Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 20 trang )

1. Mở đầu
1. 1. Lý do chän ®Ò tµi:
Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo những con người lao động, tự chủ, năng
động, sáng tạo, có những kĩ thuật, có năng suất cao, đáp ứng nhu cầu phân công
trong xã hội.Đặc biệt là giáo dục bậc tiểu học là nền tảng cho các bậc học phổ
thông. Chính vì vậy, chúng ta cần coi trọng việc nâng cao chất lượng đào tạo.
Ở cấp tiểu học, mỗi môn học đều góp phần vào việc phát triển những cơ sở
ban đầu quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học, môn Tiếng
Việt là một môn học có vị trí quan trọng trong việc phát triển nhân cách con
người, kích thích sự sáng sáng tạo của học sinh, nó góp phần giúp học sinh phát
triển ngôn ngữ, là nền tảng cho bậc học tiếp theo.Qua cách miêu tả quan sát các
em nhận thức được một số mặt của thế giới xung quanh và biết cách hoạt động
có hiệu quả trong đời sống.
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học
sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân
môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm
văn…Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của
các phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một
văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan
trọng, thông qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức,
trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác
trong cuộc sống lao động.
Ngôn ngữ (dưới dạng nói-ngôn bản, và dưới dạng viết-văn bản) giữ vai
trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho
học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ
thuộc phần lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập
làm văn lớp 3 nói rêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn theo
hướng đổi mới như thế nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh?
Cách thức tổ chức, tiến hành tiết dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như
mong muốn.


1.2. Môc ®Ých cña ®Ò tµi :
Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn
khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm
văn với mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình
bày văn bản (nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện,
viết thư, tường thuật, kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về mình và
những người xung quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập
này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc
1


phi núi, cỏc em thng c li bi vit ó chun b trc. Do ú, gi dy cha
t hiu qu cao.
Xut phỏt t thc tin ú, l mt giỏo viờn,qua thc t mt s nm ging
dy tụi ó chn vit sỏng kin kinh nghim Mt s bin phỏp nõng cao cht
lng dy v hc Tp lm vn lp 3 .
1.3. Đối tợng nghiên cứu.
- Hc sinh lp 3
- Là những bài tập thuộc mạch kiến thức Mụn Tp Lm Vn
trong chơng trình lớp 3 ở Tiểu học.
1.4. Phng phỏp nghiờn cu.
Trong qua trỡnh nghiờn cu, tụi ó ỏp dng mt s phng phỏp sau:
- Phng phỏp nghiờn cu ti liu, lớ lun.
- Phng phỏp phõn tớch, tng hp.
- Phng phỏp iu tra, kho sỏt
- Phng phỏp luyn tp, thc hnh
- Phng phỏp thng kờ.
2. Ni dung sỏng kin kinh nghim.
2.1. C s lý lun :
Tp lm vn l mt trong nhng phõn mụn cú v trớ quan trng ca mụn

Ting Vit. Phõn mụn ny ũi hi hc sinh phi vn dng nhng kin thc tng
hp t nhiu phõn mụn. lm c mt bi vn, hc sinh phi s dng c bn
k nng: nghe, núi, c, vit. Phi vn dng cỏc kin thc v ting vit, v cuc
sng thc tin.
Phõn mụn Tp lm vn rốn luyn cho hc sinh cỏc k nng to tp vn bn,
trong quỏ trỡnh lnh hi cỏc kin thc khoa hc, gúp phn dy hc sinh s dng
ting vit trong i sng sinh hot. Vỡ vy, tp lm vn c coi l phõn mụn cú
tớnh tng hp, cú liờn quan mt thit n cỏc mụn hc khỏc. Trờn c s ni
dung, chng trỡnh phõn mụn tp lm vn cú rt nhiu i mi, nờn ũi hi tit
dy Tp lm vn phi t c mc ớch c th hn, rừ nột hn. Ngoi phng
phỏp ca thy, hc sinh cn cú vn kin thc, ngụn ng v i sng thc t.
Chớnh vỡ vy, vic dy tt cỏc phõn mụn khỏc khụng ch l ngun cung cp kin
thc m cũn l phng tin rốn k nng núi, vit, cỏch hnh vn cho hc sinh.
Túm li: Dy tp lm vn theo hng i mi phi khớch l hc sinh tớch
cc, sỏng to, ch ng trong hc tp; bit din t suy ngh ca mỡnh thnh
ngụn bn, vn bn. Núi cỏch khỏc, cỏc phõn mụn trong mụn Ting Vit l
phng tin h tr cho vic dy tp lm vn c tt.
2.2. Thc trng vn trc khi ỏp dng sỏng kin kinh nghim.
+ V phớa giỏo viờn:
Qua thc t d gi thm lp ca giỏo viờn tụi nhn thy:
2


