Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.58 KB, 16 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO YÊN ĐỊNH
TRƯỜNG TH THỊ TRẤN QUÁN LÀO

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN CHỮ VIẾT
CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện: Trịnh Thị Hằng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường TH Thị trấn Quán Lào
SKKN thuộc môn: Tiếng Việt


YÊN ĐỊNH, NĂM 2019

MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Mục đích nghiên cứu

2

3. Đối tượng nghiên cứu



2

4. Phương pháp nghiên cứu

3

B. NỘI DUNG

4

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn

4

2. Thực trạng

4

3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
3.1. Rèn chữ viết cho học sinh thông qua phân môn Tập viết, Luyện viết

6

3.2. Rèn chữ viết thông qua phân môn Chính tả

11

3.3. Rèn chữ viết thông qua các môn học khác


14

3.4. Rèn chữ viết thông qua cách chấm, chữa bài và nhận xét của giáo
viên

15

3.5. Tổ chức Đôi bạn giúp nhau tiến bộ”

16

4. Kết quả

17

6

C. KẾT LUẬN

19

1. Kết luận

19

2. Kiến nghị

19

2



A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong cuộc sống con người luôn có nhu cầu giao lưu về tình cảm với
nhau, nhằm truyền đạt những khái niệm, tri thức,…cho nhau, chính vì vậy
mà ngôn ngữ xuất hiện.
Cùng với ngôn ngữ người ta dùng cử chỉ, điệu bộ, hình vẽ,… để phụ
giúp cho ngôn ngữ trong việc biểu lộ cảm xúc, truyền đạt thông tin cho
nhau và cuối cùng là chữ viết đã xuất hiện. Đó là bước ngoặt trong lịch sử
văn minh của loài người. Chữ viết trở thành một công cụ vô cùng quan
trọng trong việc hình thành và phát triển văn hoá, văn minh của từng dân
tộc. Nhờ có chữ viết mà thông tin của con người được lưu truyền từ đời này
sang đời khác.
Con người không phải từ khi cắp sách đến trường đã biết viết chữ mà
phải trải qua một quá trình rèn luyện rất kiên trì. Từ xa xưa đã có tấm
gương rèn luyện của ông Cao Bá Quát, một người nổi tiếng “văn hay chữ
tốt” ở ngoại thành Hà Nội. Từ một người viết xấu đến mức không ai đọc
được, nhưng nhờ có lòng kiên trì luyện tập mà ông trở thành một người có
tài viết đủ các loại chữ, mà chữ nào cũng đẹp, cũng rõ ràng.
Chữ viết là một phương tiện giao tiếp giữa con người với con người,
bên cạnh ngôn ngữ nói, muốn cho mọi người đọc được chữ viết của mình,
người viết phải viết đúng, rõ ràng, đẹp. Nếu viết sai, viết ngoáy, viết chữ
quá xấu sẽ gây khó khăn cho người đọc hoặc chính bản thân mình cũng
không đọc được chữ mình viết.
Chính vì chữ viết quan trọng như vậy mà trong nhà trường nhất là
bậc Tiểu học, học sinh phải được học tập viết, chính tả,… nhằm rèn luyện
kỹ năng viết chữ ngay từ những ngày đầu cắp sách đến trường.
“Nét chữ nết người ”. Chữ viết là một công cụ giao tiếp và trao đổi
thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận những tri thức văn hoá,

khoa học và đời sống. Không những thế chữ viết còn thể hiện tính cách con
người. Vì vậy dạy học sinh viết chữ và từng bước làm chủ được công cụ
chữ viết để phục vụ cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng
đầu của môn Tiếng Việt.
Trong quá trình dạy tập viết sao cho đúng quy trình, đúng phương
pháp, có hiệu quả để nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh đòi hỏi
người giáo viên phải có sự tìm tòi, nghiên cứu và khổ luyện sao cho chữ
viết của cô đúng là mẫu của trò. Nhất là đối với các em học sinh lớp 2 vừa
từ lớp 1 lên, các em mới bước đầu làm quen với cách viết chữ nhỏ, kỹ năng
viết chữ của các em còn nhiều hạn chế. Ở lớp 2, nếu giáo viên biết cách rèn
chữ viết cho các em một cách bài bản, đúng yêu cầu đòi hỏi phải có
3


phương pháp tốt. Chính vì vậy tôi quyết định chọn viết đề tài: “Một số
biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2”.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số biện pháp rèn chữ viết cho học sinh lớp 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 2D Trường Tiểu học Thị trấn Quán Lào.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu các tài liệu.
- Nghiên cứu thực tiễn: quan sát, điều tra, đàm thoại, thu thập thông
tin, sản phẩm hoạt động của GV và học sinh, ....
- Thống kê, xử lý số liệu.

