Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số biện pháp chỉ đạo giáo viên giáo dục kỹ năng sống thông qua phân môn tập làm văn lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.87 KB, 15 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thực hiện quyết định số 2994/QĐ-BGDĐT ngày 20 tháng 7 năm 2010 của
Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai giáo dục kỹ năng sống trong một số môn học và
hoạt động giáo dục ở các cấp học. Đây là một chủ trương đúng đắn và cần thiết
được đông đảo phụ huynh và dư luận quan tâm. Bởi vì, Việt Nam đang bước vào
thời kỳ mới - Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và con người được đặt ở trung
tâm chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó lớp thiếu niên nhi đồng hôm nay
sẽ là những công dân, những người chủ tương lai của đất nước. Hơn nữa đứng trước
nhu cầu và sự phát triển đa dạng và phong phú của lớp trẻ hôm nay, đặc biệt là trước
sự bùng nổ về công nghệ thông tin trong xã hội khiến con người đễ bị các luồng
thông tin thiếu lành mạnh lôi cuốn, nhất là lứa tuổi thiếu niên nhi đồng nếu như
không được giáo dục và định hướng rõ ràng.
Nhiều ý kiến cho rằng, các trường học hiện nay đã quá nặng về dạy kiến thức,
ít quan tâm đến việc giáo dục giáo dục kỹ năng sống cho học sinh dẫn đến có một
bộ phận học sinh trong các trường thiếu hụt hiểu biết về môi trường xung quanh,
ứng xử cần thiết trong cuộc sống. Điều này cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến những bất cập trong hành vi, lối sống đạo đức của một số học sinh.
Như chúng ta đã biết, dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ. Dạy học
Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Phân môn Tập
làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kỹ năng nói trên. Nó là phân môn tổng
hợp toàn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân môn: Tập đọc, Tập viết,
Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học sinh lớp 4 thì đây là một phân
môn khó, bởi ở lứa tuổi của các em thì vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên
cạnh đó, còn có một nguyên nhân khách quan như điều kiện hoàn cảnh sống của học
sinh, gia đình không có điều kiện quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém,
việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ… Điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng đặc biệt
là rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn này? Là một cán bộ quản lý
nhà trường tôi luôn luôn trăn trở về vấn đề này. Trên thực tế, việc quản lý ở trường


Tiểu học Hà Phong trong những năm qua đã có những chuyển biến đáng kể, song
hiệu quả chưa cao, còn nhiều tồn tại, hạn chế. Xuất phát từ lý do trên, là Phó hiệu
trưởng phụ trách chuyên môn tôi thấy cần có những đổi mới trong công tác quản lý
chỉ đạo việc “Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm
văn lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong” để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Tìm hiểu về hình thức giáo dục hình thành kỹ năng sống cho học sinh thông
qua lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn Tập
làm văn.
Khảo sát thực trạng việc tổ chức dạy lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh của giáo viên và học sinh khối 4 qua phân môn Tập làm văn.
1


Qua kết quả nghiên cứu, đánh giá những nguyên nhân ảnh hưởng tới quá trình
hình thành kỹ năng sống cho học sinh.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống qua
việc lồng ghép trong giảng dạy phân môn Tập làm văn nói chung và nâng cao hiệu
quả của việc giáo dục và rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh trường Tiểu học Hà
Phong nói riêng.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Đề tài hướng vào nghiên cứu đặc điểm các bài dạy có nội dung lồng ghép
giáo dục kỹ năng sống trong phân môn Tập làm văn lớp 4 và thực tế dạy học phân
môn Tập làm văn lớp 4.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp điều tra
Phương pháp thống kê
Phương pháp phỏng vấn

Phương pháp phân tích tổng hợp (Phân tích nguyên nhân, tổng hợp kết
quả)
Phương pháp so sánh (So sánh kết quả trước và sau khi thực hiện đề
tài)
PHẦN II: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

Kỹ năng sống là những kỹ năng tâm lý - xã hội cơ bản giúp cho cá nhân tồn
tại và thích ứng trong cuộc sống, giúp cho cá nhân vững vàng trước cuộc sống có
nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội trong thực tại… Kỹ năng sống đơn
giản là tất cả điều cần thiết chúng ta phải biết để có được khả năng thích ứng với
những thay đổi diễn ra hằng ngày trong cuộc sống. Là khả năng làm chủ bản thân
của mỗi người, khả năng ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống.
Có thể nói, kỹ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có kỹ năng sống phù
hợp sẽ luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng ứng xử, giải quyết
vấn đề một cách tích cực và phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống,
luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của chính mình. Ngược lại người thiếu kỹ năng
sống thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc sống.
Nội dung giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh tiểu học: Tiếp tục rèn luyện
những kỹ năng đã được học ở mầm non, tập trung hình thành cho HS kỹ năng giao
tiếp với cha mẹ, thầy cô, bạn bè; kỹ năng xây dựng tình bạn đẹp; kỹ năng kiên trì
trong học tập; kỹ năng đúng giờ và làm việc theo yêu cầu, kỹ năng đồng cảm,... tạo
tiền đề cho sự phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần, phẩm chất, học vấn và
năng lực của HS (công văn số 463/BGDĐT- GDTX ngày 28 tháng 01 năm 2015 về
việc hướng dẫn triển khai thực hiện giáo dục kỹ năng sống tại các cơ sở giáo dục
mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên).
2



Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo,
sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác
của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng
từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động vốn kiến thức nhiều mặt
(từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức...) có liên
quan đến đề bài.
Rèn kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn là phát triển
năng lực tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự
sáng tạo của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập
làm văn) ta sẽ thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về
cuộc sống của học sinh.
Vậy, làm thế nào để chúng ta giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua
phân môn Tập làm văn? tôi nghĩ có nhiều phương pháp, nhiều cách thức để thực
hiện việc này. Nhưng trong bài viết này, tôi xin đưa ra “Một số biện pháp chỉ đạo
giáo viên Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn
lớp 4 ở trường Tiểu học Hà Phong" để góp một phần nhỏ vào việc thực hiện nâng
cao hiệu quả hoạt động giáo dục.
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1.Thực trạng
1.1. Chương trình giáo dục kỹ năng sống
Chương trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học được Bộ giáo dục
Đào tạo triển khai vào năm học 2010 - 2011. Đây là môn học mở, tùy điều kiện từng
trường để áp dụng linh hoạt, vì không quy định tiết học, giờ học cụ thể nên tùy
thuộc vào điều kiện, năng lực giáo viên.
Trong chương trình dạy kỹ năng sống, không có khái niệm “vâng lời” chỉ có
khái niệm “lắng nghe”, “đồng cảm”, “chia sẻ”. Mục tiêu của giáo dục kỹ năng sống
là rèn luyện cách tư duy tích cực, hình thành thói quen tốt thông qua các hoạt động
và bài tập trải nghiệm, chứ không đặt mục đích “rèn nếp” hay “nghe lời”.

Môn Tiếng Việt có thuận lợi hơn cả vì bản thân nội dung bài học đã buộc học
sinh phải vận dụng rất nhiều kỹ năng: tư duy sáng tạo, xúc cảm, trình bày suy nghĩ,
vấn đáp, giải quyết vấn đề …
1.2.Về giáo viên
Những năm gần đây, nhà trường đã chú trọng chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng
sống thông qua lồng ghép các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. Đa
số giáo viên của nhà trường đã thực sự có “tâm” khi dạy kỹ năng sống cho học sinh
vì dạy kỹ năng sống chủ yếu là phụ thuộc vào cái tâm của giáo viên. Tuy nhiên trên
thực tế vẫn còn không ít giáo viên than khổ vì phải thêm việc do từ trước đến nay
chỉ chú trọng dạy kiến thức, hết giờ ở lớp thì về, còn việc dạy đạo đức, kỹ năng sống
được xem là của môn học khác. Cũng có quan niệm dạy kỹ năng sống là phải đi dã
ngoại, đi xa nên nếu trường hoặc phụ huynh có kinh phí tổ chức thì đi, không thì
thôi.
3


Nội dung các bài học đã nhiều, thời lượng lại ít nên khó lồng ghép giáo dục
kỹ năng sống vào. Ngoài ra, đội ngũ giáo viên cũng chưa được đào tạo cơ bản để
dạy về kỹ năng sống.
1.3.Về học sinh
Ở lứa tuổi tiểu học, học sinh đang phát triển về hệ xương, hệ thần kinh, học
sinh có những nhận biết nhất định về xung quanh, biết đánh giá nhận xét sự việc xảy
ra quanh mình.
Các em đã có sự phát triển về trí tuệ, tâm hồn, các em thích quan sát mọi vật
xung quanh. Khả năng tư duy cụ thể nhiều hơn khả năng khái quát hóa. Về tình cảm,
các em rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, của đất nước. Các em dễ xúc động
và bắt đầu biết ước mơ, tưởng tượng phong phú. Có khả năng ứng xử phù hợp với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống
của cuộc sống. Tuy nhiên ở từng địa phương khác nhau, yêu cầu về kỹ năng sống
cúng khác nhau.

Trường Tiểu học Hà Phong với đặc điểm là trường ven Thị Trấn, đời sống của
nhân dân những năm gần đây đã có nhiều khởi sắc, việc tiếp cận với xu thế hiện đại
hoặc môi trường xã hội tiên tiến khá thuận lợi. Tuy nhiên, trường gần chợ Lèn và
quốc lộ 1A … là nơi các quán Game mọc nhiều và là nơi các con nghiện tụ tập tiêm
chích, mua bán ma túy. Chính vì thế trường là nơi các tai tệ nạn xã hội lăm le xâm
nhập.
2. Kết quả của thực trạng trên
Học tập là một nhu cầu thường trực của con người trong mọi thời đại. Học tập
không chỉ dừng lại ở các tri thức khoa học thuần túy mà còn được hiểu là mọi tri
thức về thế giới trong đó có cả những mối quan hệ, cách thức ứng xử với môi trường
xung quanh. Kĩ năng sống là một trong những vấn đề quan trọng đối với mỗi cá
nhân trong quá trình tồn tại và phát triển. Chương trình học hiện nay đang gặp phải
nhiều chỉ trích do quá nặng nề về kiến thức trong khi những tri thức vận dụng cho
đời sống hàng ngày bị thiếu vắng. Hơn nữa, người học đang chịu nhiều áp lực về
học tập khiến cho không còn nhiều thời gian cho các hoạt động ngoại khóa, hoạt
động xã hội. Điều này dẫn đến sự “xung đột” giữa nhận thức, thái độ và hành vi với
những vấn đề xảy ra trong cuộc sống.
Mặc dù ở một số môn học, các hoạt động ngoại khóa, giáo dục kĩ năng sống đã
được đề cập đến. Tuy nhiên, do nội dung, phương pháp, cách thức truyền tải chưa phù
hợp với tâm sinh lí của đối tượng nên hiệu quả lồng ghép còn chưa cao.
Qua thực tế làm công tác quản lý ở trường tiểu học Hà Phong, bản thân thấy kĩ
năng sống của học sinh chưa cao. Chỉ một số học sinh có hành vi, thói quen, kĩ năng
tốt. Còn phần lớn các em có nhận xét, đánh giá về sự việc nhưng chưa có thái độ và
cách ứng xử, cách xưng hô chuẩn mực. Học sinh thể hiện kĩ năng còn đại khái, chưa
mạnh dạn thể hiện kĩ năng của bản thân. Các em còn ngại nói, ngại viết, khả năng tự
học, tự tìm tòi còn hạn chế.
Qua tiến hành khảo sát (lần 1) ở lớp 4A (tháng 2 năm 2015) với chủ đề “Kĩ
năng của em”
4



