Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

SKKN một số biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng lỗi viết câu cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.7 KB, 14 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Tập làm văn là một phân môn trong môn Tiếng Việt của bậc Tiểu học, đây
là một phân môn mang tính chất thực hành tổng hợp. Việc dạy tập làm văn ở bậc
Tiểu học có một vị trí rất quan trọng, nó góp phần rèn luyện cho học sinh năng
lực sử dụng tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện cho các em giao tiếp trong cuộc sống
hàng ngày và học tập tốt các môn học khác. Nếu như các môn học và phân môn
khác của môn Tiếng việt cung cấp cho các em một hệ thống các kiến thức kĩ
năng thì phân môn Tập làm văn tạo điều kiện cho các em thể hiện các kiến
thức, rèn luyện các kĩ năng đó một cách linh hoạt thực tế và có hệ thống hơn. Nó
giúp cho học sinh tái hiện lại cuộc sống con người, phong cảnh thiên nhiên hiện
lên như một bức tranh nhiều màu sắc. Nó giúp các em có tâm hồn văn học có
tình yêu quê hương đất nước và cuộc sống con người.
Để học tốt phân môn Tập làm văn thì yêu cầu học sinh trước hết phải có vốn
từ ngữ phong phú, hiểu từ, dùng từ chính xác để đặt được câu văn đúng. Bởi
muốn có được câu văn hay thì trước hết phải có câu văn đúng; “Một bài văn
hay trước hết phải là một bài văn đúng”. (Trích Tạp chí GD số 159 quý I-2007).
Như vậy chúng ta thấy rằng phân môn Tập làm văn rất quan trọng đối với
học sinh. Vậy làm thế nào để học sinh viết được câu đúng, biết sửa lỗi câu để có
một bài văn đúng, một bài văn hay. Mà thực tế thì học sinh viết câu còn mắc
phải rất nhiều lỗi do vốn kiến thức, vốn từ của các em còn hạn chế, dẫn đến bài
viết không lô-gich, lủng củng, không có hồn, thiếu chân thực.
Xác định rõ những khó khăn từ thực tiễn của quá trình dạy - học Tập làm
văn ở Tiểu học trong những năm qua nên tôi đã quyết định nghiên cứu, tìm hiểu:
“ Một số biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng lỗi viết câu cho học
sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông Vệ 1”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Qua đề tài này, tôi muốn góp phần nhỏ vào việc khắc phục các dạng lỗi
viết câu cho học sinh lớp 5, đồng thời hình thành tri thức và kĩ năng diễn đạt
trong Tiếng Việt cho học sinh ở nhà trường Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:


- Nghiên cứu thực trạng viết câu trong phân môn Tập làm văn của học sinh
lớp 5.
- Nghiên cứu “ Một số biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng lỗi
viết câu cho học sinh lớp 5 ”.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm.
- Phương pháp thống kê, đối chứng.
1


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Các kiến thức về phân môn Tập làm văn trong sách Tiếng Việt lớp 5
trang bị cho học sinh hình thành kiến thức và bài thực hành, luyện tập. Các bài
tập làm văn trong sách Tiếng Việt 5 cung cấp những kiến thức về tiếng Việt để
các em có thể chủ động, tự tin trong việc dùng từ, viết câu, lựa chọn kiểu câu
phù hợp, các cách liên kết câu trong nói và viết nhằm đạt được hiệu quả giao
tiếp. Thông qua việc trang bị cho học sinh những kiến thức về phân môn, sách
Tiếng Việt 5 đã góp phần bồi dưỡng cho các em thói quen dùng từ đúng, nói và
viết thành câu theo một số mục đích nói thông thường, dùng một số dấu câu phổ
biến khi viết. Thực tế, trong trường tiểu học khả năng sử dụng Tiếng Việt của
học sinh còn nhiều hạn chế, do đó cần phải có biện pháp giúp học sinh học tốt
phân môn Tập làm văn lớp 5.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến:
2.2.1. Về phía giáo viên:
- Nhìn chung trong giờ Tập làm văn, Luyện từ và câu đôi khi giáo viên

chưa chú trọng một cách đúng mức về sửa lỗi viết câu cho học sinh, có làm song
chưa sâu. Nhiều giáo viên còn coi nhẹ việc nhận xét, hướng dẫn cách viết đoạn
văn cho học sinh và nếu có làm thì cũng chỉ làm qua loa. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này như giáo viên chưa có kinh nghiệm viết đoạn văn và chưa
biết phát hiện lỗi cũng như chưa biết chỉ ra cách chữa các loại lỗi đó.
- Vốn kiến thức, vốn từ của giáo viên chưa nhiều nên dẫn đến khi cung
cấp cho học sinh còn hạn chế, hướng dẫn học sinh đôi khi còn thụ động máy
móc, rập khuôn. Điều đó dẫn đến bài viết của học sinh thường mang tính kể lể,
khô khan, thiếu hình ảnh, cảm xúc và sự mạch lạc.
- Việc dạy tập làm văn còn nhiều lúng túng về mặt lí thuyết cũng như việc
xác định các kĩ năng làm bài như kĩ năng xây dựng bố cục, kĩ năng chọn ý và
sắp xếp ý để viết đoạn, liên kết bài, kĩ năng sữa chữa bài, rút kinh nghiệm,.....
- Các điều kiện phục vụ cho việc dạy tập làm văn còn nhiều hạn chế, đặc
biệt trình độ và năng lực của đội ngũ giáo viên còn chưa đồng đều, thiếu tài liệu
hướng dẫn cụ thể về phương pháp dạy học tập làm văn, thiếu các đồ dùng dạy
học,....
- Phần lớn các tiết trả bài cho học sinh chưa được giáo viên chú trọng
chuẩn bị kĩ càng mà đa phần là chỉ tập trung sửa lỗi về chính tả mà chưa phân ra
các loại lỗi về câu để chữa cho học sinh, nếu có chữa câu sai thì cũng chưa chọn
lọc được những dạng câu sai điển hình mà hay chọn câu chữa nhiều loại lỗi bởi
những câu như vậy sẽ gây ''nhiễu'' cho việc rèn kĩ năng chữa câu theo từng dạng
và cũng quá sức đối với học sinh tiểu học. Mặt khác cũng có trường hợp giáo
viên chỉ kết luận bài làm của học sinh bằng vài lời nhận xét chung chung như :
câu văn lủng củng, diễn đạt chưa trôi chảy hoặc dùng từ sai,..nên dẫn đến các
em không biết câu văn trong bài văn của mình sai ở chỗ nào, thiếu ở chỗ nào và
nếu phải sửa thì sẽ sửa như thế nào,...Và như vậy vô tình giáo viên đã làm mất đi
2