- Giáo viên còn thụ động kiến thức ở SGV mà không chịu tìm tòi đọc thêm
tài liệu khác liên quan đến giảng dạy đặc biệt là khi dạy Tập làm văn nên ngôn
ngữ của giáo viên còn hạn hẹp, bí từ.
- Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa thực sự đầu tư vào
chất lượng bài soạn. Việc làm đồ dùng và sử dụng đồ dùng của giáo viên còn
nhiều hạn chế.
- Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp

dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo
một quy trình áp đặt rập khuôn.
- Việc tổ chức dạy các giờ tập làm văn (được coi là dạy mẫu ) ở các trường
tiểu học chưa nhiều nên giáo viên chưa có cơ hội để học tâp lẫn nhau nhằm
nâng cao năng lực giảng dạy.
+ Về phía học sinh:
Học sinh lớp 3 đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học. Môn Tiếng Việt
nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung phong phú, sách giáo
khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện đại, hấp dẫn
học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. Các em ở lớp 2 đã nắm vững
kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt
phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
Tuy nhiên do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng
mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao. Hơn
nữa, Tập làm văn là một trong những phân môn khó nên học sinh không hứng
thú học bằng các phân môn khác của Tiếng Việt.
- Sự hiểu biết của học sinh lớp 3 về phân môn Tập làm văn còn hạn chế.
Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn tập làm văn của lớp 2.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến
việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành
độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính sáng
tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách
chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Học sinh ở đây còn dùng nhiều tiếng địa phương nên khi nói, viết còn
mắc nhiều lỗi do phát âm, các em còn nói tiếng địa phương và dùng từ ngữ của
địa phương nhiều . Do vậy ngôn ngữ văn học của các em còn tối nghĩa, câu văn
chưa trọn vẹn, ý văn còn nghèo nàn, dẫn đến phần trình bày văn nói chưa hấp
dẫn, phần văn viết còn chưa trau chuốt do đôi chỗ diễn đạt theo ảnh hưởng của

khẩu ngữ.

3


-Nhiều học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví
dụ: phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
Năm học 2016 - 2017 là năm học tôi nhận nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 3. Vào tháng 9 - tuần 3 tôi đã khảo sát học sinh lớp 3B với đề bài như
sau:
Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen.
* Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh lớp 3B: 32 em.
Nội dung khảo sát
Số học sinh Tỷ lệ%
1.Biết viết câu, dùng từ hợp lý.
22/32
68,2
2. Biết nói-viết thành câu.
20/32
62
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
18/32
55,8
4.Biết trình bày đoạn văn.
22/32
68,2
5.Bài viết học sinh đạt từ hoàn thành trở lên
22/32
68,2

Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình
ảnh, vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết
của các em chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể
hiện phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của
học sinh trong giờ học.
2.3. Nh÷ng gi¶i ph¸p đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
*Các giải pháp thực hiện:
- Nắm vững mục tiêu, cấu trúc nội dung chương trình của môn Tiếng Việt
lớp 3 nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng.
- Nắm vững phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học của phân môn.
Biết kết hợp các phương pháp và hình thức tổ chức một cách hài hoà và phù hợp
nhằm làm cho tiết học đạt hiệu quả cao.
- Chuẩn bị và xây dựng bài học cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh
lớp mình.
- Có hiểu biết về tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 3 nhất là từng đối tượng học
sinh trong lớp.
- Có lòng yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc
được giao.
- Luôn thực hiện việc tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy,
mỗi phần kiến thức để bổ sung điều chỉnh ở các bài sau, năm học sau.
Các dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề”
trong phân môn tập làm văn về cấu trúc như sau: Số lượng bài tập ít hơn so với
môn Tâp Làm Văn Lớp 2 nhưng nội dung có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài
học được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và bài