Đề bài: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (nhạc, họa, võ
thuật…). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu
và ủng hộ nguyện vọng của em.
Hãy cùng bạn đóng vai em và anh (chị) để thực hiện cuộc trao đổi.
- Kỹ năng nhận thức:
Tổng số học Xác định được điểm mạnh, Chưa biết điểm mạnh, điểm yếu của
sinh
điểm yếu của bản thân, xây bản thân, chưa biết cách khắc phục
dựng kế hoạch, tư duy tích khó khăn để đạt mục tiêu.
cực và sáng tạo.
SL
%
SL
%
28
9
32,1
19
67,9
- Kỹ năng xã hội:
Tổng số học Có kỹ năng vận động và gây Đôi lúc giao tiếp, ứng xử, xưng
sinh
ảnh hưởng, giao tiếp, ứng xử, hô chưa đúng mực. Chưa dám
xưng hô đúng mực, thuyết thuyết trình trước đám đông.
trình trước đám đông tốt.
SL
%
SL
%

28
10
35,7
18
64,3
- Kỹ năng quản lý bản thân:
Tổng số
học sinh

Biết làm chủ cảm xúc, quản lý
thời gian phù hợp.

Chưa làm chủ được cảm xúc còn lo
lắng, sợ hãi, chưa biết quản lý thời
gian.
SL
%
SL
%
28
11
39,3
17
60,7
Kết quả trên cho thấy, số học sinh có kĩ năng tốt còn ít và số học sinh có kĩ
năng chưa tốt còn nhiều. Chính vì vậy mà việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
là vấn đề cần quan tâm. Muốn làm tốt công tác này chúng ta cần phải làm gì? Nhất
là những người làm công tác giáo dục vì nhà trường là nơi tốt nhất để hình thành
nhân cách cho học sinh. Đây cũng chính là câu hỏi mà bản thân cần phải tìm tòi
nghiên cứu. Tôi đã thử nghiệm chọn một số kỹ năng cần thiết nhất để chỉ đạo giáo

viên giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4 và
kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh,
tôi nhận thấy kỹ năng của học sinh tốt lên một cách rõ rệt. Từ những thực trạng trên
thôi thúc bản thân tìm ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng “Học sinh chưa có kĩ năng
sống” là do đâu? để từ đó tìm ra biện pháp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh đạt
hiệu quả.
3. Nguyên nhân
Hiện tượng trẻ em ngu ngơ khi phải xử lí những tình huống của cuộc sống thực,
thiếu tự tin trong giao tiếp, thiếu bản lĩnh vượt qua khó khăn, thiếu sáng kiến và dễ
nản chí ngày càng nhiều. Nguyên nhân do đâu? Phải khẳng định rằng, trước hết do
giáo dục. Nhiều vấn đề của xã hội hiện đại tác động đến trẻ chưa được cập nhật, bổ
5


sung vào chương trình giáo dục nhà trường. Việc định hướng sai các giá trị là
nguyên nhân gây ra những hiện tượng đáng tiếc trong ứng xử của trẻ. Phương pháp
giáo dục nhồi nhét, lí thuyết suông, không tạo được cho trẻ khả năng tư duy, óc phân
tích, suy sét, phán đoán, không tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm những vấn đề thực
trong cuộc sống hiện đại…Qua nhiều năm thực tế làm công tác quản lý ở trường,
bản thân nhận thấy kĩ năng sống học sinh chưa tốt là do những nguyên nhân sau:
Sự hướng dẫn của thầy cô giáo, nhà trường về kỹ năng sống cho học sinh
chưa thật sự cụ thể, dễ hiểu.
Giáo viên chưa chuẩn bị chu đáo để hướng dẫn học sinh thực hành rèn kỹ
năng sống.
Giáo viên và người lớn chưa thật gần gũi, thân thiện với học sinh.
Việc rèn kĩ năng sống qua việc tích hợp vào các môn học còn hạn chế.
Rèn kĩ năng sống qua các tiết học, các tiết sinh hoạt lớp, hoạt động giáo dục, vui
chơi còn chưa sâu sát.
Giáo viên khuyến khích động viên khen thưởng học sinh còn ít, chưa kịp thời.
Công tác tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy các em các kĩ năng sống cơ

bản chưa nhiều.
Học sinh thiếu sự quan tâm, ít trau dồi về kỹ năng sống.
Chính việc thiếu hụt nghiêm trọng các kĩ năng sống do sự hạn chế của giáo
dục gia đình và nhà trường, sự phức tạp của xã hội hiện đại là nguyên nhân trực tiếp
khiến học sinh gặp khó khăn trong ứng xử với tình huống thực của cuộc sống.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

Giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của phân môn Tập làm văn và nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn Tập làm văn.
Qua các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã yêu cầu giáo viên nêu mục tiêu
của các môn học ở tiểu học, nội dung của việc rèn kỹ năng sống thông qua các tiết
thao giảng…
Ví dụ : Mục tiêu của phân môn Tập làm văn ở trường tiểu học nhằm :
Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, nói,
đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học Tập làm văn, góp phần rèn luyện các thao tác của tư
duy.
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam và
nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.”
Ví dụ một số nội dung giáo dục kỹ năng sống trong phân môn Tập làm
văn lớp 4:
6


Tuần
2

3
7
8
9

11

15
16
20

22
26
30
33
34

Tên bài dạy
Các kỹ năng sống cần đạt
Tả ngoại hình của nhân vật trong - Tìm kiếm và xử lý thông tin
bài văn kể chuyện
- Tư duy sáng tạo
- Giao tiếp ứng xử lịch sự trong giao tiếp
Viết thư
- Tìm kiếm và xử lý thông tin
- Tư duy sáng tạo
Luyện tập phát triển câu chuyện - Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán
- Thể hiện sự tự tin
- Hợp tác
Luyện tập phát triển câu chuyện - Tư duy sáng tạo, phân tích, phán đoán

- Thể hiện sự tự tin
- Xác định giá trị
Luyện tập trao đổi ý kiến với
- Thể hiện sự tự tin
người thân
- Lắng nghe tích cực
- Thương lượng
- Đặt mục tiêu, kiên định
Luyện tập trao đổi ý kiến với
- Thể hiện sự tự tin
người thân
- Lắng nghe tích cực
- Giao tiếp
- Thể hiện sự cảm thông
Quan sát đồ vật
- Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng
- Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc
Luyện tập giới thiệu địa phương - Tìm kiếm và xử lý thông tin
- Thể hiện sự tự tin
- Giao tiếp
Luyện tập giới thiệu địa phương - Thu thập, xử lý thông tin (về địa phương cần giới thiệu)
- Thể hiện sự tự tin
- Lắng nghe tích cực, cảm nhận, chia sẻ, bình luận (về bài
giới thiệu)
Luyện tập miêu tả các bộ phận - Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng
của cây cối
- Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc
Luyện tập miêu tả cây cối
Luyện tập miêu tả các bộ phận của cây cối
Luyện tập quan sát con vật

- Quan sát tỉ mỉ, so sánh, tưởng tưởng
- Tư duy sáng tạo, thể hiện cảm xúc
Điền vào giấy tờ in sẵn
- Thu thập, xử lý thông tin
- Đảm nhận trách nhiệm công dân
Điền vào giấy tờ in sẵn
- Thu thập, xử lý thông tin
- Đảm nhận trách nhiệm công dân
Điền vào giấy tờ in sẵn
- Thu thập, xử lý thông tin
- Đảm nhận trách nhiệm công dân

2. Những việc cần chuẩn bị để đạt được mục tiêu của phân môn học và nhiệm
vụ giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trong phân môn học.
Tôi đã chỉ đạo giáo viên chọn những kỹ năng cần thiết phù hợp địa phương:
Chọn những kỹ năng phù hợp, gần gũi học sinh. Các em có khả năng trực tiếp thực
hành kỹ năng sau khi tiếp cận.
Ví dụ: Thực hành kỹ năng: Giao tiếp, ứng xử lịch sự, xưng hô đúng mực
trong giao tiếp với bạn.
7


Học sinh dự đoán các kỹ năng, yêu cầu của các kỹ năng cần đạt được sau khi
học từng tiết Tập làm văn: Đây là khâu chuẩn bị rất quan trọng đối với giáo viên và
học sinh. Học sinh đọc nội dung bài học, yêu cầu bài học.
Gợi ý học sinh nêu các kỹ năng thông qua bài học: Giáo viên cho học sinh
nêu các yêu cầu, kỹ năng sau khi đọc trước bài học.
Hướng dẫn học sinh nắm được yêu cầu cần đạt sau bài học, từ đó xác định các
kỹ năng cần đạt. Tạo ra hứng thú, cảm xúc, lưu ý đó phải là cảm xúc riêng, thật, phải
có sự liên tưởng từ đó xác định những yêu cầu của kỹ năng cần đạt.