của các em cơ hội rút kinh nghiệm bài đã làm, khắc phục sai sót, phát huy ưu

điểm của bản thân....
2.2.2. Về phía học sinh
- Nguyên nhân chính gây nên các loại lỗi về câu cho học sinh như : Học
sinh không nắm chắc kiến thức về cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu,
kĩ năng phân tích, nhận diện các thành phần câu (Các em thường nhầm trạng
ngữ với chủ ngữ nhất là khi trạng ngữ không được mở đầu bằng quan hệ từ,
nhầm định ngữ với vị ngữ, đặc biệt hay nhầm vị ngữ với định ngữ trong trường
hợp chủ ngữ được bắt đầu bằng từ Những, Một. Các danh từ đứng sau Những,
Một thường là không xác định nên chúng phải có định ngữ mới xác định nên học
sinh hay nhầm định ngữ là vị ngữ và khi phân tích câu hay tập đặt câu đã tạo ra
các câu có chủ ngữ không xác định. Với những câu có nhiều danh từ, động từ,
nhiều định ngữ, bổ ngữ, học sinh thường không phát hiện ra hết các định ngữ, bổ
ngữ này,..). Mặt khác học sinh viết sai lỗi câu còn do không hiểu nghĩa của từ,
do không nắm được cấu trúc câu, do đưa cách nói khẩu ngữ vào văn viết, do
không dùng dấu câu hay có dùng nhưng dùng dấu câu không đúng quy tắc ( như
dùng dấu chấm ngắt câu khi câu chưa đủ ý, dùng dấu phẩy ngăn cách thành phần
chủ - vị, ngăn cách động từ với bổ ngữ, dùng dấu hai chấm ngăn cách hai vế câu
khi vế nọ không có ý giải thích cho vế kia, dùng dấu chấm tuỳ tiện khi chưa hết
ý cắt đôi câu ra một cách vô lí,...)
- Nhiều học sinh khi làm bài tập làm văn cảm thấy khó và bí, thấy không
biết viết gì, nói gì. Nguyên nhân quan trọng vì các em thiếu vốn sống, thiếu kiến
thức thực tế, thiếu hiểu biết những gì liên quan đến bài làm. Không có nguyên
liệu làm sao có sản phẩm? Chưa đi thăm một cảnh đẹp nào bao giờ thì làm sao
có thể làm được bài tường thuật cuộc đi thăm đó? Học sinh ở thành phố không
có vườn rau làm sao làm dược bài văn tả vườn rau nhà em?
Ngược lại học sinh nhiều em vẫn chưa nắm vững khả năng biểu đạt ý
nghĩa trọn vẹn của câu. Các em chưa biết kết hợp về hai hình thức của câu đó là:
nội dung và hình thức
- Tập làm văn là môn học thực hành. Kết quả của tập làm văn dựa trên sự
huy động nhiều kĩ năng khác nhau: kĩ năng phát âm, kĩ năng nói, kĩ năng viết

chữ, kĩ năng dùng từ đặt câu, viết bài,...Kĩ năng là kết quả của sự luyện tập thực
hành gian khổ nhưng hiện nay học sinh được luyện tập quá ít. Các kĩ năng chưa
hình thành, chưa được rèn luyện nhưng vẫn cứ phải sử dụng vào bài tập làm văn
vì thế gây ra nhiều loại lỗi viết câu không đáng có.
- Để nắm được cụ thể về lỗi viết câu của học sinh, ngay từ đầu năm học
tôi đã tiến hành khảo sát 37 em học sinh lớp 5D trường Tiểu học Đông Vệ 1 về
viết một đoạn văn tả cảnh.
Kết quả thu được như sau:
Số HS không mắc lỗi
Số HS mắc lỗi
Tổng số HS
SL(em)
TL(%)
SL(em)
TL(%)
37 em
22
59,5
15
40,5
3