4


B. NỘI DUNG

1. Cơ sở lí luận
Lê nin đã từng nói “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng
nhất của loài người”. Luận điểm này không chỉ đơn thuần khẳng định ngôn
ngữ là phương tiện giao tiếp mà là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất
đặc trưng nhất của loài người. Không có ngôn ngữ xã hội không thể tồn tại.
Ngôn ngữ đó chính là ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết. Chữ viết chính là
ngôn ngữ viết là một trong những phát minh vĩ đại của con người. Từ khi ra
đời chữ viết là công cụ đắc lực trong việc ghi lại, truyền bá toàn bộ kho trí
thức của nhân loại. Chẳng những vậy con người còn coi chữ viết như một
người bạn thường xuyên gần gũi, thân thiết với mình. Từ tình cảm ấy con
người muốn chữ viết cũng phải đẹp, đẹp cho chính nó, đẹp cho con người.
Ngoài ra chữ viết còn góp phần quan trọng trong việc rèn luyện phẩm chất
đạo đức cho học sinh như tính cẩn thận, tính kỷ luật, khiếu thẩm mĩ. Chữ
đẹp nết người giống như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói “Chữ viết
cũng là biểu hiện của nết người: Dạy cho học sinh viết đúng, viết đẹp, viết
cẩn thận là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối
với mình cũng như đối với thầy cô và bạn đọc bài vở của mình”.
2. Thực trạng vấn đề
Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của Phòng GD&ĐT Trường
chúng tôi đã chú trọng việc rèn chữ viết cho học sinh. Hoạt động này đã thành nề
nếp và ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên, chất lượng chữ viết của trường mấy
năm gần đây chưa đều còn nhiều học sinh viết chữ chưa đẹp, học sinh viết chữ
đẹp còn rất ít nhất là khối lớp 2. Qua tìm hiểu thực tế tôi thấy:
- Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ đảm bảo cho việc
dạy và học của giáo viên và học sinh như phòng học, ánh sáng, bàn ghế, đồ
dùng cho môn học…Song vẫn còn một số bàn ghế cũ chưa phù hợp với học
sinh (Bàn thấp ghế cao…)
+ Giáo viên luôn quan tâm đến phong trào vở sạch chữ đẹp, chấm
chữa bài cho học sinh thường xuyên. Song khi chấm bài cho học sinh, học
sinh viết sai lỗi chính tả thì giáo viên chỉ gạch chân, ít sửa sai cho các em.

Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc rèn chữ viết cho học sinh.
+ Tuy điều kiện vật chất đầy đủ nhưng điều kiện hướng dẫn các em
viết bài hoặc dạy các em tư thế ngồi hoặc cách cầm bút thì hạn chế nên
không sửa cho các em được hoặc có sửa thì cũng không đúng…Một số em
có cả bố mẹ đi làm ăn xa để mặc các em ở nhà với ông bà già, chỉ coi trọng
đến việc học văn hóa không chú trọng đến chữ viết của các em.
Để xây dựng được kế hoạch nghiên cứu “Một số biện pháp rèn chữ
viết cho học sinh lớp 2”, tôi đã tiến hành khảo sát tình hình thực tế việc
5


viết chính tả của học sinh ngay từ đầu năm học. Tôi phát hiện ra gần ½ số
học sinh chữ viết chưa đẹp, không đúng ô, đúng mẫu, đúng khoảng cách…
Viết tùy tiện, cẩu thả, viết chữ không đều, vở thì bôi bẩn, góc vở quăn
trông rất xấu. Thông qua việc khảo sát chất lượng môn Toán, Tiếng Việt và
chữ viết các em trong lớp, cho thấy chữ viết các em chưa đẹp, tỷ lệ chữ
loại A còn thấp, học sinh chưa nắm vững tên gọi các dòng kẻ ngang trong
vở, chưa nắm rõ điểm đặt bút, dừng bút của các chữ. Chữ viết còn rời rạc
chưa liền mạch sai quy trình. Chữ viết hoa chưa đúng mẫu. Thường giờ
chính tả hay tập viết các em mới có ý thức viết đẹp, còn các môn học khác
thì chữ viết ẩu, tẩy xóa lem nhem.
Một số chỉ nhìn chép, chưa nghe viết được, sai nhiều lỗi chính tả,
chưa có ý thức giữ gìn vở sạch chữ đẹp. Cụ thể khảo sát chất lượng chữ
viết đầu năm của lớp tôi như sau:
Tổng số
học sinh
36

Xếp loại A
SL

14

%
38,9

Xếp loại B
SL
15

%
41,7

Xếp loại C
SL
7

%
19,4

Từ thực trạng trên, tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp mà tôi
đã rút ra được qua nhiều năm giảng dạy để giúp học sinh lớp 2D Trường tôi
viết đúng, viết đẹp.
3. Các biện pháp và cách tổ chức thực hiện
3.1. Rèn chữ viết cho học sinh thông qua phân môn Tập viết,
Luyện viết
Tập viết là môn học rất quan trọng trong việc rèn chữ viết cho học
sinh. Thông qua môn Tập viết giúp học sinh nắm được tên gọi, cách viết
các nét chữ, con chữ, cách viết liền mạch,...từ đó hình thành ở học sinh tính
cẩn thận, khoa học và tính kỷ luật. Để thực hiện tốt việc rèn chữ cho học
sinh giáo viên cần làm tốt một số việc sau:

3.1.1. Tìm hiểu thống kê các lỗi học sinh thường mắc
a. Lỗi viết sai các nét cơ bản
Học sinh còn viết sai nhiều về độ cao các con chữ, nét chữ chưa
chuẩn, viết sai nét khuyết, thường các em viết quá nhỏ hoặc quá to độ cao
không chính xác thậm chí viết không thẳng nét.
b. Lỗi viết sai quy trình
Một số em chưa viết đúng quy trình: viết đến chữ cái nào đánh dấu ngay
chữ cái đó chứ không viết liền mạch rồi mới quay lại đánh dấu thanh, dẫn
đến các con chữ trong một tiếng rời rạc, mất thời gian nhấc bút nhiều lần
c. Lỗi về thanh điệu
Hầu hết học sinh đều không phân biệt được thanh hỏi và thanh ngã
nên khi viết sai rất nhiều. Đây là lỗi khó khắc phục đối với học sinh khu
vực tỉnh Thanh Hoá nói chung và khu vực trường chúng tôi nói riêng.
Ví dụ: Sữa xe đạp, hướng dẩn, dổ dành sạch sẻ…
6


d. Lỗi về âm đầu
Học sinh thường viết sai một số chữ cái ghi các âm đầu sau:
- g/gh: Con gẹ, gê sợ…
- ng/ngh: Ngỉ ngơi, nge nhạc…
- ch/tr : Cây che, chiến chanh…
- s/x : xanh sao, nước xôi…
Trong các lỗi trên, lỗi về âm ch/tr, s/x, ng/ngh đối với lớp tôi chủ
nhiệm là phổ biến hơn cả.
đ. Lỗi về âm cuối
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau:
- an/ang: cây bàn, bàng bạc…
- at/ac: lang bạc, rẻ mạc…
- ât/âc: nổi bậc, nhất lên….

e. Lỗi về âm chính
Học sinh thường viết sai các chữ có nguyên âm đôi như: chuyện viết
thành chiện, muốn viết thành mún hoặc chuối viết thành chúi…Ngoài ra, học
sinh còn viết sai các tiếng có âm đệm o hoặc u như: huệ viết thành hệ ,…
g. Lỗi viết hoa
Lỗi viết hoa thường gặp ở dạng:
- Lỗi về viết hoa danh từ riêng, đầu câu:
Học sinh thường mắc lỗi này khi viết tên riêng chỉ người và tên riêng
nước ngoài, học sinh lớp tôi chủ nhiệm có khoảng 1/4 số em hay mắc lỗi
này nhất là những học sinh còn chậm tiến bộ (như em: Ngọc Tùng, Hữu
Nhân, Tuấn Tú…) nếu không được giáo viên nhắc nhở khi đang viết bài…
Qua thống kê tôi thấy hầu hết học sinh đều mắc các lỗi chinh tả, số
lỗi các em mắc nhiều là lỗi thanh hỏi, thanh ngã, lỗi về âm đầu, âm chính.
3.1.2. Cách tổ chức thực hiện
Trên cơ sở thống kê được số lỗi của học sinh tôi tiến hành thực hiện
rèn chữ viết cho học sinh như sau:
a. Giúp học sinh nắm vững mẫu chữ viết theo quyết định 31 của Bộ
GD&ĐT.
Ngay từ đầu năm cho học sinh xem lại bảng mẫu chữ viết thường,
bảng mẫu chữ viết hoa và bộ chữ số do Bộ giáo dục ban hành theo QĐ 31:
- Mẫu chữ theo QĐ 31 bộ chữ viết thường gồm 29 chữ cái.Trong đó:
+ Chữ có độ cao 1 đơn vị: a, ă, â, e, ê, i, m, n, o, ô, ơ, u, ư, v, x.
+ Chữ có độ cao 2 đơn vị: d, đ, g, p, q, y.
+ Chữ có độ cao 1,5 đơn vị (chỉ có 1 chữ): t.
+ Chữ có độ cao 1,25 đơn vị: r, s.
+ Chữ có độ cao 2,5 đơn vị: b, h, l, k.
- Tất cả các chữ viết hoa, các chữ số đều có độ cao giống nhau là 2,5
đơn vị.
b. Giúp học sinh nắm vững tên gọi, cách viết các nét chữ, nhóm chữ
có những nét cơ bản giống nhau.

7


Học sinh không thể viết đẹp nếu như chưa nắm vững tên gọi và cách
viết các nét cơ bản. Bởi, nếu học sinh biết và viết được các nét cơ bản, các
em sẽ có khả năng phân tích cấu tạo chữ viết và viết chữ theo một quy trình
hợp lý, chủ động được nét bút của mình. Vì vậy, ngay từ đầu năm học, tôi
đã hướng dẫn cho học sinh nắm được tên gọi, cách viết các nét chữ, nhóm
chữ có những nét cơ bản giống nhau.
b.1. Đối với chữ viết thường
* Nhóm chữ có những nét cơ bản giống nhau:
- Dạy cho học sinh luyện viết chữ thường theo các nhóm chữ có nét cơ
bản giống nhau gồm:
+ Nhóm chữ cái bắt đầu bằng nét cong: c, o, ô, a, ă, â, d,...
+ Nhóm chữ cái bắt đầu bằng nét hất: i , t , u, ư, y, ...
+ Nhóm chữ cái bắt đầu bằng nét móc: m , n , ...
+ Nhóm chữ cái bắt đầu bằng nét khuyết: l, h, k, y...
+ Nhóm chữ cái có nét xoắn: r, s.
+ Nhóm chữ cái có nét thắt: b
b.2. Đối với chữ viết hoa.
Chữ viết hoa có nét cơ bản giống nhau là đều bắt đầu bằng nét cong;
về kích thước, chữ viết hoa có chiều cao 2,5 đơn vị, riêng chữ y và g có
chiều cao là 4 đơn vị với 2,5 đơn vị ở trên và 1,5 đơn vị ở dưới dòng chuẩn.
b.3. Chữ số
Dạy cho học sinh luyện viết chữ số theo các nhóm chữ có nét cơ bản
giống nhau về kích thước, nét chữ. Căn cứ vào các nét giống nhau giáo có
thể chia chữ số thành các nhóm sau:
+ Nhóm 1: Nhóm chữ số bắt đầu bằng nét cong như: 0; 2; 3; 6; 8; 9
+ Nhóm 2: Nhóm chữ số bắt đầu bằng nét xiên như: 1; 4; 5
c. Hướng dẫn học sinh về tư thế ngồi viết, cách cầm bút, đặt vở, kĩ