Giáo viên chuẩn bị một giáo án lồng ghép thật cẩn thận (có nêu ra cụ thể các
kỹ năng học sinh cần đạt sau khi học bài này; các kỹ thuật dạy học sử dụng trong bài
dạy; các phương tiện cần thiết phục vụ cho tiết dạy…)
Giáo viên phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý hướng dẫn học sinh tự xác định các
kỹ năng sống cần đạt.
Ví dụ: Bài yêu cầu gì?
Theo em cần phải làm gì để đạt được điều đó?
Trọng tâm bài ở chỗ nào?
Em cần có kỹ năng gì để thực hiện các vấn đề đó?
Sau khi học xong bài này em rút ra điều gì?
Em sẽ ứng dụng như thế nào, làm gì trong cuộc sống hàng ngày khi gặp
trường hợp trong bài?
2. Tổ chức cho học sinh thực hành kỹ năng sống vừa học được.
Trong chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4, có nhiều bài học có thể
giáo dục kĩ năng sống cho các em, đó là các kĩ năng giao tiếp xã hội, như: Viết thư,
Điền vào giấy tờ in sẵn, Giới thiệu địa phương, Kể chuyện được chứng kiến hoặc
tham gia,... được lồng cụ thể qua các tình huống giao tiếp, giáo viên chỉ gợi mở sau
đó cho các em nói một cách tự nhiên hoàn toàn không gò bó áp đặt. Bên cạnh đó,
nhiều bài Luyện từ và câu có nội dung rèn luyện các nghi thức lời nói, nhiều bài Tập
đọc giới thiệu những văn bản mẫu chuẩn bị cho việc hình thành một số kĩ năng giao
tiếp cộng đồng như mẫu đơn, thư, tóm tắt tin tức,…hoặc cung cấp những câu
chuyện mà qua đó học sinh có thể rút ra những nội dung rèn kĩ năng sống. Để hình
thành những kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh qua môn Tiếng Việt,
người giáo viên cần phải vận dụng nhiều phương pháp dạy phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh như: thực hành giao tiếp, trò chơi học tập, phương
pháp nêu và giải quyết vấn đề, phương pháp tổ chức hoạt động nhóm, phương pháp
hỏi đáp,…Thông qua các hoạt động học tập, được phát huy trải nghiệm, rèn kĩ năng
hợp tác, bày tỏ ý kiến cá nhân, đóng vai,…học sinh có được cơ hội rèn luyện, thực
hành nhiều kĩ năng sống cần thiết. Chính vì vậy khi dự giờ giáo viên tôi đã tập chỉ
đạo giáo viên dành nhiều thời gian cho học sinh được thực hành kỹ năng vừa học

được.
Ví dụ: Khi dạy Tập làm văn các bài: “Luyện tập trao đổi ý kiến với người
thân”, “Luyện tập giới thiệu địa phương”, giáo viên đã tổ chức cho các em, đóng
vai, chơi trò chơi. Sau vài lời khuyến khích đầu tiên, giáo viên tổ chức cho các em
8


đứng thành vòng tròn đóng vai, giới thiệu, bày tỏ ý kiến,… Lúc đầu các em rất ái
ngại không tự tin khi đóng vai, bày tỏ ý kiến trước lớp nhưng giáo viên đã kịp thời
nhắc nhở các em những điều cần chú ý trong khi giao tiếp, cộng thêm một môi
trường hòa đồng thân thiện các em thực hiện rất tốt, không còn những cái nhìn ái
ngại. Thay vào đó là những cánh tay tự tin cùng những câu nói rõ ràng, chắc gọn,
mạnh dạn hơn.
Các kĩ năng được phát triển từ dễ đến khó. Sau bài học giới thiệu là những bài
học như khám phá, tư duy hiệu quả và đặc biệt kĩ năng làm việc đồng đội. Giáo viên
luôn tạo không khí thân thiện, áp dụng việc đổi mới phương pháp tạo điều kiện cho
các em mạnh dạn, tự lập, tự khẳng định và phát huy mình hơn qua việc học nhóm.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Giữ phép lịch sự khi bày tỏ yêu cầu, đề nghị” môn
Luyện từ và câu: giáo viên cho học sinh chuẩn bị những hộp thư: Yêu cầu, đề nghị
và tổng kết lại vào cuối tiết. Em nào nêu được nhiều câu yêu cầu, đề nghị lịch sự
nhất sẽ được tuyên dương. Không những vậy giáo viên tổ chức cho các em trao đổi:
“Theo em, như thể nào là lịch sự khi yêu cầu, đề nghị?”; “Em đã lịch sự khi yêu cầu
đề nghị chưa?”... qua đó các em sẽ bộc lộ những suy nghĩ của mình.
Tùy theo từng bài, giáo viên tổ chức cho các em hoạt động ngay tại lớp với
tình huống tương tự bài học để học sinh tự tìm ra hướng giải quyết vấn đề, sau đó
học sinh tự nêu các kỹ năng mà các em đã ứng dụng để giải quyết vấn đề đó.
Nếu không thể tổ chức thực hành được thì giáo viên hướng dẫn học sinh tự
tìm hiểu các tình huống tương tự mà các em đã gặp ở cuộc sống thường ngày, ghi
chép lại và nêu cách giải quyết của bản thân để hôm sau trình bày trước lớp cho các
bạn nghe và bổ sung chọn cách giải quyết tốt nhất.

Ví dụ cụ thể: Trong phạm vi đề tài tôi xin chọn bài dạy mà tôi đã xây dựng
chỉ đạo giáo viên dạy.
Tập làm văn: Luyện tập trao đổi ý kiến với người thân (1 tiết)
Tiếng Việt 4 - Tuần 9
Sau khi học xong bài này học sinh cần đạt:
- Về kiến thức: Xác định được mục đích trao đổi, vai trong trao đổi.
Lập được ý trao đổi đạt mục đích đề ra.
Diễn đạt rõ ràng nội dung trao đổi, có thái độ cử chỉ phù hợp vai trao
đổi.
- Các kỹ năng sống cơ bản được hình thành:
Kỹ năng đặt mục tiêu
Kỹ năng kiên định
Kỹ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng
Kỹ năng trao đổi thảo luận
Kỹ năng lắng nghe, thông cảm, chia sẻ
- Các phương tiện cần có:
Tranh ảnh hoặc vật mẫu về các môn năng khiếu (nhạc, họa, võ thuật...)
Bảng phụ ghi đề bài tập làm văn
- Tiến trình bài dạy:
9


A. Kiểm tra bài cũ:
Hỏi học sinh: - Chủ điểm em đang học là gì? (trên đôi cánh ước mơ).
B. Bài mới:
a. Giới thiệu bài: Giáo viên nêu vấn đề (tình huống trong bài tập đọc đầu
tuần 9): Cương thuyết phục mẹ cho học nghề rèn bằng cách đưa ra những lý lẽ
thuyết phục như thế nào?
Em đã bao giờ đạt được nguyện vọng, mong muốn gì với người thân chưa?
Nguyện vọng mong muốn của em là gì?