Cụ thể về các dạng lỗi HS mắc phải ở trên là:
Tổng số HS
15 em

Các lỗi câu HS mắc phải
Lỗi về cấu tạo ngữ pháp
Lỗi về dấu câu

Lỗi về nghĩa

Số HS mắc lỗi
SL(em)
TL(%)
6
40
4
26,7
5
33,3

Chữa câu sai có tác dụng rất tích cực đối với việc rèn luyện kĩ năng viết
câu đúng cho học sinh. Theo lí thuyết hoạt động lời nói, giai đoạn cuối của hoạt
động lời nói là kiểm tra kết quả. Phát hiện, phân tích và chữa lỗi trong bài viết
chính là kiểm tra kết quả của quá trình viết. Việc làm này một mặt giúp học sinh
loại bỏ lỗi viết câu trong bài làm của mình, hình thành kĩ năng viết đúng ở các
em; mặt khác, giúp giáo viên nắm được trình độ của học sinh, từ đó có biện
pháp dạy học thích hợp. Qua thực tế giảng dạy, qua bài kiểm tra của học sinh,
tôi thấy lỗi viết câu của học sinh thường mắc lỗi như sau:
* Lỗi trong câu:
- Lỗi về nghĩa:
+ Câu không rõ nghĩa.
+ Câu sai nghĩa.
+ Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần, giữa các vế
câu, như: Các vế câu không tương hợp; trạng ngữ và nòng cốp câu không tương
hợp; chủ ngữ và vị ngữ không tương hợp; Câu có thành phần đồng chức không
tương hợp.
- Lỗi dấu câu:
+ Lỗi dùng dấu câu sai.

+ Lỗi không dùng dấu câu.
- Lỗi về cấu tạo ngữ pháp:
+ Câu thừa thành phần.
+ Câu không đủ thành phần: Câu thiếu cả chủ ngữ, vị ngữ; câu thiếu chủ
ngữ; câu thiếu vị ngữ.
+ Câu không phân định rõ thành phần, Câu sắp xếp sai vị trí của thành
phần, câu không xác định được thành phần.
* Lỗi ngoài câu:
- Câu không phù hợp với các câu khác.
+ Lỗi câu lạc chủ đề
+ Lỗi câu mâu thuẫn nhau.
- Câu không phù hợp với nhân vật giao tiếp
2.3. Các biện biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng lỗi viết câu cho
học sinh lớp 5”.
Trong quá trình giao tiếp, câu bị chi phối hai loại quan hệ: Quan hệ hướng
nội (còn gọi là quan hệ trong câu) là quan hệ giữa các yếu tố cấu thành câu và
quan hệ hướng ngoại ( còn gọi là quan hệ ngoài câu) là quan hệ giữa các câu với
4


các yếu tố ngoài câu; giữa câu với nhân vật, hoàn cảnh giao tiếp, giữa câu với
các câu khác trong văn bản, với toàn văn bản.
Dựa vào mối quan hệ này tôi chia lỗi viết câu thành hai loại: lỗi trong câu
và lỗi ngoài câu. Do thời gian và năng lực còn hạn chế nên tôi chỉ đi sâu vào
nghiên cứu về cách nhận diện và khắc phục lỗi trong câu.
Lỗi trong câu bao gồm: + Lỗi về cấu tạo ngữ pháp
+ Lỗi về nghĩa
+ Lỗi về dấu câu.
2.3.1. Biện pháp 1: Nhận diện và sửa lỗi về cấu tạo ngữ pháp của câu.
Khi hướng dẫn học sinh Tiểu học chữa câu sai, trước hết nên chú ý tới các

câu sai về cấu tạo. Bỏi vì chỉ cần chữa một số câu sai cấu tạo điển hình, học sinh
có thể theo mẫu mà chữa được nhiều câu sai tương tự. Mặt khác do mối quan hệ
đi đôi giữa cấu tạo và nội dung của câu, khi đã hiểu rõ cấu tạo câu, viết được câu
đúng cấu tạo ngữ pháp, học sinh cũng hạn chế bớt những câu ''có vấn đề'' trong
lời nói của mình.
Có hai loại câu sai phổ biến là câu thiếu hoặc thừa các thành phần câu,
không phân định được các thành phần câu hoặc sắp xếp sai các thành phần câu.
a. Câu không đủ thành phần: Do năng lực còn hạn chế nên tôi chỉ xét về câu
không đủ thành phần chính như chủ ngữ, vị ngữ. Các lỗi câu không đủ thành
phần bao gồm:
* Câu thiếu thành phần chủ ngữ:
Câu thiếu chủ ngữ xuất hiện nhiều bởi học sinh nhiều khi nhầm đối tượng,
chỉ mới có ở trong tư duy chưa được thực hiện hoá ở lời (câu) với chủ ngữ.
Trong tư duy của học sinh đối tượng cần nói đến đã hiện ra rất rõ, các em chỉ
quan tâm đến việc diễn tả những hoạt động, tính chất, trạng thái của đối tượng.
Do vậy các em viết câu không đủ thành phần chủ ngữ và yên trí rằng câu đã trọn
nghĩa. Câu thiếu chủ ngữ cũng có thể do học sinh lầm tưởng trạng ngữ là chủ
ngữ. Câu thiếu chủ ngữ khiến cho nghĩa của câu không trọn vẹn hoặc làm cho
người đọc hiểu sai nghĩa.
- Ví dụ 1: Em rất thích chiếc áo mẹ mua cho em vào dịp Tết năm ngoái. Có
màu hoa cà rất đẹp.
- Ví dụ 2: Trong truyện “ Cây vú sữa” đã nhắc nhở em phải biết quý trọng
tình yêu của mẹ.
Giáo viên hướng dẫn để học sinh phát hiện câu “Có màu hoa cà rất đẹp”
trong ví dụ 1 thiếu bộ phận chủ ngữ. Vì vậy cần chữa lại bằng cách thêm chủ
ngữ nhưng tránh lặp từ. Có thể chữa lại là:
Em rất thích chiếc áo mẹ mua cho em vào dịp Tết năm ngoái. Nó có màu hoa
cà rất đẹp.
Ở ví dụ 2 giáo viên hướng dẫn để học sinh thấy câu này chúng ta không thể
xác định được đâu là bộ phận chủ ngữ. Vì thế có thể hướng dẫn chữa bằng hai

cách sau:
Cách 1: Ta bỏ từ “ trong” để “truyện Cây vú sữa” thành chủ ngữ:
Truyện “ Cây vú sữa” đã nhắc nhở em phải biết quý trọng tình yêu của mẹ.
5


