Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số BIỆN PHÁP GIÚP học SINH lớp 4, lớp 5 rèn kĩ NĂNG làm văn MIÊU tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.99 MB, 21 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN TRƯỜNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4, LỚP 5
RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ”

Người thực hiện: Nguyễn Thị Minh Lan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Yên Trường – Yên Định
SKKN thuộc lĩnh mực : Môn Tiếng Việt

YÊN ĐỊNH, NĂM 2019
0


MỤC LỤC
1. PHẦN MỞ ĐẦU

2

1.1 Lí do chọn đề tài

2

1.2. Mục đích nghiên cứu

2

1.3.Đối tượng nghiên cứu


3

1.4: Phương pháp nghiên cứu

3

2. NỘI DUNG

3

2.1. Cơ sở lí luận

3

2.2. Thực trạng

4

a. Thuận lợi

4

b. Khó khăn

4

c. Thực trạng

4


2.3. Các giải pháp thực hiện

5

2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, ghi
chép và lập dàn ý.

5

2.3.2. Giải pháp thứ 2: Hướng dẫn học sinh biết cách sử
dụng các biện pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, ... trong bài văn miêu
tả.

7

2.3.3. Giải pháp thứ 3: Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ
ngữ thông qua các môn học khác.

9

2.3.4. Giải pháp thứ 4: Rèn luyện thao tác kĩ năng viết một
bài văn hoàn chỉnh cho học sinh.

11

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

15

16

3.1. Kết luận

16

3.2. Kiến nghị

16

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Văn là tiếng nói tình cảm, là hình thức thuần nhị và sắc bén của tư tưởng, có
tác dụng sâu rộng và bền lâu trong đời sống tinh thần của học sinh.
Đối với học sinh Tiểu học, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính tổng
hợp, đòi hỏi học sinh phải bộc lộ cả năng lực Tiếng Việt lẫn khả năng cảm thụ, thái
độ cảm xúc của mình. Vì vậy trong dạy phân môn Tập làm văn nói chung và dạy
văn miêu tả nói riêng, chúng ta coi trọng sự sáng tạo, cá tính, suy nghĩ riêng của học
sinh thì các em mới tạo ra được những sản phẩm chân thực, thể hiện được đúng tình
cảm và nhận thức của mình. Dạy văn miêu tả là giúp cho học sinh kỹ năng thực
hành vận dụng những hiểu biết về Tiếng Việt để nói, viết được một bài văn miêu tả.
Ở khía cạnh khác văn miêu tả còn giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát, tư duy,
khả năng sử dụng các giác quan một cách tinh tế, nhạy cảm để tiếp nhận những tri
thức vốn rất đa dạng và phong phú từ cuộc sống để biến nó thành cái độc đáo của
riêng mình. Một bài văn miêu tả hay là phải tả thật. Trong quá trình làm bài văn
miêu tả, người viết sử dụng các thao tác tư duy, các mối quan hệ chặt chẽ của ngữ
pháp văn bản. Ngoài ra bài viết còn là sự nhận thức đúng đắn về đối tượng miêu tả

và thể hiện được cảm xúc chủ quan của người viết. Muốn làm được điều đó người
viết phải trải qua quá trình quan sát công phu, tỉ mỉ, phải cảm nhận đối tượng miêu
tả bằng tất cả các giác quan. Từ quan sát trực tiếp các em có cơ sở để tạo ra cái mới
cái đẹp, từ đó mới hình thành được bài viết trong ý thức. Được tiếp xúc với thiên
nhiên, với loài vật, ... và nhìn nhận chúng với cái nhìn trung thực đầy thiện chí sẽ
làm cho các em thấy mọi điều đáng yêu hơn. Các em biết xây dựng cho mình năng
lực cảm thụ riêng, cho một tấm lòng biết rung động trước cái hay, cái đẹp. Các em
biết tự nhận xét về mình, biết loại trừ cái xấu để vươn tới cái đẹp chân – thiện – mĩ.
Chính vì vậy, khi giảng dạy người giáo viên phải biết vận dụng quá trình nhận thức
đó vào tiến trình bài giảng để phù hợp với tư tưởng, tâm lý học sinh để dần dần hình
thành nhân cách cho các em.
Là một cán bộ quản lí phụ trách công tác chuyên môn, trong nhiều năm học,
qua theo dõi giám sát, kiểm tra đánh giá chất lượng các môn học và hoạt động giáo
dục tôi thấy học sinh và giáo viên có nhiều cố gắng, đặc biệt là môn Tiếng Việt.
Song thực tế cho thấy khi học phân môn Tập làm văn thì vẫn nhiều em còn lúng
túng, kết quả học tập chưa cao. Với suy nghĩ làm thế nào để học sinh viết được một
bài văn hay và tự tin trong học tập? Tôi đã trăn trở, suy nghĩ, tìm tòi và sưu tầm tài
liệu nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập làm văn, tháo gỡ những khó khăn
trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4,5 rèn kĩ
năng làm văn miêu tả.”
1.2 Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc điều tra nghiên cứu thực trạng dạy và học ở trường Tiểu học,
tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp một phần công sức
của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên cứu đề tài, tôi
mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn giảng
dạy phân môn Tập làm văn trong trường Tiểu học nói riêng, trong ngành giáo dục
2


huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công, đồng thời là

chất lượng học tập của các em học sinh cũng sẽ được nâng lên một cách đáng kể.
Giúp học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo yêu cầu. Trên cơ sở kiến
thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, các em vận dụng tốt ở các lớp trên.
1.3 Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp giúp học sinh lớp 4,5 trường Tiểu học Yên Trường – Yên
Định – Thanh Hóa về rèn kĩ năng làm văn miêu tả.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện kinh nghiệm này, tôi đã sử dụng những phương
pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Sưu tầm, đọc nghiên cứu
tài liệu, bài báo có liên quan đến việc nghiên cứu.
+ Phương pháp phân tích tổng hợp.
+ Phương pháp khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
+ Phương pháp luyện tập thực hành: Thông qua bài học, bài viết kiểm tra của
học sinh.
+ Phương pháp trao đổi tranh luận.
+ Phương pháp thông kê, xử lí số liệu.
Trong các phương pháp trên, khi nghiên cứu tôi vận dụng hài hòa các phương
pháp để tìm ra các giải pháp đạt kết quả tốt nhất.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học, văn miêu tả chiếm một vị trí quan
trọng. Ở chương trình Tiếng Việt lớp 4, văn miêu tả được dạy 30 tiết với 3 kiểu bài
cụ thể: Tả đồ vật, Tả cây cối, Tả con vật. Chương trình Tiếng Việt lớp 5 tiếp tục dạy
về văn miêu tả với hai kiểu bài: Tả cảnh – 14 tiết; tả người – 12 tiết. Các bài văn
thường gắn với chủ điểm của đơn vị học. Qua quá trình thực hiện kĩ năng phân tích
đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn văn là giúp học sinh mở rộng hiểu biết về cuộc sống
theo các chủ điểm đã học. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn bài văn kể
chuyện, miêu tả, ... giúp học sinh nâng cao khả năng phân tích tổng hợp. Tư duy
hình tượng của các em cũng được rèn luyện nhờ vận dụng các biện pháp tu từ như:

so sánh, nhân hóa, điệp từ điệp ngữ, .... khi miêu tả cảnh, tả người. Học các tiết Tập
làm văn học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua
các bài văn đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề tập làm văn, học sinh lại có dịp
hướng tới cái hay, cái đẹp của chân, thiên, mĩ được định hướng trong các đề bài.
Nhưng cơ hội đó làm cho tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên, với con người
và việc xung quanh được nảy nở, tâm hồn của học sinh thêm phong phú. Đó cũng là
những nhân tố quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của học sinh.
Trong văn miêu tả, người ta không đưa ra những nhận xét chung chung, hời
hợt hoặc những lời đánh giá trừu tượng về đối tượng mà văn miêu tả giúp người đọc
nhìn thấy được sự vật, hiện tượng, cảnh vật, thiên nhiên, ... một cách sinh động, cụ
thể qua việc sử dụng ngôn ngữ. Hình ảnh miêu tả không phải là nhìn ảnh chụp lại,
3


sao chép lại nhưng nó giúp người đọc thấy rõ đối tượng như đang xem tận mắt.
Miêu tả còn là sự kết tinh của những nhận xét tinh tế, những rung động sâu sắc mà
người viết đã ghi lại được khi quan sát tìm hiểu đối tượng. Mỗi bài văn miêu tả đều
thể hiện rõ tình cảm của người viết. Tình cảm đó có thể là sự yêu thương hay căm
ghét; cũng có thể là sự gắn bó thân thiết hay hời hợt nông cạn. Trong văn miêu tả,
đối tượng rất đa dạng, phong phú. Đó có thể là con người (ông bà, cha mẹ, thầy
cô, ....); hay đó là cảnh thiên nhiên, con vật, đồ vật, ... nên chúng có những đặc điểm
khác nhau. Chính vì thế, việc giúp các em thấy rõ những nét riêng đó của mỗi đối
tượng là rất quan trọng, tạo điều kiện cho các em viết được những bài văn miêu tả
vừa đúng thể loại, vừa mang những nét riêng của đối tượng và thể hiện cá tính của
người viết.
Muốn có bài tập làm văn đạt kết quả cao, đòi hỏi mỗi em phải chịu khó tập
viết, tập nói, tập dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn nhiều lần. Mà không ngại tập đi tập
lại, không ngại sửa đi sửa lại đoạn văn, câu văn đã viết. Và chính bản thân giáo viên
cũng kiên trì hướng dẫn học sinh luyện tập và giúp các em sửa chữa sai sót. Một câu
châm ngôn đã nói: “Tài năng một phần mười là bẩm sinh, chín phần mười là do lao

động kiên trì làm nên”.
2.2. Thực trạng
a. Thuận lợi
- Được sự quan tâm của cấp uỷ, chính quyền địa phương, sự chỉ đạo về
chuyên môn của ngành giáo dục huyện, UBND huyện, sự quan tâm hỗ trợ về cơ sở
vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho việc dạy và học của cha mẹ học sinh trường
Tiểu học Yên Trường.
- Trường đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu đội ngũ CBGV-NV. Đa số là giáo
viên trẻ, nhiệt tình, trình độ trên chuẩn đạt 100%. Tiếp cận chương trình đổi mới
Giáo dục phổ thông nhanh, có hiệu quả. Có kiến thức để vận dụng trong dạy và học.
Biết sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và học.
- Học sinh ngoan ngoãn, lễ phép, có ý thức tự giác trong học tập và rèn luyện,
biết nghe lời thầy cô giáo. Đa số phụ huynh quan tâm mua sắm đầy đủ sách vở đồ
dùng học tập cho các em.
b. Khó khăn
- Một bộ phận gia đình học sinh kinh tế còn khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa.
Vì vậy việc quan tâm mua đủ sách, vở, đồ dùng học tập cho các em chưa đáp ứng
đầy đủ phục vụ việc dạy học 2 buổi/ ngày.
- Địa phương Yên trường là một nơi dân cư chủ yếu sinh sống bằng nghề
buôn bán và nông nghiệp, điều kiện kinh tế phát triển không đồng đều dẫn đến việc
quan tâm chăn lo học hành cho con cái của họ còn rất hạn chế, còn giao phó cho
giáo viên.
- Phân môn Tập làm văn tương đối khó với học sinh do đó nhiều em không
thích học. Mặt khác học sinh không được mở mang tầm nhìn chỉ bó hẹp trong vùng
thôn quê, ít phong cảnh đẹp, vốn từ ngữ tự nhiên hạn chế.
c. Thực trạng
4