Người thân có ý kiến gì khi nghe em truyền đạt?
Kết quả việc trao đổi giữa em và người thân như thế nào?
Nếu thực hiện lại cuộc trao đổi đó, em có thay đổi gì trong cách thuyết phục
người thân của em không?
b. Phát triển bài:
b1: Học sinh tìm hiểu trọng tâm đề bài:
Học sinh đọc đề (không đọc phần gợi ý) lớp đọc thầm, giáo viên gạch chân
những từ ngữ quan trọng trong đề bài (đã chép ở bảng phụ)
Đề bài: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (nhạc, họa, võ
thuật…). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu
và ủng hộ nguyện vọng của em.
Hãy cùng bạn đóng vai em và anh (chị) để thực hiện cuộc trao đổi.
Giáo viên nêu câu hỏi để học sinh xác định trọng tâm đề bài:
Nội dung trao đổi là gì? (nguyện vọng muốn học môn năng khiếu)
Đối tượng trao đổi? (Anh hoặc chị của em)
Mục đích trao đổi là gì? (Làm cho anh hoặc chị hiểu rõ nguyện vọng của em
để anh chị ủng hộ nguyện vọng của em)
Hình thức thực hiện cuộc trao đổi là gì? (em và bạn trao đổi, bạn đóng vai anh
hoặc chị em)
Giáo viên dành thời gian cho học sinh suy nghĩ chọn một môn năng khiếu mà
mình yêu thích nhất và nêu trước lớp.
b2: Lập dàn ý để trao đổi:
Học sinh đọc phần gợi ý, cả lớp đọc thầm.
Học sinh làm việc theo cặp. Cùng trao đổi để viết nháp ra giấy dàn ý cuộc
trao đổi (cần hình dung ra thắc mắc, khó khăn mà anh chị nêu ra để tìm cách giải
đáp).
Giáo viên hỗ trợ các em yếu.
c. Thực hành trao đổi:
Sau khi đã chuẩn bị xong kịch bản cho học sinh trao đổi theo cặp, lúc đầu cho
học sinh nhìn vào giấy nháp, sau đó không nhìn vào giấy nháp mà kết hợp với cử

chỉ, nét mặt, điệu bộ phù hợp khi thực hiện cuộc trao đổi
(Hai học sinh đóng vai trao đổi xong rồi đổi cho nhau)
Giáo viên theo dõi hướng dẫn cho từng cặp trao đổi sau đó chọn một số cặp
tiêu biểu trình bày trước lớp.
10


Sau mỗi cặp trình bày giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét theo các tiêu chí
(được ghi trước trên bảng đen):
- Nội dung trao đổi đề tài có đúng không?
- Cuộc trao đổi như thế có đạt mục đích không?
- Lời nói, cử chỉ hai bạn có phù hợp không? Theo em thì nên thế nào?
Cả lớp bình chọn cặp trao đổi:
- Cặp trao đổi lý lẽ thuyết phục nhất.
- Cặp trao đổi tự nhiên nhất.
- Cặp trao đổi vui vẻ, dí dỏm, hài hước nhất …
d. Áp dụng, củng cố dặn dò:
Giáo viên cho học sinh lựa chọn một trong cách làm sau đây:
Thực hiện lại kịch bản đã viết với người thân.
Sưu tầm tư liệu và trình bày trên giấy khổ lớn về những điều thú vị của môn
năng khiếu em muốn theo học.
Sau bài học này đa số học sinh đạt được một số kỹ năng đã nêu trong yêu cầu,
song bên cạnh đó có một số học sinh chưa đạt sự đồng đều về kỹ năng, có một số
học sinh chưa kiên định khi gặp trường hợp người đóng vai anh chị nêu và phân tích
nhược điểm của môn năng khiếu ấy thì học sinh chuyển sở thích.
Rút kinh nghiệm tiết dạy: Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh nhiều trường
hợp có thể xảy ra khi trao đổi.
3. Gần gũi và tạo mối thân thiện với học sinh.
Để tạo sự gần gũi và gắn kết giữa học sinh và giáo viên, tôi đã chỉ đạo giáo
viên sắp xếp nhiều thời gian cho học sinh được giới thiệu về mình, động viên