Cách 2: Thêm chủ ngữ cho câu:
Trong truyện “ Cây vú sữa” , tác giả đã đã nhắc nhở em phải biết quý trọng
tình yêu của mẹ.
* Câu thiếu thành phần vị ngữ:
Học sinh viết những câu thiếu vị ngữ do nhiều nguyên nhân khác nhau:
với những ngữ danh từ được phát triển dài, học sinh nhầm tưởng đã có giá trị
thông báo mặc đầu nó chỉ mới nêu đối tượng thông báo, chưa có nội dung thông
báo. Học sinh không hiểu rằng phần lớn các ngữ danh từ có: cái, những,
một, ...mở đầu là không xác định, muốn xác định chúng phải được thêm định
ngữ ở sau. Do đó những tính từ, động từ sau danh từ trong các ngữ danh từ ấy
chỉ có khả năng làm định ngữ, không thể làm vị ngữ.
Ví dụ 1: Chiếc cặp sách mà bố tặng em.
Ví dụ 2: Những bông hoa thơm ngát.
Trường hợp này cần hướng dẫn để học sinh nhận ra đây là câu thiếu vị ngữ.
Với câu này có thể hướng dẫn chữa bằng những cách khác nhau tuỳ vào mục
đích thông báo của câu. Chỉ có thể xác định được mục đích thông báo khi xét
câu trong văn bản. Có thể hướng dẫn chữa câu này bằng cách thêm vị ngữ hoặc
cấu tạo lại hoàn toàn cả câu. Chẳng hạn:
+ Chiếc cặp sách mà bố tặng em rất đẹp. ( Hoặc: Bố tặng em chiếc cặp
sách.)
+ Những bông hoa ấy thơm ngát.
* Câu thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ:
Chúng ta không xếp vào kiểu lỗi này những câu cùng thiếu cả chủ ngữ và
vị

ngữ do sử dụng dấu câu sai như:
- Ví dụ: Trên những cành cây, ngọn cỏ. Sương long lanh như những hạt ngọc.
Những câu mắc lỗi như vậy chiếm số lượng nhiều chúng sẽ được xếp vào
loại lỗi dùng sai dấu câu.
Hầu hết những câu được xem là thiếu cả chủ và vị ngữ là những câu chỉ có
bộ phận trạng ngữ. Nguyên nhân của loại lỗi câu này là do học sinh không hiểu
rằng chủ ngữ không thể đứng sau quan hệ từ. Mặt khác thường là bộ phận đứng
sau quan hệ từ được phát triển dài khiến cho học sinh tưởng nó đã có nội dung
thông báo.
-Ví dụ 1: Trên cánh đồng làng chạy dọc theo con sông máng.
-Ví dụ 2: Đến ngày cưới của con ông lão nhà giàu. Anh trai cày không biết gì.
Nếu xét riêng câu ở ví dụ 1 một cách cô lập tách khỏi các câu khác trong
văn bản thì về lí thuyết có thể hướng dẫn học sinh chữa bằng hai cách:
+ Cách 1: Bỏ từ “trên” để được câu:
Cánh đồng làng chạy dọc theo con sông máng.
+ Cách 2: Xem phần đã có là trạng ngữ rồi thêm hoàn toàn cả chủ ngữ và vị ngữ
để tạo nên câu mới:
Trên cánh đồng làng chạy dọc theo con sông máng, chúng em thường chơi
thả diều.
6


Ở ví dụ 2 chỉ có thể hướng dẫn học sinh chữa bằng cách đảo lại thành:
Ngày cưới của con ông lão nhà giàu đến, anh trai cày không biết gì.
b. Câu thừa thành phần: là những câu có thành phần lặp lại không cần thiết.
Không phổ biến bằng câu thiếu thành phần nhưng câu thừa thành phần cũng
không hiếm trong bài viết của học sinh,Nguyện nhân chủ yếu là do các em mang
thói quen lời nói vào bài viết.
- Ví dụ 1: Cô giáo em đó một người rất dịu dàng.
- Ví dụ 2: Quyển sách Tiếng Việt lớp 5 đối với em là người bạn thân thiết của