4


tập rèn kỹ năng viết. Đối với hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như
sau:

- Dang bài “Kể hay nói, viết về một chủ đề gồm có 16 bài tập như: Nói về
đội TNTP Nói về thành thị hoặc nông thôn; Nói về quê hương; Nói, viết về
cảnh đẹp đất nước...
- Dạng bài “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như : Nghe - Kể: Dại
gì mà đổi; Nghe - kể : Không nỡ nhìn ; Nghe kể: Tôi cũng như bác ; Nghe- kể:
Giấu cày... Tuy nhiên chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày
19/9/2011 thì đã cắt bỏ một số bài tập không yêu cầu học sinh làm đó là: Nghe kể: Tôi có đọc đâu( TLV tuần 11); Nghe - kể: Tôi cũng như bác( TLV tuần 14);
Nghe - kể: Giấu cày( TLV tuần 15); Nghe - kể: Kéo cây lúa lên ( TLV tuần 16).
Như vậy dạng bài này trong chương trình Tập làm văn lớp Ba dạy 6 bài tập còn
lại. Nội dung kiến thức và yêu cầu rèn luyện kỹ năng ở phân môn tập làm văn
lớp 3 khá khó, nhiều bài tập mang tính thực hành từ thực tế xung quanh các em
như: Kể về gia đình mình; Nói, viết về thành thị hoặc nông thôn. Qua đó học
sinh hình thành được các kỹ năng tạo lập văn bản. Muốn dạy tập làm văn cho
học sinh có hiệu quả, giáo viên cần:
- Nắm vững mục tiêu, nội dung bài học, lựa chọn và phối hợp các phương
pháp dạy học; các hình thức dạy học phù hợp với yêu cầu của từng bài. Có như
thế mới nâng cao được chất lượng giờ học, bồi dưỡng được những tình cảm lành
mạnh, tốt đẹp cho học sinh.
- Chuẩn bị và xây dựng bài học cụ thể phù hợp với từng đối tượng học sinh
lớp mình.
- Có hiểu biết về tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 3 nhất là từng đối tượng học
sinh trong lớp.
- Có lòng yêu nghề mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc
được giao.
- Luôn thực hiện việc tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm sau mỗi tiết dạy,
mỗi phần kiến thức để bổ sung điều chỉnh ở các bài sau, năm học sau.
Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đưa ra một số kinh nghiệm nhỏ giới hạn
trong việc vận dụng phương pháp và hình thức dạy học phù hợp nhằm nâng cao
hiệu quả cho học sinh khi học các dạng bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay
nói, viết về một chủ đề” trong phân môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học

hiện nay.
a, Dạng bài “Nghe - Kể lại chuyện”
Đây là một đạng đề khá khó trong chương trình tập làm văn lớp 3. Ngữ
liệu học tập của dạng đề này phần lớn là các chuyện vui nên năm học này Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình giảm tải nhằm bỏ bớt một số bài

5


tập không yêu cầu học sinh thực hành. Trong sách giáo viên, hầu hết các tiết dạy
dạng đề này được triển khai theo cùng một hướng như sau:
- Giáo viên kể chuyện 2 hoặc 3 lần
- Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi ý chi tiết để học sinh làm điểm tựa nhớ lại
nội dung truyện.
- Một vài học sinh kể: Học sinh kể theo nhóm ; Đại diện vài nhóm học
sinh kể lại chuyện trước lớp.
Để hoạt động của tiết học dạng đề trên đa dạng hơn, học sinh vui và tích
cực học hơn, giờ học có hiệu quả hơn. Tôi xin đưa ra những kinh nghiệm dạy
học như sau:
Cách 1:
- Cho học sinh xem tranh và đoán nội dung truyện. Giáo viên ghi những
điều cơ bản nhân vật, một vài sự kiện mà học sinh đoán được lên bảng, cho học
sinh làm việc cá nhân hay nhóm .
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: “ không nỡ nhìn”( tiết TLV- tuần 7)

- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện hai lần.
- Học sinh đối chiếu giữa nội dung chuyện vừa được nghe với nội dung
mình đã đoán để điều chỉnh những điều đã đươc ghi trên lớp vào phiếu học tập.
- Học sinh trao đổi về một vài điều thú vị trong truyện hay ý nghĩa của
truyện.