Qua thực tế việc dạy học ở trường Tiểu học, đặc biệt là lớp 4 và lớp 5 tôi

nhận thấy một số vấn đề như sau:
- Đa số các bài viết của các em chưa có sự sáng tạo, còn mang tính liệt kê nhiều
hơn miêu tả.
- Bài viết chưa chọn được nhiều ý hay, miêu tả còn hời hợt sáo rỗng, kém tự
nhiên.
- Các em sử dụng từ ngữ còn nhiều chỗ chưa hợp lý, giọng văn gượng gạo.
- Các bài viết của các em chưa bày tỏ được tình cảm chân thực với đối tượng
miêu tả, còn bắt chước bài mẫu một cách dập khuôn, máy móc; chưa tìm ra được
cái mới, cái riêng, cái độc đáo.
- Bài viết ít khi sử dụng được các biện pháp nghệ thuật (tu từ, so sánh, nhân hóa)
để miêu tả.
Kiểm tra chất lượng viết bài văn miêu tả của học sinh lớp 4A; Lớp 4B; lớp 5A;
lớp 5B cuối học kì I năm học 2017 – 2018 với đề bài sau:
Đề bài (lớp 4): Tả một đồ dùng học tập mà em yêu thích.
Đề bài (lớp 5): Tả một người thân đang làm việc.
Kết quả thu được như sau:
Lớp

Điểm

9, 10
SL

TL

7, 8
SL

5, 6
TL


SL

<5
TL

SL

TL

TSHS
4A

30

8

26,7

12

40,0

8

26,7

2

6,6


4B

30

7

23,3

12

40,0

8

26,7

3

10,0

5A

27

6

22,3

11


40,7

9

33,3

1

3,7

5B

27

6

22,3

10

37,0

10

37,0

1

3,7


2.3. Các giải pháp thực hiện
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, ghi chép và lập
dàn ý
Việc quan sát trong văn miêu tả rất là quan trọng. Quan sát để nhằm kể, tả
một đối tượng cụ thể, nó đòi hỏi phải vừa viết chi tiết, cụ thể vừa có tính khái quát.
Qua chi tiết, các em phải làm cho người đọc thấy được bản chất của sự vật. Vì vậy
quan sát phải có lựa chọn. Nó yêu cầu các chi tiết phải cụ thể nhưng không phải là
những chi tiết rời rạc, tản mạn mang tính liệt kê. Chúng ta không cần đưa ra quá
nhiều chi tiết mà phải chọn lọc. Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của người
và vật. Khi quan sát cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan và điều quan trọng là
phải quan sát bằng tâm hồn. Để quan sát tốt cần xác định được vị trí quan sát (trước,
sau), trình tự (từ ngoài vào trong; từ trên xuống dưới; từ xa đến gần) và nội dung
quan sát. Khi đã quan sát cần phải bám theo một trình tự quan sát nhất định.
Bài văn tả con vật, giáo viên hướng dẫn quan sát: Trước tiên xác định vị trí quan
sát, trình tự quan sát(từ bao quát đến cụ thể) như: hình dáng con vật (con vật cao, to
5


thế nào?), màu lông, sau đó quan sát các bộ phận tiêu biểu của con vật (ví dụ: mặt,
mắt mũi tai, miệng, chân, đuôi, ...), hoặc hoạt động của con vật (chạy, nhảy, ăn,
kiếm mồi, làm việc theo sự sai khiến của người, ...), hoặc hoạt động của con người
với con vật (chăm sóc: cho ăn, tắm, dạy làm việc...).
Thường khi quan sát học sinh thấy cái gì tả cái đó nên sau khi quan sát chi tiết
và tỉ mỉ, cần hướng dẫn học sinh lựa chọn để giữ lại những chi tiết quan sát tiêu
biểu cho con vật đó về hình dáng, màu sắc, một vài bộ phận tiêu biểu, hoạt động, lợi
ích. Đặc biệt tìm ra cái không bình thường và thể hiện được cái nghịch lí đó.
Ví dụ: Đề bài: Quan sát một con vật nuôi trong nhà mà em thích và ghi lại
những quan sát của em.
Tôi sẽ gợi ý cho học sinh bằng những câu hỏi như sau:

- Tên con vật, ai nuôi, đã được bao lâu, vẻ đẹp của con vật khiến em yêu thích
là gì?
- Hình dáng của con vật, màu sắc của lông, một đặc điểm nổi bật nhất của con
vật (đặc điểm về giống loài, về tính tình và thói quen, về hoạt động, về hình
dáng, ...)
- Một số bộ phận của con vật:
+ Đầu: hình dáng, màu lông, hoạt động, đặc điểm riêng.
+ Mặt: mắt, tai, mũi, miệng, có đặc điểm gì? (mỗi bộ phận cần quan sát hình
dáng, màu sắc, hoạt động, đặc điểm riêng khác,...)
+ Chân: mấy chân (hoặc mấy vây), hình dáng, màu sắc, hoạt động, đặc điểm
riêng khác?
- Một số hoạt động của con vật: ăn, chạy, nhảy hoặc chơi, bơi lội, đùa giỡn,....
Sau khi cho học sinh quan sát kĩ con vật nuôi trong nhà và với các câu hỏi gợi ý
trên, thì tất cả 27/27 học sinh có bài làm và kết quả thu được tương đối tốt. Cụ thể
có:
9 bài đạt điểm 9 – 10
10 bài bài đạt điểm 7 – 8
8 bài đạt điểm 5 – 6 không còn bài dưới điểm 5. Tiêu biểu nhất là bài của em Lê
Thị Linh Chi:

6


2.3.2. Giải pháp thứ 2: Hướng dẫn học sinh biết cách sử dụng các biện
pháp tu từ, so sánh, nhân hóa, ... trong bài văn miêu tả
Một bài văn miêu tả hay là bài văn giàu chất gợi cảm trên cơ sở biết sử dụng
các tính từ, từ tượng thanh, từ tượng hình, từ láy và các hình thức tu từ như điệp từ,
điệp ngữ, so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, ... tạo nên sự hòa đồng, vừa dễ nhận
thấy, vừa giàu sức gợi cảm, vừa gần gũi, vừa gợi tả.
Vì vậy một trong những yếu tổ quan trọng làm nên cái hay, cái đẹp của bài văn

miêu tả chính là biết sử dụng từ ngữ gợi tả, gợi cảm và dùng các biện phát tu từ, so
7


sánh, nhân hóa, .... Chính vì thế khi hướng dẫn học sinh miêu tả, tôi luôn hướng
dẫn học sinh:
- Về màu sắc các em nên dùng các từ láy hoặc từ ghép để tả vì những từ này thể
hiện được nhiều mức độ của màu sắc.
Ví dụ: Tả lông của con vật, giáo viên hướng dẫn các em đưa ra các từ chỉ màu
sắc: như đen, trắng, xám, nâu, ...
Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm được những từ ghép hoặc từ láy để thay thế
cho từ “đen” tả bộ lông của con vật này (đen tuyền, đen mượt, đen bóng, đen như
gỗ mun; trắng muốt, trắng tinh, trăng trắng; xám xịt, xam xám, nâu nâu,. ..) hoặc
các cụm từ như trắng và đen, vàng và có những đốn xám, đen và có những khoang
trắng, nâu và có những chỗ pha đen,...
- Hay về hình dáng hoặc ngoại hình, bộ phận của đồ vật, cây cối, con vật, … hay
khi tả hình dáng từng sự vật trong cảnh (cây cối, con vật, các sự vật có trong tự
nhiên như bầu trời, đám mây, núi sông, suối, ... tôi hướng dẫn cho các em nên so
sánh tưởng tượng, liên tưởng để tạo ra các hình ảnh so sánh hay nhân hóa làm cho
sự vật miêu tả như có tâm trạng, tính nết, cách ứng xử của con người, giúp người
đọc, người nghe hình dung rõ ràng, cụ thể hơn về con vật hay bộ phận cơ thể của
nó, đồng thời gợi cảm giác thú vị ở người nghe, người đọc.
Ví dụ: Tả hình dáng con cá vàng có thể so sánh với nàng công chúa con vua
Thủy Tề, ... hay khi tả hai cái tai của con mèo có thể so sánh với hai chiếc nấm
mèo, tả cái miệng của em bé: đôi môi bé căng mọng, đỏ chót như cánh hoa hồng
nhung, ... Hay khi tả hình dáng quả bưởi có thể so sánh với quả bóng tròn và to, tả
những đó hoa có thể nhân hóa nó thành những nàng công chúa kiêu hãnh,...
- Tả hay về âm thanh của sự vật các em cần dùng các từ mô tả âm thanh có
trong tự nhiên.
Ví dụ: Tả tiếng chim hót có thể dùng các từ mô phỏng âm thanh thánh thót như

tiếng sáo diều khi gần, khi xa. Tả tiếng cười của người đàn ông lớn tuổi có thể dùng
từ khà khà, ... tiếng cười của trẻ con có thể dùng từ khúc khích, khanh khách, tiếng
mưa rơi nên dùng từ rào rào, ào ào (nếu mưa to và mạnh), mưa lộp độp (nếu mưa
chậm nhưng nặng hạt), ....
Sau khi hướng dẫn học sinh cách lựa chọn từ ngữ đã cho học thực hành thông
qua đề kiểm tra sau:
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn 5 – 7 câu tả về một vài bộ phận của cây
trong đó có sử dụng phép so sánh, nhân hóa.
Nhìn chung tất cả 30 học sinh lớp 5A đều đã được sử dụng phép so sánh, nhân
hóa để viết đoạn văn theo đúng yêu cầu của đề bài một cách có hiệu quả và bài làm
được đánh giá tốt nhất là bài của em Nguyễn Minh Thư:

8


2.3.3. Giải pháp thứ 3: Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ ngữ thông qua
các môn học khác
Phân môn Tập đọc
* Giúp các em tích lũy vốn từ ngữ miêu tả qua các bài tập đọc: Những bài tập
đọc là các bài văn miêu tả. Hướng dẫn học sinh phát hiện cái hay, sự sáng tạo của
các nhà văn khi dùng chúng.
Ví dụ: Dạy bài “Quang cảnh làng mạc ngày mùa” (Tiếng Việt 5, tập 1), tôi đã
phân tích cách dùng từ ngữ để diễn tả màu sắc của tác giả. Tác giả đã sử dụng rất
nhiều từ chỉ màu vàng nhưng mỗi từ được dùng để miêu tả những đối tượng khác
9


nhau. Các từ ngữ tác giả chọn trong bài văn miêu tả rất chính xác, phù hợp với đối
tượng miêu tả. Hướng dẫn học sinh nhận xét cách dùng từ của tác giả để từ đó các
em thấy được giá trị của cách dùng từ khi viết bài, không dùng từ một cách tùy tiện.