em.
- Ví dụ 3: Em biết rõ hơn nhất công ơn của mẹ.
- Ví dụ 4: Truyện Hươu và Rùa người xưa đã cho chúng em thấy tình bạn giữa
Hươu và Rùa rất đẹp.
Để giúp học sinh chữa lỗi những câu này giáo viên cần hướng dẫn các em
phát hiện và bỏ đi những thành phần không cần thiết:
Ở ví dụ 1 ta bỏ từ “đó” : Cô giáo em - một người rất dịu dàng.
Ở ví dụ 2 ta bỏ các từ “đối với em”: Quyển sách Tiếng Việt lớp 5 là người bạn
thân thiết của em.
Ở ví dụ 3 ta bỏ một trong hai từ “hơn” hoặc “nhất” :
Em biết rõ hơn công ơn của mẹ.
Hoặc: Em biết rõ nhất công ơn của mẹ.
Ở ví dụ 4 ta có hai cách sửa: bỏ từ “người xưa” hoặc thêm quan hệ từ “qua”
vào đầu câu để “Qua truyện Hươu và Rùa” là bộ phận trạng ngữ:
Cách 1:Truyện Hươu và Rùa đã cho chúng em thấy tình bạn giữa Hươu và
Rùa rất đẹp.
Cách 2: Qua truyện Hươu và Rùa, người xưa đã cho chúng em thấy tình bạn
giữa Hươu và Rùa rất đẹp.
c. Câu không phân định rõ thành phần ( còn gọi là câu có kết cấu rối, nát):
Nguyên nhân của loại lỗi này khá phức tạp. Trước hết là do học sinh không
chuẩn bị cho mình một nội dung cần nói mà không phản cắt được trong tư duy
ra từng ý rạch ròi. Học sinh viết gần như trong tình trạng vô thức, nhớ từ nào,
cụm từ nào là viết ngay vào bài không tìm cách tổ chức, sắp xếp các từ, cụm từ
để biểu đạt nội dung. Đây là loại lỗi rất nặng, rất khó chữa, phải trao đổi với học
sinh trực tiếp mới biết các em muốn diễn đạt điều gì để chữa câu cho đúng. Có
thể liệt kê các lỗi câu không phân định rõ thành phần như sau:
* Câu không xác định được thành phần:
Ví dụ: Em lưỡng lự rất muốn đi chơi rất lâu cùng các bạn.
Câu này cần hướng dẫn các em sửa lại như sau:
Em rất muốn đi chơi lâu cùng các bạn nhưng còn lưỡng lự.

* Câu sắp xếp sai vị trí thành phần:
- Ví dụ 1: Em sẽ mong cô giáo có nhiều học sinh ngoan hơn chúng em.
- Ví dụ 2: Em thấy rất có ích đọc truyện này.
- Ví dụ 3: Em nhìn mái tóc của bà đã bạc trắng.
7


Cách sửa: Với các câu này cần hướng dẫn học sinh sắp xếp lại các thành phần
cho đúng trật tự ngữ pháp.
Ví dụ 1: Em mong cô giáo sẽ có nhiều học sinh ngoan hơn chúng em.
Ví dụ 2: Em thấy đọc truyện này rất có ích.
Ví dụ 3: Em nhìn mái tóc đã bạc trắng của bà.
2.3.2.Biện pháp 2: Nhận diện và sửa lỗi về nghĩa của câu.
Các lỗi về nghĩa được chia thành : câu sai nghĩa, câu không rõ nghĩa và câu
không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
a. Câu sai nghĩa: Câu sai nghĩa là câu có chứa nội dung không phù hợp với
hiện thực khách quan.
- Ví dụ 1: Bà em tinh mắt xâu kim trong bóng tối.
- Ví dụ 2: Từ ngày cô vĩnh biệt chúng em về công tác ở thành phố, chúng
em vẫn nhớ cô.
- Ví dụ 3: Cô giáo em cao năm mét.
Những câu sai nghĩa này sẽ làm mất sự tương hợp giữa các thành phần câu.
Để hướng dẫn học sinh sửa lỗi cần cho học sinh tìm từ dùng sai, xác định nội
dung của câu và phân tích lỗi của việc dùng từ - tìm từ thay thế. Sau đó giáo
viên kết luận những câu trên sai là do học sinh thiếu kiến thức thực tế nên đã sử
dụng một số chi tiết phi thực tế như “ bà xâu kim trong bóng tối”, “vĩnh biệt”,
“cô giáo cao năm mét”. Vì vậy, để sửa sai loại câu này cần bỏ đi những chi tiết
phi thực tế trong câu.
Cho học sinh sửa lại là:
- Ví dụ 1: Bà rất tinh mắt vẫn còn xâu được kim.

- Ví dụ 2: Từ ngày cô từ biệt chúng em về công tác ở thành phố, chúng
em
vẫn nhớ cô.
- Ví dụ 3: Cô giáo em cao 1m55.
b. Câu không rõ nghĩa:
Câu không rõ nghĩa là những câu còn thiếu thông tin. Đó là những câu đúng
về cấu tạo ngữ pháp nghĩa là có đủ chủ ngữ, vị ngữ, đúng về quan hệ ngữ nghĩa
nhưng thực ra còn thiếu những thành phần phụ cần thiết phải có để bổ sung ý
nghĩa cho một động từ, danh từ nào đó trong câu nên nghĩa của câu không được
thể hiện đầy đủ, gây ra sự hụt hẫng cho người đọc
- Ví dụ 1: Em bé ngày nào đã trở thành.
- Ví dụ 2: Hôm nay anh dũng cảm.
- Ví dụ 3: Một hôm, chích bông đang đậu trên một cành cây nhỏ.
Các kiểu câu như ở ví dụ 1 là những câu không đủ thông tin, không trọn
nghĩa vì động từ “trở thành” ở đây như đòi hỏi phải có bộ phận phụ để làm rõ
nghĩa của câu. Sở dĩ các em viết câu sai như vậy vì các em không biết rằng có
những động từ bắt buộc phải có bộ phận phụ thì nghĩa mới được xác định.
Cách chữa những câu này là phải hướng dẫn học sinh thêm bộ phận phụ còn
thiếu trong các ví dụ. Chẳng hạn:
• Ví dụ 1: Em bé ngày nào đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp.
8


Trong ví dụ 2, tính từ “dũng cảm” mất khả năng làm vị ngữ vì câu có trạng
ngữ chỉ thời gian “hôm nay”. Về nghĩa, người đọc chờ đợi sự thông báo: Hôm
nay anh dũng cảm làm việc gì đó cụ thể. Vì vậy, khi chữa loại câu này giáo viên
cần hướng dẫn học sinh bỏ trạng ngữ “hôm nay” hoặc thêm ngữ động từ sau
“dũng cảm”.Câu này được chữa lại như sau:
+ Anh rất dũng cảm.
Hoặc: + Hôm nay, anh dũng cảm cứu em nhỏ.