- Học sinh kể lại chuyện theo nhóm. Đại diện vài nhóm học sinh kể lại
chuyện trước lớp (có thể nhập vai kể)
- Học sinh nhận xét, giáo viên bổ sung, nhận xét chung.
Cách 2:

6


- Giáo viên kể một phần đầu của câu chuyện sau đó đặt câu hỏi đề nghị học
sinh đoán sự kiện gì có thể xảy ra tiếp theo. Giáo viên ghi một vài ý học sinh
đoán lên bảng.
- Học sinh nghe giáo viên kể tiếp rồi trao đổi đối chiếu điêu được nghe với
điều đã đoán để điều chỉnh phần được ghi trên bảng.
- Giáo viên kể lại chuyện 2 lần đề nghị học sinh nêu thêm một số tình tiết
nữa phần đầu của truyện( ở hoạt động này giáo viên có thể dùng thẻ từ ghi các
sự kiện thể hiện trong phần đầu của ttruyện và học sinh chọn đưa vào dàn ý đã
có trên bảng).
- Học sinh trao đổi về ý nghĩa hoặc một vài chi tiết thú vị trong chuyện.
- Học sinh kể lại chuyện theo nhóm. Đại diện vài nhóm học sinh kể lại
chuyện trước lớp.
- Cả lớp nhận xét, giáo viên bổ sung và nhận xét chung.
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: Dại gì mà đổi. ”( tiết TLV- tuần 4)
- Các em thử đoán xem cậu bé trả lời như thế nào?
- Giáo viên ghi một vài ý học sinh đoán lên bảng :
Ví dụ :
+ Cậu bé òa khóc.
+ Cậu bé hét lên.
+ Cậu bé mừng rỡ.
+ Cậu bé không đồng ý dổi.
- Giáo viên kể tiếp câu chuyện và cho học sinh đối chiếu điều được nghe

với điều đã đoán để điều chỉnh phần ghi ở bảng.
- Giáo viên kể chuyện lần 2, đề nghị học sinh nêu lên một số tình tiết nửa
phần đầu của truyện. Giáo viên có thể đưa lên một số thẻ từ ghi một số tình tiết
của chuyện.
Ví dụ:
+ Mẹ sẽ chẳng đổi được đâu!
+ Vì sao mẹ đổi?
+ Mẹ không muốn đổi đứa con ngoan để lấy một đứa con nghịch ngợm.
Cách 3:
- Giáo viên kể chuyện một lần và đề nghị học sinh cho biết: câu chuyện có
mấy nhân vật? giáo viên phác hoạ hình các nhân vật đó lên bảng (băng cách vẽ ô
tròn và trên đó ghi tên nhân vật)
- Học sinh nghe giáo viên kể chuyện lần 2 rồi viết xung quanh nhân vật
một số từ hay cụm từ thể hiện hành động hay suy nghĩ của nhân vật (xây dựng
mạng câu chuyện). Nếu học sinh có khó khăn thì giáo viên đặt một số gợi ý.
- Học sinh trao đổi điều chỉnh mạng câu chuyện theo nhóm.Một số học sinh
nhìn mạng câu chuyện rồi kể lại chuyện trước lớp.
7


- Học sinh dựa vào mạng câu chuyện để kể lại chuyện theo nhóm.
Học sinh thảo luận theo ý nghĩa của chuyện.
Ví dụ: Nghe kể lại chuyện: “Người bán quạt may mắn” (tiết TLV- tuần
24)
nổi tiếng chữ
đẹp

nghỉ
mát


phàn nàn quạt ế

Ông
Vương Hi
Chi
lấy bút
mực ra viết
vào quạt

thu xếp
bút mực ra đi

thiu thiu ngủ
Bà lão bán
quạt

bắt đền ông
Vương

bán quạt
chạy

Khi dạy dạng bài trên có rất nhiều cách để tiến hành giờ học dạy dạng bài
“Nghe - kể lại chuyện”. Giáo viên có thể tuỳ vào tình hình của lớp, trình độ học
sinh để chọn cách dạy phù hợp nhất.Cho dù dạy theo cách nào, giáo viên cũng
phải có sự chuẩn bị bài trước (Tranh ảnh phục vụ nội dung truyện hoặc xây dụng
mạng câu chuyện: Phiếu bài tập) để giờ học sinh động, gây hứng thú học tập cho
học sinh hơn.Chú ý giao việc cho học sinh rõ ràng đặc biệt là khi hoạt động
nhóm và nên theo dõi gíúp đỡ học sinh, tạo cho các niềm tin, mạnh dạn hơn
trong học tập