Ví dụ: Màu lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại. Nắng nhạt ngã màu vàng hoe.
+ Nếu các em dùng hai từ “vàng xuộm” và “vàng hoe” đổi chỗ cho nhau đọc lên
em cảm thấy thế nào?
+ Màu lúa chín dưới đồng vàng hoe. Nắng nhạt ngả màu vàng xuộm.
Như vậy câu văn không hay, không phản ánh được đúng đối tượng miêu tả,
cách dùng từ như vậy là thiếu chính xác. Tôi đã cho học sinh dùng từ chỉ màu vàng
khác nhau thay thế vào câu văn để các em so sánh. Qua đó học sinh thấy được giá
trị của việc dùng từ để tích lũy vào vốn từ của mình.
Cũng còn có rất nhiều bài tập đọc cho ta thấy cách dùng từ ngữ miêu tả rất hay
và thật đa dạng. Tôi luôn tận dụng vốn quý này để nhân vốn từ ngữ của từng học
sinh bằng cách cho học sinh ghi vào sổ tay những từ ngữ hoặc những câu văn hay.
Đồng thời tôi thường xuyên theo dõi và xem quyển sổ tay của học sinh trước mỗi
giờ tập làm văn. Có như vậy mới giúp các em học sinh tích dần vốn từ ngữ của
mình.
Đọc tác phẩm văn học truyện ngắn, thơ... cũng là dịp để học sinh tích lũy vốn
từ ngữ miêu tả. Với biện pháp này, tôi thường xuyên nhắc nhở học sinh đọc ở nhà,
xem bài đọc thêm, tham khảo những bài văn hay.
* Phân môn Luyện từ và câu
Việc dạy – học phân môn Luyện từ và câu cũng là một dịp để các em không chỉ
hiểu rõ từ mà còn mở rộng chúng khi dùng những từ gần nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: Các em được học bài mở rộng vốn từ: nhân hậu – Đoàn kết ở lớp 4, do vậy
khi dạy bài Tổng kết vốn từ, tôi đưa ra bài tập:
“Tìm những từ nói lên lòng nhân hậu đoàn kết của con người?”
(Học sinh có thể tìm các từ: yêu quý, yêu mến, kính trọng, kính yêu, kính trên
nhường dưới, trên kính dưới nhường, hiếu thảo, gần gũi, thân mật, hòa thuận, đầm
ấm, gắn bó, thương yêu, đùm bọc, che chở, san sẻ, chan hòa ...)
Hay trong tiết Luyện từ và câu của tuần 16, tôi đưa lên cho các em bài tập:
“Tìm các từ miêu tả tính tình vui vẻ của một người?”
(Do các em đã được học bài mở rộng vốn từ: Lạc quan yêu đời ở lớp 4 nên hầu
hết các em tìm được các từ: vui vẻ, vui sướng, vui thích, vui tính, vui tươi, vui

nhộn....)
Ví dụ: Khi miêu tả người tôi thường xuyên nêu lên cho học sinh thấy bên cạnh từ
“đẹp” còn có hàng loạt từ ngữ khác như: xinh xắn, dễ coi, ưa nhìn, dễ nhìn, .... Bên
cạnh từ “ẳm” còn có từ: bế, bồng, ôm, nâng, địu, cõng,....
Từ đó, giúp các em có vốn từ ngữ về miêu tả đặc điểm, tính cách của con người,
giúp các em vận dụng vào viết văn. Em Đỗ Thị Trang Nhung đã viết được đoạn văn
như sau:

10


“Bạn Lan là một người vui vẻ, sống chan hòa với mọi người. Lan luôn sẵn sàng
giúp đỡ bạn bè lúc khó khăn. Ở nhà, đối với ông bà, cha mẹ Lan là người cháu hiếu
thảo, đối với em Lan là người chị dịu dàng, luôn nhường nhịn các em...”
Việc học và mở rộng vốn từ láy, từ tượng thanh, từ tượng hình cũng có ý nghĩa
tích cực với việc tích lũy vốn từ ngữ miêu tả của học sinh (róc rách, rì rầm, thánh
thót, ngân nga, ...; ngoằn ngoèo, chót vót, thăm thẳm, mênh mông, ngọt ngào, ...).
Những từ ngữ này giúp rất nhiều cho học sinh khi tả các con vật, cây cối, tả người,
tả cảnh....
Tiết Luyện từ và câu ở lớp 4, lớp 5 có loại bài dùng từ đặt câu, viết thành một
đoạn văn ngắn theo chủ đề đã xác định nhằm luyện cho học sinh cuối cấp Tiểu học
kĩ năng sử dụng từ ngữ ở mức độ cao, trực tiếp phục vụ cho việc làm văn. Ở những
bài tập này, tôi thường gợi ý hướng làm bài cho các em bằng một số câu hỏi nhằm
viết một đoạn văn mạch lạc, đúng chủ đề cho trước (hoặc vấn đề do học sinh tự
chọn theo yêu cầu của đề bài).
Tôi đưa ra một chủ đề, yêu cầu học sinh tìm những từ ngữ thuộc chủ đề đó và viết
một đoạn văn miêu tả có sử dụng các từ mà các em vừa tìm được.
Ví dụ: Đưa ra chủ đề “Mùa xuân”, các em học sinh tìm được là: hoa đào, mưa
phùn, chim én, đâm chồi, nảy lộc, âm ấp, xanh non, ...
Tôi đưa ra một số từ ngữ, yêu cầu học sinh sắp xếp lại các từ ngữ đó theo chủ đề