khuyến khích các em chia sẻ với nhau về những sở thích, ước mơ tương lai cũng
như mong muốn của mình với các em. Đây là hoạt động giúp cô trò hiểu nhau, đồng
thời tạo một môi trường học tập thân thiện “Trường học thật sự trở thành ngôi
nhà thứ hai của các em, các thầy cô giáo là những người thân trong gia đình".
Đây cũng là một điều kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học
sinh. Bởi học sinh không thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên
luôn gò bó và áp đặt.
Tiếp theo trong tuần đầu, giáo viên cho học sinh tự do lựa chọn vị trí ngồi của
mình để qua đó phần nào nắm được đặc điểm tính cách của các em: mạnh dạn hay
nhút nhát, thụ động hay tích cực, thích thể hiện hay không thích...Và tiếp tục qua
những tuần học sau, bản thân chú ý quan sát những biểu hiện về thái độ học tập,
những cử chỉ, hành vi tại vị trí ngồi mà các em chọn để bắt đầu có điều chỉnh phù
hợp.
4. Động viên, khen thưởng.
Để động viên, khuyến khích học sinh thực hiện tốt việc rèn luyện các kỹ năng
sống thông qua phân môn Tập làm văn, tôi đã dự giờ thăm lớp, kiểm tra thường
xuyên, kiểm tra đột xuất và chỉ đạo giáo viên trong quá trình giảng dạy có thể động
viên các em: đúng rồi, em giỏi lắm, cô khen em; em nói đúng rồi, cả lớp khen bạn
nào!... Hay qua từng biểu hiện cụ thể của học sinh giáo viên có thể động viên:
11


- Cô rất thích cách xử lý của em, nên chia sẻ với các bạn em nhé!
- Cô rất hài lòng về việc làm của em, tiếp tục như thế em nhé!
- Lý lẽ em đưa ra rất thuyết phục, nếu em thể hiện tốt ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ
sẽ hiệu quả hơn nhé!...
Chỉ đạo giáo viên theo dõi hàng ngày, các em có biểu hiện tốt thì ghi vào sổ
tay, cuối tuần cho các bạn bình chọn những bạn thực hiện tốt sẽ được tuyên dương
trước lớp, trước cờ. Vì vậy các em đua nhau “Nói lời hay, làm việc tốt” và cuối tuần
nào cũng có rất nhiều em được tuyên dương. Mỗi học kì, lớp bình xét tổng kết một

lần để khen thưởng những em đã đạt được nhiều lần tuyên dương bằng một phần
quà nhỏ. Nhà trường cũng xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ dành một phần kinh phí
để khen thưởng cho các em. Các em rất vui và hãnh diện khi được tặng những món
quà của cô giáo, của nhà trường tặng. Vì thế các em không ngừng thi đua cố gắng
thực hiện tốt . Đây là một hình thức động viên về tinh thần rất giá trị và hiệu quả.
Các em sẽ nhanh nhẹn hơn, có đạo đức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong giao tiếp, tự tin
hơn trong cuộc sống.
5. Tuyên truyền tới các bậc cha mẹ học sinh thực hiện dạy các em các kỹ năng
sống cơ bản.
Trong nội dung các buổi họp cha mẹ học sinh, nhà trường đã đưa nội dung
“giáo dục kỹ năng sống” đến các giáo viên chủ nhiệm để giáo viên chủ nhiệm phổ
biến đến cha mẹ học sinh. Từ đó giáo viên và cha mẹ học sinh thấy được việc giáo
dục kỹ năng sống cho học sinh là vô cùng quan trọng.
Trước hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công
bằng với các em và đảm bảo an toàn cho các em, tạo điều kiện tốt nhất cho các em
vui chơi.
Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích các em nói lên quan điểm của mình, nói
chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa
chọn của mình, cần giúp các em hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn,
cố gắng không chỉ trích các quyết định của các em. Việc này sẽ hình thành kĩ năng
tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho các em khi tham gia các hoạt động
và các buổi thảo luận tại trường sau này.
Cô giáo, cha mẹ giúp các em phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo
rằng người lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để các em thực hiện ý thích đó.
Ví dụ: Một số học sinh thích vẽ, ngoài việc cho các em học năng khiếu vẽ thì
cô giáo, cha mẹ có thể cho các em thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho các em
cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính các em
hoặc triển lãm tranh của các em ở góc nhỏ trong nhà, trong lớp. Hay học sinh thích
học đàn thì tạo điều kiện để các em được tham gia các lớp bồi dưỡng thêm để các
em có đủ tự tin biểu diễn trên sân khấu trong những ngày lễ lớn của trường tổ chức:

20/11; Văn nghệ “ Mừng đảng – Mừng xuân”;...
Cô giáo, cha mẹ cần dạy các em những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết
cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; Cụ thể: Các em được làm quen với những đồ
dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng,
12


một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng,
thái độ ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm,
những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu… tất cả những yếu tố trên sẽ giúp các em có
thói quen tốt để hình thành kĩ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập
sau này.
Qua từng tiết dạy Tập làm văn, tôi đã chỉ đạo giáo viên hướng dẫn học sinh kĩ
năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công công việc, lắng nghe ý kiến người
khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến
đã thống nhất… Đây là kĩ năng hết sức cần thiết khi các em trưởng thành, làm việc
trong tập thể.
Trong từng tiết day Tập làm văn, giáo viên cần chú ý nâng dần kĩ năng giao
tiếp - tự nhận thức cho các em như biết sử dụng đúng các quy tắc: chào hỏi, xin
phép, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu… Biết cảm thông cảm chia sẻ buồn vui với mọi
người.
IV. KIỂM NGHIỆM
Sau thời gian thực hiện và các biện pháp đã nêu, kỹ năng sống của các em đã
tốt hơn rất nhiều. Điều đáng mừng là trong các tiết học Tập làm văn lớp 4 mà tôi đã
dự học sinh hào hứng hơn, tích cực hoạt động hơn. Học sinh biết chăm chú lắng
nghe, biết chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau, thực hành một cách tương đối chính xác. Tích
cực hợp tác, mạnh dạn, tự tin trình bày trước lớp. Đặc biệt học sinh tự tin cố gắng
vươn lên trong học tập, rất nhiều học sinh tiến bộ.
Kết quả thu được “Kĩ năng của em” Thời điểm khảo sát Tháng 2 - năm 2016
Đề bài: Em có nguyện vọng học thêm một môn năng khiếu (nhạc, họa, võ