Ở ví dụ 4, vì đi với “một hôm” nên vế câu đã có chỉ còn khả năng chỉ tình
huống, câu thiếu hẳn nội dung thông báo. Có thể hướng dẫn học sinh chữa câu
này bằng hai cách: hoặc bỏ từ “một hôm” hoặc thêm cả chủ ngữ, vị ngữ mới:
+ Chích bông đang đậu trên một cành cây nhỏ.
Hoặc: + Một hôm, chích bông đang đậu trên một cành cây nhỏ thì nó nhìn
thấy một đàn chim bay qua.
c. Câu không có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần, giữa các vế
câu:
Nguyên nhân của việc học sinh mắc lỗi câu này là từ việc không hiểu nghĩa
từ và khả năng kết hợp của các từ. Vì vậy việc chữa các loại câu này phải bắt
đầu từ việc hướng dẫn học sinh nắm được nghĩa từ và khả năng kết hợp của
chúng. Lỗi câu không tương hợp về nghĩa có thể chia thành:
* Câu có chủ ngữ - vị ngữ không tương hợp:
- Ví dụ 1: Cái bàn đã rách nát.
- Ví dụ 2: Em rất đầm ấm với bạn bè.
- Ví dụ 3: Bỗng trước mắt em hiện ra một giọng nói ấm áp.
- Ví dụ 4: Làn da ấy của mẹ đã trải qua bao nhiêu mưa nắng ngoài đồng.
Các câu ở ví dụ trên không có sự tương quan chủ - vị vì không thể nói
“cái bàn rách nát”, “giọng nói hiện ra”, “làn da trải qua mưa nắng”. Cần
hướng dẫn chữa các câu này bằng cách thay vị ngữ cho từng trường hợp. Cụ thể
như sau:
- Ví dụ 1: Cái bàn đã cũ nát.
- Ví dụ 2: Em rất hoà nhã với bạn bè.
- Ví dụ 3: Bỗng trước mắt em hiện ra một cô bé có giọng nói ấm áp.
- Ví dụ 4: Làn da của mẹ đã trải qua bao nhiêu mưa nắng.
Nhưng nếu gặp trường hợp như: Ví dụ: Điều đó là nhiệm vụ của chúng em.
Câu này không tương hợp chủ – vị vì “điều đó” không thể là chủ ngữ của vị
ngữ “là nhiệm vụ” nên cách chữa câu này là thay chủ ngữ “điều đó” bằng từ
“đó”.Vậy câu này sẽ chữa lại là: Đó là nhiệm vụ của chúng em.
* Câu có trạng ngữ và nòng cốt câu không tương hợp:

- Ví dụ 1: Với nước da nâu sạm, mẹ luôn chăm sóc chúng em.
- Ví dụ2: Vì thương yêu con cháu , dáng bà rất gầy gò.
Hai câu ở 2 ví dụ trên không có sự tương hợp giữa trạng ngữ và nòng cốt câu.
Muốn chữa câu này phải tách trạng ngữ ra thành một nội dung thông báo riêng
để mỗi câu trên chỉ còn một nội dung thông báo. Ví dụ:
+ Mẹ luôn chăm sóc chúng em.
9


+ Dáng bà rất gầy gò.
* Câu có các vế câu không tương hợp:
Khi cần diễn đạt các nội dung phức tạp bằng câu ghép, các em gặp nhiều
khó khăn. Trong bài làm của học sinh có rất nhiều lỗi câu ghép không tương hợp
giữa các vế câu, thường xuất hiện ở các câu ghép có quan hệ từ và các cặp quan
hệ từ. Ở mỗi câu đúng, các quan hệ từ và các cặp quan hệ từ có sự tương hợp với
mối quan hệ ngữ nghĩa trong các vế câu. Khi sự tương hợp này bị phá vỡ sẽ tạo
ra các câu sai như các câu sau:
- Ví dụ 1: Tuy nhà xa nhưng bạn Lan đi học muộn.
- Ví dụ 2: Trời mưa mà đường trơn.
- Ví dụ 3: Năm nay mẹ em đã ngoài 30 tuổi nhưng trông mẹ già trước tuổi
do phải lao động vất vả.
Ở ví dụ 1 học sinh sử dụng cặp quan hệ từ “tuy … nhưng…” nhưng giữa
hai vế câu lại không có quan hệ nhượng bộ. Vì vậy để chữa câu này cần phải
hướng dẫn học sinh căn cứ thực tế để thay cặp quan hệ từ hay sửa vế câu cho
tương hợp:
Câu này có thể sửa thành: + Vì nhà xa nên bạn Lan đi học muộn.
Hoặc:
+ Tuy nhà xa nhưng bạn Lan không đi học muộn.
Ở ví dụ 2 có từ “mà” biểu thị quan hệ đối lập giữa hai vế câu nhưng bản
thân hai vế câu lại không có quan hệ đối lập. Vì vậy để chữa câu này cần phải