và đặt tên cho từng chủ đề phù hợp với các từ mà các em vừa sắp xếp được.
Ví dụ: Cho các từ sau:
Cao lớn, trung thực, lười nhác, giả dối, nhỏ bé, chăm chỉ, sần sùi, trắng trẻo,
mịn màng, lực lưỡng, mảnh mai, mảnh khảnh, đen đủi, mập mạp, còm nhom, gian
giảo, nhút nhát, bạo dạn, chất phác, nhu nhược, hèn yếu, anh dũng, siêng năng,
lười biếng, táo bạo, ....
- Hãy chia các từ trên thành hai nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm.
- Tìm các cặp từ trái nghĩa trong cùng một nhóm.
Ở bài tập này giúp học sinh có khả ngăng lựa chọn một từ trong nhóm từ cùng
nghĩa – gần nghĩa – trái nghĩa để diễn đạt chính xác nội dung của một câu văn, đoạn
văn mà mình định viết.
Dạng bài tập này, với cách làm trên, sẽ giúp học sinh xác định rõ nội dung và
chủ đề của đoạn văn định tả, xác định rõ bố cục của đoạn văn tránh được hiện tượng
viết đoạn văn không rõ chủ đề, không rõ nội dung hoặc lạc đề, lạc yêu cầu của bài
và khi viết bài văn các em sẽ xác định được đoạn này ở vị trí nào trong bài tránh
được tình trạng lặp ý, lặp đoạn làm cho việc giảng dạy cũng như học tập làm văn
của giáo viên và học sinh nhẹ nhàng và có chất lượng hơn.
2.3.4. Giải pháp thứ 4: Rèn luyện thao tác kĩ năng viết một bài văn hoàn
chỉnh cho học sinh
Các em đã qua các khâu chuẩn bị như quan sát tìm ý, tích lũy vốn từ, ... và công
đoạn cuối cùng của việc dạy văn miêu tả là viết thành đoạn văn, bài văn hoàn chỉnh.
Có thể nói, mọi bài văn nói chung đều có các nội dung, yêu cầu khác nhau nhưng
chúng đều có cấu trúc gồm ba phần:
1. Phần mở bài, thân bài, kết bài.
11


2. Có thể mở bài theo kiểu trực tiếp hay gián tiếp và kết bài theo kiểu mở rộng
hoặc không mở rộng.
3. Trong phần thân bài, trước hết, nên tả bao quát toàn bộ đồ vật, con vật, cây cối,

…rồi tả những bộ phận có đặc điểm nổi bật.
Sau đây là cách tôi đã hướng dẫn các em học sinh cách viết từng phần:
Viết đoạn mở bài: Với phần này yêu cầu các em giới thiệu đối tượng miêu tả.
Các em có thể viết vào bài trực tiếp hoặc gian tiếp, có em mở bài bằng một câu
nhưng có em viết bằng cả một đoạn văn, nhưng không ai được phép tách rời nội
dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của mỗi em mà giáo viên góp
ý, không gò bó áp đặt.
Ví dụ: Đề bài “Tả cụ già mà em kính yêu”
+ Có em viết mở bài đi thẳng luôn vào đề: “Trong gia đình em, có một người
mà em rất mực yêu quý, đó là bà nội của em (chỉ bằng một câu, nhưng đủ ý).
Hoặc: Trong gia đình, em yêu nhất là bà ngoại.
+ Có em mở bài hơi dài nhưng sinh động, gây ấn tượng ngay từ phút đầu:
“Bà ơi bà, cháu yêu bà lắm!”
Tôi vừa hát vừa chải tóc trắng như cước của bà. Bà là bà nội của tôi, ở với bố mẹ từ
khi nhà tôi còn ở tận miền Bắc chuyển vào Nam sống cho đến bây giờ.
Hoặc: “Bà ơi, cháu đau đầu quá bà ạ!” Vừa về đến nhà, tôi vội cất cặp và
chạy xuống bếp. Bà tôi đang lúi húi nhặt rau. Nghe thấy vậy, bà dừng tay ngay. Bà
lau tay rồi sờ lên trên trán tôi:
- Thôi chết, cháu tôi ốm rồi! Thế đi học cháu có đội nón không?
Tôi mếu máo: “Thưa bà, cháu quên đội ạ!”
Với những tình thương ấy đã làm cho tôi càng yêu kính bà nhiều hơn.
+ Có em mở bài rất chân thành và xúc động:
“Mùa xuân xinh đẹp lại về rồi. Năm mới, cháu lại thêm một tuổi mới. Nhưng
xuân này, cháu đã vĩnh viễn mất bà, bà ơi. Bà có biết không? Nhiều đêm cháu
không ngủ được vì nhớ bà, lòng luôn mong mỏi bà về với cháu dù chỉ trong giấc
mơ. Những kỉ niệm xưa vẫn còn sống mãi trong tâm trí cháu, bà ơi!”.
Khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách làm khác nhau
mà vẫn đảm bảo được nội dung chính.
* Viết đoạn thân bài: Với phần này học sinh cần đi sâu vào miêu tả đối tượng,
từ bao quát đến chỉ tiết với những đặc điểm nổi bật qua sự cảm nhận của bản thân

sao cho người đọc có thể hình dung ra đúng đối tượng cần miêu tả. Mặt khác, cần
hướng dẫn các em miêu tả theo một trình tự hợp lý. Mỗi ý chính trong dàn bài được
phát triển thành một đoạn văn. Mỗi đoạn văn phải có câu mở đầu và câu kết đoạn. Ở
phần này tôi đặc biệt chú ý đến cách dùng từ của các em. Yêu cầu các em sử dụng
các biện pháp nghệ thuật trong từng câu viết như nghệ thuật so sánh, nhân hóa, biện
pháp tu từ, dùng phép liên tưởng, ẩn dụ hoặc hoán dụ, ....
* Viết phần kết bài: Có nhiều cách kết bài khác nhau nhưng tất cả đều phải
xuất phát từ nội dung chính. Cũng như mở bài, học sinh nêu cảm xúc hoặc thâu tóm
lại vấn đề thì cũng có thể bằng nhiều cách nhưng nên chọn cách nào cho hay.
12


