẩn bị chung: Đèn bàn
tối
- Chuẩn bị theo nhóm: đèn pin; tờ giấy to hoặc tấm
vải; kéo, bìa, một số thanh tre (gỗ) nhỏ; một số vật như
ô tô đồ chơi, hộp,…
Bài 50: Nóng, - Chuẩn bị chung: Một số loại nhiệt kế, phích nước
lạnh và nhiệt độ sôi, ít nước đá
- Chuẩn bị theo nhóm: Nhiệt kế, 3 chiếc cốc.
Bài 51: Nóng, - Chuẩn bị chung: phích nước sôi, ít nước đá
lạnh và nhiệt độ - Chuẩn bị theo nhóm: 2 chiếc chậu; 1 cốc; lọ có cắm
(tiếp theo)
ống thủy tinh (như hình 2a - trang 103-SGK).
Bài 52: Vật dẫn - Chuẩn bị chung: phích nước nóng, xoong, nồi, giỏ
nhiệt và vật
ấm, cái lót tay
cách điện
- Chuẩn bị theo nhóm: 2 chiếc cốc như nhau, thìa kim

loại, thìa nhựa, thìa gỗ, vài tờ giấy báo; dây chỉ, len
hoặc sợi; nhiệt kế.
Bài 53: Các
- Chuẩn bị chung: hộp diêm, nến, bàn là, kính lúp (nếu
nguồn nhiệt
vào ngày nắng.

23



×