thuật viết…trong tất cả các giờ học.
Quá trình tập viết có quan hệ đến nhiều bộ phận trong cơ thể của học sinh.
Học sinh không thể viết đẹp và nhanh nếu như tư thế ngồi, cách cầm bút chưa
đúng và không biết kỹ thuật lia bút, rê bút,... Do đó, giáo viên cần hướng dẫn cho
học sinh về tư thế ngồi, cách cầm bút, cách đặt vở, điểm đặt bút, điểm dừng bút,
lia bút và viết liền mạch trong tất cả các giờ học như sau:
- Tư thế ngồi viết: Khi viết phải ngồi ngay ngắn, lưng thẳng không tì
ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25- 30 cm cánh tay trái
đặt trên mặt bàn bên trái vở, cánh tay phải cũng đặt trên mặt bàn. Khi viết
bàn tay phải và cánh tay phải xê dịch từ trái sang phải.
- Cách cầm bút: Học sinh cầm và điều kiển bút bằng 3 ngón tay của
bàn tay phải. Đầu ngón tay trỏ đặt ở trên, đầu ngón tay cái giữ bên trái, phía
bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa cầm bút không
được chặt quá hoặc lỏng quá dẫn đến khó điều khiển bút, ngoài ra còn có
sự phối hợp cử động của cổ tay và cả cánh tay.

8


+ Vị trí đặt vở khi viết: Vở viết cần đặt nghiêng so với mép bàn một
góc khoảng 30o nghiêng về phía bên phải.
+ Điểm đặt bút: Là điểm bắt đầu khi viết một chữ cái. Điểm đặt bút có
thể nằm trên đường kẻ ngang hoặc không nằm trên đường kẻ ngang.
- Điểm dừng bút là vị trí kết thúc của nét chữ trong một chữ cái, điểm
dừng bút có thể trùng với điểm đặt bút hoặc không nằm trên đường kẻ
ngang.
- Toạ độ của điểm đặt bút hay dừng bút về cơ bản toạ độ này thống
nhất ở 1/3 đơn vị chiều cao của chữ có thể ở trên hoặc dưới đường kẻ
ngang.
Ví dụ: Điểm đặt bút của chữ “h” cao hơn đường kẻ ngang dưới 1/3

đơn vị chiều cao của chữ.
- Viết liền mạch: Là liền mạch giữa các nét trong một chữ cái, liền
mạch giữa các chữ trong một chữ cái, khi viết một chữ nét bút thường đưa
liền mạch từ đầu đến cuối chữ rồi sau đó mới nhấc bút lên viết tiếp các dấu
(dấu chữ, dấu thanh).
Trong khi viết, một số nét trong chữ có những xê dịch cần thiết để liền
mạch với nhau.
Ví dụ: T nối liền mạch với R thì khoảng cách giữa 2 chữ cái thu gần
lại hơn. Các chữ b, v nét xoắn đi xuống để gặp nét cong của chữ e. Chữ o
thêm nét xoắn để nối liền với chữ n
- Kỹ thuật lia bút để đảm bảo tốc độ viết trong quá trình viết một chữ
cái hay nối các chữ cái với nhau. Nét bút được thể hiện liên tục trên dụng
cụ viết (bút) nhưng không chạm vào mặt phẳng viết (giấy, bảng).
- Kĩ thuật rê bút đó là trường hợp viết đè lên theo hướng ngược lại của
nét chữ vừa viết (dụng cụ viết chạy nhẹ từ điểm kết thúc của nét đứng trước
đến điểm bắt đầu của nét đứng liền sau.
d. Hướng dẫn học sinh cách đặt vị trí dấu thanh ở mỗi chữ viết.
- Trong mỗi chữ dấu thanh bao giờ cũng phải đặt ở chữ cái ghi âm
chính của vần các dấu thanh được viết trong phạm vi một ô vuông có cạnh
là 0,5 đơn vị. (trừ thanh ngang không ghi dấu) các dấu thanh huyền ( \ ),
sắc (/ ), hỏi (?) ngã ( ˜ ) đặt ở phía trên chữ cái, dấu nặng (.) đặt ở phía dưới
chữ cái.
Trong các tiếng có nguyên âm đôi nếu không có âm cuối vần thì dấu
thanh đặt vào chữ cái thứ nhất của nguyên âm đôi.
Ví dụ: ca nhựa, cái thìa.
Nếu sau nguyên âm đôi có âm cuối vần thì dấu thanh đặt vào chữ cái
thứ hai của nguyên âm đôi .
Ví dụ: con kiến, rượu, chuỗi cườm....
Tóm lại: Từ việc cho học sinh nắm vững tên gọi, cách viết các nét chữ
cơ bản, các nhóm chữ có những nét cơ bản giống nhau giáo viên chủ nhiệm