Có em chỉ liệt kê sự việc, cảm xúc như: “Em rất thích bà vì bà thương em nhiều
nhất”. Tôi yêu cầu học sinh nêu kết bài khác, có em đã nêu: “Cuộc đời bà là một
vầng hào quang tỏa sáng muôn nơi. Bà là hiện thân của một bà tiên trong các câu
chuyện cổ tích. Thường thường trước lúc chia tay với bà, em gửi lại bà tất cả tình
yêu thương kính trọng của đứa cháu qua lời ca của nhạc phẩm “Cháu yêu bà”. Với
những kết luận giàu cảm xúc hay được biểu hiện kín đáo, gián tiếp, có biểu cảm. Vì
mỗi em mỗi cách, mỗi em mỗi vẻ nên tôi hướng dẫn cho các em thấy cách nào hay
hơn. Chính vì vậy, có rất nhiều kết bài khác nhau khi tả bà của mình.
Ví dụ: + Bà của tôi là thế đấy!
+ Đến nay, bà đã đi xa, nhưng những kỉ niệm về bà vẫn còn sống mãi trong trái
tim tôi.
+ Tình cảm sâu sắc, đằm thắm giữa tôi với bà là tình cảm sâu lắng nhất mà tôi còn
giữ mãi trong suốt cuộc đời.
Trong việc hướng dẫn học sinh diễn đạt thì biện pháp chủ yếu của tôi là chia thành
các ý nhỏ cho nhiều học sinh phát biểu và còn chú ý quan tâm nhất đối với những
học sinh còn yếu khi viết văn. Sau đó chắt lọc, hướng dẫn cho học sinh cách nào
được, cách nào chưa được để phát huy sửa chữa.
Kết quả có rất nhiều bài viết hay như bài của em Đỗ Thị Phương Vy:


13


Với đề bài: Hãy tả một đồ vật mà em yêu thích. Tôi cũng hướng dẫn các em
bám sát gợi ý của từng phần và sử dụng vốn từ ngữ đã học để hoàn thành một bài
văn đủ ba phần rõ ràng, tiêu biểu như bài của em Đỗ Trang Nhung lớp 4A sau đây:

14


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường
Sau một thời gian suy nghĩ và áp dụng những biện pháp trên, tôi nhận thấy các
em có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn, biết thực
hiện làm một bài văn miêu tả theo thứ tự các bước một cách độc lập và thành thói
15


quen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi
chính tả, dùng từ đặt câu .... đã giảm hẳn gần như không còn hoặc còn rất ít.
Nhiều học sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ, so sánh, ... vào bài
của mình làm cho bài văn trở nên sinh động, giàu hình ảnh. Bên cạnh đó, các em
còn biết làm văn có cảm xúc, câu văn chau chuốt hơn, có hồn hơn,..
Với đề kiểm tra cuối năm 2017 – 2018: Tả một cây ăn quả mà em thích.
Tôi thu được kết quả:
4A
Điểm
9 - 10
7-8

5-6
<5
TS: 30
SL
10
12
8
0
TL
33,3
40
26,7
0
Và tiếp tục tôi áp dụng phương pháp này với lớp 5A năm học 2018-2019 với đề
bài: Tả một người thân trong gia đình mà em yêu quý.
Kết quả khảo sát ở lớp 5A Giữa học kì 2 năm học 2018 – 2019 là:
Lớp
Giữa học kì 2
5A
Điểm
9 - 10
7-8
5-6
<5
TS: 30
SL
11
14
5
0

TL
36,7
46,7
16,6
Kết quả trên ta thấy sau khi được áp dụng học sinh đạt điểm 9 – 10 và 7 – 8
tăng lên rõ rệt. Không còn học sinh điểm dưới 5. Như vậy việc áp dụng đem lại kết
quả thiết thực giúp các em thích học, thích làm văn và say mê với bài văn miêu tả
hơn. Nhiều em đã nắm tốt cách viết đoạn văn và cách lập dàn ý cho một bài văn,
biết vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào miêu tả, biết cách dùng từ chính xác,
viết được câu văn có hình ảnh hơn.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Vận dụng linh hoạt một số biện pháp dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4, lớp 5
là một việc làm thiết thực mang lại hiệu quả đáng kể. Các tiết làm văn miêu tả
không đơn thuần là thầy giảng, trò tiếp thu thụ động như trước nữa. Mỗi giờ tập làm
văn dạy theo hướng đổi mới rất sôi nổi, hào hứng, lôi cuốn người học. Giáo viên
hướng dẫn học sinh vào các hoạt động quan sát, chọn lọc chi tiết, lựa chọn từ ngữ,
sử dụng các biện pháp nghệ thuật, ... để khi các em khám phá, phát hiện và vẽ ra đối
tượng bằng những bức tranh sinh động với những gam màu ấn tượng. Các em đi
vào đối tượng, tạo ra một luồng khí mới mẻ, độc đáo cho đối tượng làm cho chúng
trở nên sinh động, thân thiết, yêu quý hơn. Vì vậy đòi hỏi giáo viên sáng tạo hơn
trong việc hướng dẫn học sinh từ hệ thống câu hỏi đến việc lựa chọn từ ngữ cũng
như công việc chuẩn bị bài ở nhà. Có như vậy học sinh mới có thể học môn Tập làm
văn ở cuối bậc tiểu học tốt hơn, làm nền tảng cho các em học lên các cấp học trên.
3.2. Kiến nghị
Để giúp học sinh làm tốt bài Tập làm văn nói chung, giúp học sinh lớp 4, lớp
5 làm tốt bài văn miêu tả nói riêng, tôi xin đề xuất với các cấp giáo dục như sau:
Đối với Phòng Giáo dục
Tiếp tục tổ chức các chuyên đề bổ trợ thêm kiến thức, phương pháp dạy cho giáo
viên.