thay quan hệ từ :
+ Vì trời mưa nên đường trơn.
Ở ví dụ 3 học sinh mắc lỗi vì không nắm được nghĩa của từ “đã” .Trong
câu
này thể hiện sự đánh giá chủ quan của người nói cho rằng “30 tuổi đã là già” và
điều đó tạo nên sự đối lập với vế thứ hai của câu. Câu này cần chữa bằng cách
thay từ “đã” bằng từ “mới”.Câu này cần chữa:
+Năm nay mẹ em mới ngoài 30 tuổi nhưng trông mẹ
già trước tuổi do phải lao động vất vả.
Tóm lại: Các câu trên sai vì không có sự tương hợp giữa nội dung của các
vế câu và các cặp quan hệ từ, nên có thể chữa bằng hai cách: hoặc là thay quan
hệ từ, hoặc là sửa đổi nội dung vế câu.
* Câu có thành phần đồng chức không tương hợp:
Có thể kể vào loại lỗi câu có quan hệ giữa các thành phần không lô gíc, không
tương hợp là các câu có thành phần đồng chức không đồng loại.
- Ví dụ 1: Cô giáo dạy dỗ và rất lo lắng cho chúng em.
- Ví dụ 2: Con gấu bông của em rất dễ thương mẹ mới mua.
- Ví dụ 3: Mẹ có nước da trắng và rất yêu em.
Ở ví dụ 1 học sinh định nói lên hai điểm đáng yêu của cô giáo là: cô giáo vừa
dạy dỗ vừa chăm lo cho học sinh nhưng do cách diễn đạt của học sinh chưa
đúng nên hai vị ngữ “dạy dỗ” và “rất lo lắng cho chúng em” không thể sóng đôi
cũng như “ rất dễ thương” và “mẹ mới mua” ở ví dụ 2 cũng không thể làm hai vị
ngữ trong một câu.
Ở ví dụ 3 “rất yêu em” không sóng đôi, tương hợp được với “nước da trắng”.
10


Cách chữa: Ở mỗi câu trên phải hướng dẫn học sinh cách diễn đạt các ý sao
cho người đọc hiểu được nội dung cần thông báo:
- Ví dụ 1: Cô giáo là người vừa dạy dỗ vừa chăm sóc, lo lắng cho chúng

em.
- Ví dụ 2: Con gấu bông mẹ mới mua cho em rất dễ thương.
- Ví dụ 3: Mẹ có nước da trắng và mẹ rất yêu em.
2.3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn sửa lỗi về dấu câu.
a. Lỗi không dùng dấu:
Nguyên nhân của loại lỗi này là học sinh đã vi phạm nguyên tắc sử dụng dấu
câu: Khi đã kết thúc một ý phải đặt dấu ngắt câu. Việc không sử dụng dấu câu
gây khó khăn cho việc giao tiếp. Người đọc không thể nhanh chóng nắm bắt
được nội dung các em cần truyền đạt, thậm chí có trường hợp không xác định
được ý muốn diễn tả.
- Ví dụ: Sáng nay tôi dậy hơi muộn tôi thấy cánh cửa hé mở tôi không hiểu
chuyện gì tôi gọi cún con ra sân tập thể dục nhưng chẳng thấy cún con đâu, tôi
chạy ra tìm cún con bỏ đi rồi.
Với lỗi không dùng dấu câu như ví dụ trên, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh đọc kĩ đoạn văn để tách các ý và sử dụng dấu phẩy, dấu chấm cho phù hợp.
Ví dụ trên sửa lại là: Sáng nay, tôi dậy hơi muộn.Tôi thấy cánh cửa hé mở.
Tôi không hiểu chuyện gì. Tôi gọi cún con ra sân tập thể dục nhưng chẳng thấy
cún con đâu. Tôi chạy ra tìm, cún con bỏ đi rồi.
b. Lỗi sử dụng dấu câu sai:
Là những lỗi câu đã sử dụng dấu không cần thiết hoặc đáng lẽ phải dùng
dấu này lại dùng dấu khác. Nguyên nhân của loại lỗi này là ở chỗ học sinh sử
dụng dấu câu không hợp lí, không đúng quy tắc. Dùng dấu ngắt câu khi chưa đủ
ý, dùng dấu phẩy ngăn cách chủ ngữ, vị ngữ; dùng dấu hai chấm ngăn cách hai
vế câu khi vế nọ không có ý giải thích cho vế kia. Phổ biến nhất trong loại lỗi
câu này là các câu được dùng dấu chấm tuỳ tiện, khi chưa hết ý cắt đôi câu ra
một cách vô lí.
- Ví dụ 1: Buổi sáng trên những cành cây, ngọn cỏ. Sương long lanh như
những hạt ngọc.
-Ví dụ 2: Chiếc cặp ấy màu xanh. Hình chữ nhật vuông vắn.
-Ví dụ 3: Anh trai cày tưởng lão nói thật. Làm việc quần quật cho lão.

Hướng dẫn cách chữa các câu trên là giúp các em nhận ra cần thay các dấu
chấm bằng các dấu phẩy. Chữa lại là:
-Ví dụ 1: Buổi sáng, trên những cành cây, ngọn cỏ, sương long lanh như
những hạt ngọc.
-Ví dụ 2: Chiếc cặp ấy màu xanh, hình chữ nhật vuông vắn.
-Ví dụ 3: Anh trai cày tưởng lão nói thật, làm việc quần quật cho lão.
Tóm lại:
Để học sinh biết “ sửa lỗi viết câu” tốt thì trước hết giáo viên phải
hướng dẫn các em nắm chắc khái niệm ngữ pháp, phân loại, nhận diện lỗi, từ đó
tìm ra cách sửa câu cho hợp lí.
11