tiến hành dạy Tập viết, Luyện viết cho học sinh theo chương trình (SGK).
Việc dạy Tập viết, Luyện viết được tiến hành theo một quá trình từ nhận
9


diện (hình dáng, kích cỡ chữ), thao tác viết đưa bút theo đúng quy trình viết
đến biết nối các nét chữ hoa với chữ thường trong một tiếng. Kết hợp dạy
kỹ thuật viết chữ với kĩ năng rèn chính tả. Nhằm tạo điều kiện để học sinh
chủ động tiếp nhận kiến thức (học sinh tự quan sát, nhận xét, ghi nhớ) tự
giác luyện tập và rút ra kinh nghiệm qua thực hành dưới sự hướng dẫn của
giáo viên, từ đó giúp học sinh tự hình thành và trau dồi kĩ năng viết chữ
bằng cách sử dụng trực quan triệt để (trực quan có thể phóng to trên bảng,
chữ mẫu của giáo viên khi viết bảng, chấm bài và phê vào vở của học sinh)
nhằm khắc sâu biểu tượng về chữ viết bằng nhiều cách: mắt nhìn, tai nghe,
tay viết, từ đó giúp học sinh chủ động phân tích và nắm vững được hình
dáng, cấu tạo của chữ mẫu để các em viết đúng, đẹp và nhanh.
3.2. Rèn chữ viết thông qua phân môn Chính tả
Học sinh chỉ có thể viết đúng khi nắm được quy tắc, mẹo luật chính tả.
Do đó, việc rèn chữ viết cho học sinh thông qua môn chính tả là rất cần
thiết. Để giúp học sinh viết đúng, đẹp tôi thực hiện như sau:
3.2.1. Tìm ra nguyên nhân mắc lỗi
- Học sinh viết sai lỗi chính tả chủ yếu do các em ở lớp dưới chưa nắm
vững âm, vần, chưa phân biệt được cách phát âm của giáo viên, chưa hiểu
nghĩa của từ, chưa chú ý khi viết chinh tả (như thiếu dấu phụ, dấu thanh)
- Do sự phức tạp của chữ quốc ngữ : các nguyên đôi ie, ươ, uô lại
được ghi bằng các dạng iê, yê, ia.ya, uô, ua, âm đệm lại được ghi bằng hai
con chữ u và o dẫn đến có nhiều vần khó viết đối với học sinh yếu (uya,
uyu, uênh, oeo, uêch…
- Do học sinh không hiểu nghĩa của từ, phát âm sai (iu /iêu, et/ec…)
- Do học sinh không nắm được quy tắc chính tả (g chỉ được ghép với

a, ă, â, o, ô, ơu, ư, còn gh, ngh đi với e, ê, i…)
- Do ảnh hưởng của tiếng địa phương, nói như thế nào viết thế ấy
(VD: ở địa bàn huyện Yên Định tỉnh Thanh Hoá thường nói sai các nguyên
âm đôi và các tiếng có âm ch nói thành tr.
- Do các em chưa có ý thức ngồi học nghiêm túc. Chưa có thói quen
giữ vở sạch, viết chữ đẹp. Khi viết sai các em có thói quen xóa nhiều lần.
Tay cầm bút chưa đúng quy định.
3.2.2. Cách tổ chức thực hiện
a. Giúp các em nắm luật (nguyên tắc) viết Chính tả.
Một trong những việc làm không thể thiếu được khi luyện viết cho
học sinh là giúp học sinh nắm được nguyên tắc chính tả. Vì khi viết cho dù
học sinh viết đẹp và đúng mẫu chữ quy định nhưng sai lỗi chính tả dẫn đến
tình trạng người đọc hiểu không đúng hoặc hiểu sai vấn đề mà mình muốn
trình bày. Do đó giáo viên cần giúp cho học sinh nắm được quy tắc, meo
luật chính tả.
Ví dụ:
- Phân biệt dấu hỏi, dấu ngã: Khi một chữ của từ láy đã viết dấu
huyền, dấu nặng, dấu ngã thì chữ kia phải viết dấu ngã (sẵn sàng, dữ dội, dễ
10


dãi, đẹp đẽ ...). Khi một chữ của từ láy đã viết dấu sắc, không dấu hoặc dấu
hỏi thì chữ kia phải viết dấu hỏi chứ không viết dấu ngã (như: Mát mẻ, hớn
hở, vui vẻ, lẻ loi,...).
- Phụ âm k, (ngh, gh) đứng trước các nguyên âm : e, i, ê .
- Phụ âm c, gh, g đứng trước các nguyên âm còn lại: o, a, u,...
- Phân biệt r, d, gi: "gi" và "r" không kết hợp với âm đầu vần (âm
đệm) trong trường hợp có âm đầu vần luôn viết "d" (như duyên nợ, doạ nạt,
duy trì ...), những tiếng của từ Hán Việt mang dấu ngã, dấu nặng thì viết
"d" (như: Diện tích, diệu kỳ ...) mạng dấu hỏi, dấu sắc viết "gi" (như: giả