b. Dạng bài: Kể hay nói, viết về một chủ đề.
* Mục đích: Nội dung các bài tập thuộc dạng bài này nhằm rèn cho học
sinh kỹ năng diễn đạt bằng lời nói( viết) về một chủ đề nào đó: Nói viết về thành
thị hoặc nông thôn; Kể về gia đình ; Kể về một buổi thi đấu...Xem xét cách triển
khai câu hỏi gợi ý ở mỗi đề, chúng ta có thể thấy dạng đề này hầu như là sự kết
hợp của nhiều thể loại: miêu tả, tưòng thuật, thuyết minh và phát biểu cảm nghĩ.
Trong sách giáo viên, các kiểu đề này chủ yếu được tiến hành theo một trình tự
như sau:
- Giáo viên giới thiệu bài:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài:
+ Học sinh đọc và xác định yêu cầu của bài tập
+ GV cho học sinh tìm ý theo hệ thống câu hỏi trong SGK hay hệ thống
câu hỏi trong SGV hoặc giải thích cho học sinh cách làm bài.
+ Một hoc sinh kể mẫu và giáo viên nhận xét
- Học sinh tập nói theo tổ (nhóm).
- Đại diện một số nhóm nói trước lớp. Cả lớp và giáo viên nhận xét.
8


- Cả lớp viết bài vào vở nếu bài yêu cầu cả nói và viết.
Theo tôi khi dạy dạng đề này ngoài phương án được nêu trên trong sách
giáo viên. Giáo viên có thể sử dụng mạng ý nghĩa để giúp học sinh tìm kiếm và
phát triển diễn đạt ý tưởng tạo cho các em sự mạnh dạn tự tin trong học tập.
Sử dụng “Mạng ý nghĩa” là như sử dụng một đồ dùng dạy học, một biện
pháp dạy học cụ thể- Sử dụng mạng ý nghĩa là cách thức giáo viên tổ chức
cho học sinh suy nghĩ diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy học
Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cá thể hoá tối đa hoạt động nói
và viết của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của các em vừa bảo đảm được
chuẩn mực cơ bản của một thể loại văn bản, vừa thể hiện bản chất cái tôi của
mỗi học sinh trên cơ sở khai thác khái niệm và hiểu biết có trước của các em

cũng như những ý tưởng và ngôn từ trong các bài đọc theo chủ đề mà các em đã
được học trong SGK.
Cách 1: Hướng dẫn tìm hiểu bài:
Bất kì bài làm văn nào việc đầu tiên giáo viên phải chio học sinh xác định
yêu cầu bài tập. Giúp học sinh tự xác định đúng yêu cầu bài tập để khi thực hành
các em sẽ không chệch hướng, đảm bảo đúng nội dung đề bài cần luyện tập, học
sinh định hình cụ thể đối tượng nói hay viết trong trí nhớ đồng thời biết đối
tượng đó là ai? Là gì? ở đâu? Lúc nào?.. vào khung chủ đề.Trong trường hợp
dùng vật thật hay tranh ảnh thì khung chủ đề cũng chính là chúng. Để thực hiện
hoạt động này giáo viên có thể sử dụng một trong các bước sau:
- GV trò chuyện khơi gợi rồi đề nghị học sinh nhắm mát nghĩ về đối tượng,
- Kể một mẫu chuyện nhỏ kết hợp đặt câu hỏi hướng học sinh đến đề tài.
- Dùng tranh ảnh hoăc mẫu vật thật do giáo viên mang đến lớp hay do học
sinh tự sưu tầm.
- Sử dụng một đoạn văn mẫu lấy từ bài tập đọc đã học hay từ các bài làm
của học sinh.
Cách 2: Hướng dẫn tìm hiểu hệ thống câu hỏi:
Hệ thống câu hỏi gợi ý tiết Tập Làm Văn kiểu bài nói- viết theo chủ điểm
trong SGK sắp xếp hợp lí như một dàn bài của một bài Tập Làm Văn. Học sinh
dựa vào gợi ý để luyện nói, sau đó viết thành đoạn văn ngắn. Giáo viên cần cho
học sinh đọc toàn bộ câu gợi ý và giúp các em hiểu nghĩa từ trong câu hỏi dể
học sinh trình bày đúng theo yêu cầu. Các từ này có thể là từ mới hoặc từ khó
hiểu đối với học sinh. Cần lưu ý câu hỏi phải có tính chất mở, hướng đến việc
khơi gợi kinh nghiệm riêng của các em.Ví dụ đối với văn miêu tả, câu hỏi có
thể được triển khai theo hướng mở sau: Em thấy gì? Em nghe gì? Em nghĩ gì?
Em cảm thấy gì?...Trong các câu hỏi gợi ý có một số câu hỏi gộp khiến học sinh
lúng túng khi diến dạt ý. Giáo viên nên chia thành các câu hỏi nhỏ để giúp các
em dễ trả lời.
9