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Sau khi áp dụng “Một số biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng
lỗi viết câu” cho học sinh ở lớp 5D do tôi giảng dạy, tôi thấy rằng các em rất
hứng thú trong học tập đặc biệt là phân môn Tiếng Việt. Học sinh dần dần nắm
chắc các khái niệm ngữ pháp, biết nhận diện, phân loại những câu sai, biết lựa
chọn những nội dung phù hợp khi làm bài. Hiện nay các mức độ mắc lỗi về câu
ở lớp tôi đã có sự chuyển biến rõ rệt. Các em nắm vững cách viết câu, liên kết
giữa các câu trong đoạn văn, bài văn tương đối lôgíc, giảm bớt sự lệch lạc giữa
các câu trong văn bản; các em viết câu chính xác hơn về cả nội dung và hình
thức. Qua chấm chữa bài và kết quả các bài kiểm tra điểm làm bài của các em đã
được nâng cao, có những em đã viết được nhiều câu hay và sinh động.
Kết quả cụ thể như sau:
Tổng số HS
37 em

Số HS không mắc lỗi
SL(em)

TL(%)
29
78,4

Số HS mắc lỗi
SL(em)
TL(%)
8
21,6

Qua bảng trên tôi thấy kết quả HS lớp tôi hiện nay không còn ngại học
Tập làm văn như trước nữa. Mà ngược lại các em thấy hào hứng phấn khởi khi
học và làm bài Tập làm văn. Cũng từ đó tôi thấy chất lượng bài làm của học
sinh khá lên nhiều, câu văn chính xác, dùng từ ngữ có hình ảnh, biết chọn lọc
những chi tiết, hình ảnh gợi tả nên bài văn, đoạn văn sinh động hơn, diễn đạt trôi
chảy hơn. Đây sẽ là nền móng vững chắc, là tri thức để các em học tốt môn văn
ở các lớp trên.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Sau khi áp dụng “Một số biện pháp nhận diện và khắc phục các dạng lỗi
viết câu” bằng thực tế việc làm của bản thân tôi nhận thấy:
- Là người giáo viên Tiểu học, chúng ta phải nắm chắc nội dung dạy học, các
kiến thức và kĩ năng ngữ pháp cần trang bị cho học sinh.
- Trước hết cần phải nghiên cứu, phân tích kĩ từng lỗi viết câu của học sinh
từ đó có biện pháp cụ thể để hướng dẫn học sinh sửa lỗi.
- Trong quá trình dạy Tập làm văn, Luyện từ và câu giáo viên cần đặc biệt
chú trọng việc nhận diện và khắc phục các lỗi viết câu cho học sinh.
- Trong quá trình dạy học phải luôn lấy HS làm trung tâm, khuyến khích các
em tự phát hiện lỗi trong câu và hướng dẫn các em tự sửa lỗi, giúp HS nhớ kỹ,
nhớ lâu.

Chúng ta cần có thái độ nhận thức đúng đắn. Người giáo viên cần biết rằng
thế giới ngôn từ không có tận cùng, việc học ngữ pháp để ứng xử xã hội bằng
Tiếng Việt phải học suốt đời. Khi hướng dẫn học sinh viết câu đúng người giáo
12


viên cần có thái độ mềm dẻo, không tuyệt đối hoá, phiến diện, cứng nhắc. Phải
biết chọn những ngữ liệu điển hình, chắc chắn, tránh trường hợp còn mơ hồ.
Các kết quả nghiên cứu lỗi ngữ pháp của học sinh phải được giáo viên lưu ý
khi hình thành khái niệm ngữ pháp và phải trở thành ngữ liệu để xây dựng bài
tập phòng ngừa cho các em.
Cần đặt các hiện tượng ngữ pháp khác nhau (nhưng dễ bị nhầm lẫn) cạnh
nhau trong thế đối lập để học sinh sử dụng các thao tác đối chiếu so sánh giúp
học sinh nhận diện lỗi và khắc phục lỗi khi viết câu.
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên:
- Cần tích cực tự học tự bồi dưỡng nâng cao trình độ của bản thân.
- Cần đầu tư thời gian để chuẩn bị kế hoạch dạy học cho chu đáo.
* Đối với nhà trường:
- Cần tăng cường đầu tư các đầu sách có liên quan đến tập làm văn và sách
truyện……
- Tổ chức các câu lạc bộ thơ văn cho HS tham gia….
* Đối với Sở GD$ĐT, phòng GD$ĐT và các cấp ngành có liên quan:
- Cần tổ chức các hoạt động giao lưu rèn kĩ năng viết văn qua các hoạt động
như sáng tác thơ văn để HS tham gia.
- Thường xuyên mở hội thảo, nói chuyện chuyên đề về dạy Tập làm văn cho
HS Tiểu học….
* Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của bản thân được rút ra trong quá trình
giảng dạy. Do thời gian và năng lực còn hạn chế nên không tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và các

cấp quản lí.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Đông Vệ, ngày 30 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người Thực hiện

Hoàng Thị Lê

13


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU :………………………………………………..
1.1. Lí do chọn đề tài :………………………………………….. .
1.2. Mục đích nghiên cứu:………………………………………..
1.3. Đối tượng nghiên cứu:………………………………………
1.4.
Phương pháp nghiên cứu:……………………………...
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:………...
2.1. Cơ sở lý luận:………………………………………………..
2.2. Thực trạng:…………………………………………………..
2.3. Các biện pháp thực hiện:……………………………………
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:……………………….
3. KẾT KUẬN, KIẾN NGHỊ:………………………………….
3.1. Kết luận:……………………………………………………..
3.2. Kiến nghị:……………………………………………………


Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 1
Trang 2
Trang 2
Trang 2
Trang 4
Trang 12
Trang 12
Trang 12
Trang 13

14



×