định, giáo viên, giải thích ...), trong kiểu láy âm những tiếng nào phỏng
tiếng động và chỉ sự rung động đều viết "r" (rì rào, rả rích, réo rắt ...)...
- Từ có âm đầu là m, n, nh, v, l, d, thì viết là dấu ngã:
Ví dụ: M: mĩ mãn, mã lực, cần mẫn…
N: Nỗ lực, trí não, nữ giới…
NH: nhẫn nại, nhẵn bóng, nhõng nhẽo…
V: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trụ,võ nghệ…
L: lễ phép, lữ hành, kết liễu, lạnh lẽo…
D: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành…
b. Giúp các em hiểu nghĩa từ để viết đúng:
Học sinh khó có thể viết đúng khi không hiểu nghĩa của từ. Do đó, để
học sinh viết đúng giáo viên cần lưu ý giúp cho học sinh hiểu nghĩa của từ
để từ đó giúp cho học sinh viết đúng.
Ví dụ: Trung/ chung: "Trung" có nghĩa là "ở giữa, ở trong" (viết tập
trung, trung tâm, không trung, trung bình) hết lòng vì người khác, hết lòng
vì nước (trung thành, trung hiếu, trung quân ...) còn "Chung" có nghĩa là
"không riêng, cùng" (chung sống, chung thuỷ, chung kết ...).
c. Đối với bài chính tả so sánh:
Giáo viên cần vận dụng việc dạy dạng bài tập chính tả âm vần có nội
dung so sánh sao cho phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Đối với
những bài tập chính tả mà các âm, vần học sinh ở địa phương mình viết
không bị sai thì giáo viên có thể thay thế nội dung (SGK) hoặc thay thế
bằng những bài tập khác có nội dung phù hợp để chữa lỗi chính tả cho học
sinh địa phương.
Song song với những việc làm trên, khi dạy chính tả cần lưu ý:
- Đối với những từ khó viết giáo viên cho học sinh viết bảng con nhiều
lần rồi mới viết vào vở.
- Giáo viên cố gắng đọc đúng để học sinh nghe đúng từ đó giúp học
sinh viết đúng. Ngoài ra, đối với những từ khó viết, những tiếng, từ học
sinh hay nói sai do tiếng địa phương tôi cho học sinh viết bảng con nhiều

lần rồi mới viết vào vở. Tôi cố gắng đọc đúng để học sinh nghe đúng từ đó
giúp học sinh viết đúng, viết đẹp.
3.3. Rèn chữ viết thông qua các môn học khác

11


Giáo viên cần tận dụng việc viết các bài học, bài làm ở các môn học
khác để học sinh tập viết. Sự nghiêm khắc của giáo viên về chất lượng chữ
viết ở tất cả các môn học là cần thiết. Có như vậy, việc luyện tập chữ mới
được củng cố đồng bộ, thường xuyên. Việc làm này đòi hỏi giáo viên ngoài
những hiểu biết về chuyên môn cần có sự kiên trì, cẩn thận và lòng yêu
nghề, mến trẻ. Do đó, khi học sinh học các môn học như: Tập làm văn,
Toán, Luyện từ và câu, Tập đọc, Tự nhiên - xã hội ... giáo viên kịp thời phát
hiện các lỗi sai phổ biến của học sinh, từ đó hướng dẫn học sinh sửa lại
từng loại lỗi sai ở tất cả các phân môn.
Ví dụ:
- Thông qua môn Toán: Khi chấm vở bài tập toán cho học sinh thấy
các em viết chữ số chưa đẹp giáo viên cần viết mẫu các chữ số bên cạnh
yêu cầu học sinh về viết lại chữ số.
- Thông qua môn Tập đọc: Khi dạy môn Tập đọc giáo viên giúp các
em đọc đúng các từ khó và hiểu nghĩa các từ khó hiểu, vì khi các em đọc
đúng và hiểu nghĩa của từ thì sẽ giúp các em viết đúng, đẹp, nhanh.
- Thông qua môn Luyện từ và câu: Khi dạy luyện từ và câu giáo viên
xây dựng cho học sinh qui tắc viết hoa tên người và tên địa danh ...
- Thông qua môn Tập làm văn: Khi phát hiện có học sinh viết nét
khuyết bị gẫy lưng, giáo viên cần nhắc học sinh viết đúng nét khuyết (lưng
nét khuyết đứng thẳng) sau đó GV viết mẫu vào vở luyện viết cho học sinh
luyện viết ở nhà. Song song với việc làm trên mỗi khi học sinh viết bài tập
Toán, bài tập Tiếng Việt,