Đối với nhà trường
16


Tớch cc t chc cỏc hot ng ngoi khúa v vn hc cho giỏo viờn v hc sinh
vi cỏc ch v: Ti trớ hc trũ Nh vn hc nh tui Tỡm hiu v nh vn,
nh th, cỏc tỏc phm vn hc ... khi dy lũng say mờ hc Ting Vit ca cỏc
em, kớch thớch s tũ mũ, thúi quen tỡm tũi sỏng to v thy c cỏi hay cỏi p ca
tỏc phm vn hc m cỏc em c tỡm hiu.
i vi giỏo viờn
Giỏo viờn khụng ngng hc hi, tỡm tũi nõng cao hiu bit cng nh tỡm ra
cỏch truyn t tt nht n hc sinh.
Giỏo viờn phi hng hc sinh i vo cỏc bi tp quan sỏt tỡm nhng nột
riờng, nột c ỏo ca i tng, nh hng v la chon t ng t ú thi hn
mỡnh vo i tng lm cho nú tr nờn sng ng hn, p d v gn gi hn.
Chun b bi ging tt, khụng l thuc quỏ nhiu vo sỏch hng dn ging dy.
Ngi giỏo viờn phi luụn cú lũng yờu ngh, yờu ngi, cú ý thc trỏch nhim v
tinh thn cu tin, khụng ngng hc hi v mnh dn ỏp dng nhng vn mi
vo thc tin ging dy.
T thc t dy hc trng tụi nhn thy nhng bin phỏp trờn ó giỳp hc sinh
rt nhiu trong vic Lm tt bi vn miờu t lp 4 v lp 5. Tuy nhiờn hc
sinh lm tt hn na th loi vn miờu t thỡ cũn rt cn s quan tõm ca nh trng
v cỏc cp cú liờn quan nhng giỏo viờn hon thnh tt nhim v.
Trờn õy l nhng kinh nghim ca bn thõn v s nghiờn cu, hc hi ti
liu, ng nghip, tuy đã có kết quả cụ thể nhng vẫn còn có một số
hạn chế do thời gian và năng lực của bản thân. Tôi rất mong nhận
đợc sự đóng góp ý kiến của Hội đồng khoa học cấp trên để đề
tài Sáng kiến kinh nghiệm đợc hoàn hảo hơn.
Tụi xin chõn thnh cm n !
XC NHN CA

Yờn nh, ngy 25 thỏng 3 nm 2019
TH TRNG N V
Tụi xin cam oan õy l SKKN ca
mỡnh vit, khụng sao chộp ni dung
ca ngi khỏc.
NGI VIT SNG KIN

Nguyn Th Minh Lan

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tác giả

Tài liệu

Nhà xuất
bản

Năm xuất
bản

1

Bộ Giáo dục và
Đào tạo.


Sách giáo khoa Tiếng Việt
lớp 4, lớp 5

Giáo dục

2006

2

Bộ Giáo dục và
Đào tạo.

Sách giáo viên Tiếng Việt
lớp 4, lớp 5

Giáo dục

2006

3

Bộ Giáo dục và
Đào tạo.

Tài liệu bồi dưỡng giáo viên
dạy các môn học lớp 5 (Tập
1).

Giáo dục


2002

4

Bộ Giáo dục và
Đào tạo.

Tài liệu BDTX dành cho
giáo viên Tiểu học chu kỳ
2003-2007.

Giáo dục

2005

5

Vụ giáo dục Tiểu
học.

Các chuyên đề giáo dục
Tiểu học.

Giáo dục

2005

6

Nguyễn Ngọc

Bảo.

Lý luận dạy học.

Giáo dục

2002

7

S.A.Amonasvili.

Chào các em.

Đại học
quốc gia

2001

8

Nguyễn Ngọc
Bảo

Tâm lý giáo dục Tiểu học.

Đại học
quốc gia

2003


9

Bùi Phương Nga.

Đổi mới việc dạy học môn
Tiếng Việt ở Tiểu học.

Giáo dục

1999

Giáo trình phương pháp dạy
môn Tiếng Việt ở Tiểu học.

Giáo dục

1998

Trịnh Quốc Thái.
10 Nguyễn Thượng
Giao.

Đến 2018

18


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH

NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN , TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Lan
Chức vụ và đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường Tiểu học Yên Trường
Yên Định - Thanh Hóa
Kết quả
Cấp đánh giá xếp
đánh giá
Năm học
loại Ngành GD
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
đánh giá xếp
cấp
(A, B,
loại
Huyện, Tỉnh...)
hoặc C)
Hướng dẫn cho học sinh lớp Phòng GD-ĐT Yên
1 4 giải Toán tìm 2 số khi biết Định
A
2008- 2009
tổng và tỉ số của 2 số đó.
2 Một số kinh nghiệm dạy phân Sở GD-ĐT Thanh
2009-2010
Hóa
B
môn học vần lớp 1
3


4
5
6
7
8

9
10

Hướng dẫn học sinh lớp 5 Phòng GD-ĐT Yên
Định
giải toán tỉ số phần trăm
Hướng dẫn học sinh lớp 4 so
sánh phân số.
Một số kinh nghiệm dạy tiết
Tập làm văn trả bài lớp 5.
Chỉ đạo công tác Bán trú
trường Tiểu học.
Kinh nghiệm rèn kĩ năng
sống cho học sinh lớp 1
Một số biện pháp chỉ đạo dạy
học Đạo đức trong trường
Tiểu học
Dạy một số yếu tố đại số cho
học sinh lớp 4
Một số kinh nghiệm chỉ đạo
tiết học Hoạt động ngoài giờ
lên lớp trong trường Tiểu học


Phòng GD-ĐT Yên
Định
Sở GD-ĐT Thanh
Hóa
Phòng GD-ĐT Yên
Định
Sở GD-ĐT Thanh
Hóa
Phòng GD Yên
Định
Phòng GD Yên
Định
Phòng GD Yên
Định

2010-2011
A

A

2011-2012
2012-1013

C
2013-2014
A
2014-2015
B
2015-2016
A

2016-2017
A
2017-2018
B

19


20



×