thuật…). Trước khi nói với bố mẹ, em muốn trao đổi với anh (chị) để anh (chị) hiểu
và ủng hộ nguyện vọng của em.
Hãy cùng bạn đóng vai em và anh (chị) để thực hiện cuộc trao đổi.
- Kỹ năng nhận thức:
Tổng số học Xác định được điểm mạnh, Chưa biết điểm mạnh, điểm yếu của
sinh
điểm yếu của bản thân, xây bản thân, chưa biết cách khắc phục
dựng kế hoạch, tư duy tích khó khăn để đạt mục tiêu.
cực và sáng tạo.
SL
%
SL
%
26
26
100
0
0
- Kỹ năng xã hội:

Tổng số học Có kỹ năng vận động và gây Đôi lúc giao tiếp, ứng xử, xưng
sinh
ảnh hưởng, giao tiếp, ứng xử, hô chưa đúng mực. Chưa dám
xưng hô đúng mực, thuyết thuyết trình trước đám đông.
trình trước đám đông tốt.
SL
%
SL
%
26

26
100
0
0
- Kỹ năng quản lý bản thân:
13


Tổng số
học sinh

Biết làm chủ cảm xúc, quản lý
thời gian phù hợp.

28

SL
11

%
39,3

Chưa làm chủ được cảm xúc còn
lo lắng, sợ hãi, chưa biết quản lý
thời gian.
SL
%
17
60,7


PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
I. KẾT LUẬN

Không thể có một giáo trình cứng nhắc về kỹ năng sống vì cuộc sống luôn
thay đổi và giáo dục kỹ năng sống phải phù hợp với từng vùng miền. Một trong
những yêu cầu quan trọng để thực hiện việc lồng ghép giáo dục kỹ năng sống thông
qua phân môn Tập làm văn lớp 4 là giáo viên phải tìm ra được mối liên hệ giữa các
kỹ thuật dạy học với nội dung rèn kỹ năng sống.
Để đạt hiệu quả cao trong giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua phân
môn Tập làm văn lớp 4 thì bản thân giáo viên phải là người có kỹ năng
sống tốt, hiểu được tâm sinh lý lứa tuổi của từng học sinh của
mình. Giáo viên phải chuyên sâu nghiên cứu mục tiêu, nội dung,
phương pháp, thiết kế giáo án, làm đồ dùng dạy học phù hợp với
từng bài dạy và đạt được mục tiêu chung là giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn lớp 4. Giáo viên
phải có tâm huyết, kiên nhẫn và nhất là phải có thời gian. Ngoài ra giáo dục kỹ
năng sống không chỉ là công việc của giáo viên, nhà trường mà của cả xã hội, cộng
đồng. Phải kết hợp cả nhà trường, gia đình và xã hội mới mong đào tạo được những
học sinh phát triển toàn diện.
Xác định rõ tầm quan trọng của việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Luôn tạo mọi điều kiện để các em có thể bày tỏ, thể hiện mình, tham gia tốt
các buổi hoạt động ngoại khóa của trường, lớp.
Bằng nhiều hình thức khác nhau, nhà trường luôn chỉ đạo giáo viên cố gắng
rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản có hiệu quả, thể hiện rõ nét ở sự tiến bộ của
học sinh trong nhận thức, trong cư xử, đối xử tốt với bạn bè, người lớn và linh hoạt
xử lí trong mọi trường hợp.
II. ĐỀ XUẤT

1. Đối với giáo viên: Hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người, Tôn
trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ để

các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện.
2. Đối với nhà trường: Theo phương châm giáo dục hiện nay là: “Học để biết,
học để chung sống, học để tự khẳng định mình” nên: Nhà trường luôn phát động
phong trào này hơn nữa dưới nhiều hình thức.
14


3. Về phía phụ huynh: Trước hết là cần hiểu rõ tầm quan trọng của việc rèn
luyện kĩ năng sống cho con em, tạo một chỗ dựa vững chắc để trẻ chia sẻ, bày tỏ,
luôn phối kết hợp với nhà trường trong việc giáo dục và rèn luyện cho các em, theo
dõi mọi biểu hiện của trẻ để có sự giáo dục cho phù hợp.
4. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo: Tổ chức nhiều buổi hội thảo về tiết
dạy lồng ghép giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh để chúng tôi có điều kiện
giao lưu, học hỏi kinh nghiệm của các đồng chí, đồng nghiệp.
Vì khả năng bản thân có hạn nên đề tài rất khó tránh khỏi thiếu sót. Tôi kính
mong các đồng nghiệp, phòng Giáo dục và Đào tạo, các cấp lãnh đạo góp ý thêm để
đề tài được hoàn thiện.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hà Trung, ngày 27 tháng 02 năm 2016
CAM KẾT KHÔNG COPY
NGƯỜI VIẾT:

Nguyễn Thị Hà

15




×