Tự nhiên xã hội ... giáo viên phải là người trực tiếp kiểm tra hướng dẫn và
giúp các em sửa sai ngay (nếu có)… Khi chấm những môn học này, tôi
thường dành những lời nhận xét thật khích lệ cho bài viết sạch đẹp, trình
bày khoa học. Khi trả bài nhận xét tôi không quên nhận xét chữ viết của
các em.
Tóm lại: Rèn chữ viết thông qua các môn học là một việc làm có tính
khả thi, giáo viên cần phải phát huy. Vì chỉ khi giáo viên tiến hành rèn chữ
viết ở tất cả các phân môn thì mới giúp cho học sinh viết đúng và viết đẹp.
3.4. Rèn chữ thông qua cách chấm, chữa bài và nhận xét của giáo viên
Mỗi giáo viên phải là một tấm gương về chữ viết cho học sinh noi
theo. Như chúng ta đã biết chữ mẫu của giáo viên là hình thức trực quan và
sinh động, hấp dẫn mẫu mực đối với học sinh trong việc rèn chữ viết, mỗi
nét chữ của giáo viên là nét mẫu cho HS noi theo nên khi viết bảng hay
chấm bài, nhận xét vào vở của học sinh phải rõ ràng, đúng và đẹp.
- Khi chữa lỗi cho học sinh tôi thường tổ chức chữa lỗi theo nhóm,
phân những học sinh cùng mắc lỗi thành một nhóm, mỗi nhóm có 1 em khá
phụ trách hướng dẫn các bạn trong nhóm phát hiện lỗi và cùng thảo luận
cách sửa lỗi đó.
- Đối với những em yếu tôi thường chấm tay đôi và chỉ ra lỗi sai yêu
cầu em đó viết lại các từ đã sửa dưới bài viết.
12


Ví dụ: Khi chấm bài phát hiện có học sinh viết chữ "g" bị gãy lưng giáo
viên nên dùng bút đỏ gạch chân dưới chữ học sinh viết sai và dùng bút đỏ
viết lại chữ viết đúng ở bên cạnh chữ viết sai của học sinh và khi trả bài GV
nhận xét lỗi một cách ngắn gọn. Sau đó cho học sinh nêu cấu tạo chữ "g"
(cao mấy đơn vị? rộng mấy đơn vị? gồm mấy nét? là những nét nào?), qui
trình viết chữ "g" rồi yêu cầu học sinh đó lên bảng viết lại chữ "g" và cho
học sinh về nhà viết lại chữ đã viết sai theo đúng chữ mẫu của giáo viên.

- Khi chấm nhận xét bài của học sinh giáo viên cần nhận xét nhẹ
nhàng không nên chê các em trước lớp.
Ví dụ: Trong lớp có em Hữu Nhân và em Ngọc Tùng viết chưa đạt yêu
cầu (sự tiến bộ rất chậm) sau mỗi lần chấm vở tôi đã giúp em sửa những lỗi
sai, khi trả vở cho học sinh không nói em viết xấu, cẩu thả mà chỉ nói: em
viết chữ có tiến bộ song cần cố gắng nhiều hơn nữa để đạt loại A. Sau vài
lần như vậy chữ viết của em Hữu Nhân và em Ngọc Tùng đã tiến bộ rõ rệt.
Do đó khi dạy giáo viên phải nhẹ nhàng không nên gắt gỏng chê bai học
sinh, mà phải gần gũi yêu thương học sinh .
3.5. Tổ chức “Đôi bạn giúp nhau tiến bộ”
Ngoài ra, trong giờ học tôi còn tổ chức cho học sinh “ Đôi bạn giúp nhau
tiến bộ” đối với học sinh của lớp, cụ thể:
+ Những học sinh đọc viết đúng r- d- gi hoặc s- x.. sẽ giúp đỡ bạn
còn đọc viết sai (nếu ở gần nhà nhau càng tốt)
+ Học sinh viết chữ đẹp sẽ giúp bạn còn viết sai nét, sai chính tả.
Để việc thực hiện có hiệu quả, giáo viên chủ động xếp học sinh ngồi
gần nhau để học sinh tự sửa khi nói, khi viết cho nhau và cả khi trò chuyện
cùng nhau hay lúc ra chơi. Xưa có câu: “Học thầy không tày học bạn” và
“Thua thầy một vạn không bằng thua bạn một ly”. Chính vì vậy, khi
giáo viên giúp học sinh hiểu rõ điều này trong học tập thì việc tổ chức cho
học sinh cùng nhau học hỏi, cùng nhau thi đua, rèn luyện đó là việc tốt nên
làm. Sau từng tuần, từng tháng, giáo viên tổng kết, tuyên dương từng em,
từng “đôi bạn”. Nhận xét mang tính khuyến khích, động viên các em là
chính.
Trên đây là 5 biện pháp mà tôi đã áp dụng để rèn chữ viết cho học
sinh lớp 2D Trường TH Thị trấn Quán Lào, qua vận dụng thực tế giảng dạy
tôi thấy mỗi biện pháp đều có ưu điểm riêng nhưng biện pháp “Rèn chữ
viết cho học sinh thông qua phân môn Tập viết, Luyện viết và phân
môn chính tả” là không thể thiếu được trong quá trình rèn chữ viết cho học
sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng. Tuy nhiên, nếu chúng

ta quan tâm phối hợp các biện pháp với nhau một cách phù hợp thì học
sinh của chúng ta sẽ viết đúng, viết đẹp hơn.
4. Kết quả
Sau một năm nghiên cứu và thực hiện các biện pháp trên đối với học
sinh lớp 2D Trường TH Thị trấn Quán Lào (năm học 2018-2019) tôi đã
nhận thấy học sinh lớp tôi tiến bộ rõ rệt, số lỗi sai giảm hẳn. Những em
13


trước kia viết không đúng mẫu sai nhiều lỗi nay đã tiến bộ rõ rệt, vở từ loại
B lên loại A như em Vinh, Tuấn Tú từ loại C lên loại B như em Hữu Nhân
và em Ngọc Tùng …
Kết quả xếp loại “Vở sạch chữ đẹp” của lớp tôi qua từng tháng như sau:
Tổng số học sinh được kiểm tra "vở sạch chữ đẹp" hàng tháng: 36 em
Tháng

Xếp loại A

Xếp loại B

Xếp loại C

Kết quả XL

SL

%

SL


%

SL

%

9

14

38,9

15

41,7

7

19,4

Không đạt

10

16

44,4

14


38,9

6

16,7

Không đạt

11

18

50

13

36,1

5

13,9

Không đạt

12

20

55,6


13

36,1

3

8,3

Không đạt

1

26

72,2

9

25

1

2,8

2

29

80,6


7

19,4

0

0.00

3

31

86,1

5

13,9

0

0.00

Đạt
Đạt
Đạt

Nhận xét về những mặt đạt được và chưa đạt được sau một năm
nghiên cứu thực hiện:
- Nhìn chung các em đã viết đúng cỡ chữ quy định, viết đúng chính
tả, viết đều, viết đẹp, sạch đạt tốc độ quy định. Tháng 1, tháng 2, tháng 3

lớp tôi luôn là lớp đạt "Vở sạch chữ đẹp" cấp trường.
- Đối chiếu với kết quả kiểm tra vở sạch chữ đẹp đầu năm tôi thấy:
Số học sinh có vở xếp loại A tăng: 47.2%. Số học sinh có vở xếp loại B
giảm: 27.8%. Và không còn học sinh có vở xếp loại C.
Điều này chứng tỏ nếu được sự quan tâm đúng mức cùng với sự
hướng dẫn chu đáo, hợp lý của người thầy thì chất lượng học tập của học
sinh sẽ được nâng lên.

14


C. KẾT LUẬN
1. Kết luận
Qua việc nghiên cứu thực hành dạy - học tôi đã rút ra kinh nghiệm để
rèn chữ viết cho học sinh lớp 3 như sau:
- Xây dựng phong cách dạy - học tự tin, nhẹ nhàng, thoải mái luôn đặt
ra câu hỏi: "Dạy cái gì? Dạy cho ai" để có cách dạy phù hợp với từng đối
tượng học sinh .
- Giáo viên phải nắm vững nội dung, phương pháp dạy học môn Tập
viết và nắm vững các nét chữ, mẫu chữ theo Quyết định số 31/2002/QĐ BGD&ĐT ngày 14/6/2002.
- Chữ viết của giáo viên phải đúng mẫu, đẹp. Giáo viên phải nhiệt
tình, kiên trì, hết lòng thương yêu học sinh. Luôn động viên và khuyến
khích các em dù bài viết còn chưa đẹp.
- Phòng học phải thoáng và có đủ ánh sáng, bàn ghế đúng quy cách.
- Rèn chữ viết phải tiến hành thường xuyên liên tục và đồng bộ ở tất
cả các môn học, ở lớp cũng như ở nhà.
- Tích luỹ sưu tầm những mẫu chữ đẹp, có sáng tạo để làm tư liệu dạy
học. Làm đồ dùng dạy học phải hợp lí, khơi dạy cho học sinh thích thú, tò
mò để phát triển tư duy cho các em.
- Đánh giá bài viết phải mang tính khích lệ.

- Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội .
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân được rút ra trong
thời gian dạy học vừa qua. Qua bài viết này tôi mong có được sáng chia sẻ
cùng các bạn đồng nghiệp. Do trình độ và năng lực có hạn, chắc chắn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong có được sự chỉ bảo, đóng
góp ý kiến của Hội khoa học các cấp và các bạn đồng nghiệp để chuyên
môn của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.
2. Kiến nghị, đề xuất
2.1. Đối với nhà trường
- Cần tổ chức các cuộc thi trong các buổi ngoại khóa dưới những hình
thức khác nhau để rèn cho học sinh các kĩ năng: nghe - đọc - nói - viết…
- Bàn ghế phải phù hợp với học sinh theo từng lứa tuổi.
2.2. Đối với phòng giáo dục
Vấn đề viết đúng, viết đẹp phòng đã chỉ đạo tới các trường nhưng để
giáo viên và học sinh thực hiện tốt, theo chúng tôi Phòng GD&ĐT nên tổ
chức nhiều các buổi hội thảo theo cụm hoặc tập trung về biện pháp rèn chữ
viết cho giáo viên chúng tôi học tập.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Yên Định, ngày 18 tháng 3 năm 2019

15


Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

16




×