Ví dụ. Kể về buổi đầu đi học( Tiết TLV tuần 6). Giáo viên nêu câu hỏi
mở.
+ Ai là người đưa em đến trường?
+ Quang cảnh sân trường hôm đó thế nào?
+ Lúc đầu, em bỡ ngỡ ra sao?
+ Ai đã giúp đỡ em?
+ Ý nghĩ, tâm trạng của em lúc đó thế nào?
- Đưa ra một khung mạng trong đó cho sẵn vài ý, phần còn lại để học sinh
suy nghĩ và đưa thêm ý vào để hoàn thành mạng.
- Học sinh viết các ý dưới dạng từ hay cụm từ xung quanh chủ đề. Giáo
viên tuyệt đối tránh viết chốt lại một số từ về đề bài. Cần xoá đi những ý đã
được ghi lên bảng trong giai đoạn làm mẫu nghĩa là khi học sinh làm việc cá
nhân trong phiếu học tập thì trên bảng chỉ còn lại khung mạng trống.
Cách 3: Hướng dẫn liên tưởng, tưởng tượng.
Nếu trong một bài văn, học sinh chỉ biết diễn đạt nội dung bằng những gì
đã quan sát hoặc thực hành theo gợi ý, bài làm như thế tuy đủ ý nhưng chưa hấp
dẫn, lôi cuốn người đọc, người nghe. Vì vậy với từng đề bài giáo viên nên có
những câu hỏi gợi ý khuyến khích học sinh tưởng tương thêm những chi tiết
chân thực hợp lí qua việc sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá để từ đó học sinh
biết cách trình bày bài văn giàu hình ảnh. Để rèn kĩ năng này cho học sinh, giáo
viên có thể chuẩn bị nhưng câu văn, đoạn văn hay cho học sinh tham khảo, học
hỏi. Thu nhập và trưng bày các bài văn mẫu của học sinh khá giỏi năm trước.
- Phân tích điểm hay của các bài đọc tiêu biểu cho các thể loại văn bản,
giới thiệu thành bộ sưu tập và trưng bày.
- Xây dựng từ điển lớp: Giáo viên đưa ra hoặc hướng dẫn học sinh thu nhập
danh mục các từ mà các em đã biết theo chủ đề Tập làm văn trong sách giáo
khoa.
- Luôn chú trọng “tích hợp-lồng ghép” khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3
tôi hiểu rõ tính tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt như:

Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết để giảng dạy và tạo đà
cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này thể hiện rất rõ
trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề, chủ
điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điểm ở tất cả các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài Tập đọc, Luyện từ
và câu…Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ đề
Cộng đồng. Cụ thể khi dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ giàTuần 8, giáo viên khai thác nội dung bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
10


(Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u
sầu)
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
(Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị ốm,
b) Hay cụ bị mất cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ)
+Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan.
- Vì các bạn là nhữngngười nhân hậu.
- Vì các bạn muốnquan tâm, giúp đỡ ông cụ.
+Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
(Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)
+Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ.
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện.
- Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua các câu trả lời của học sinh, tôi định hướng cho các em ý thức biết

quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết
đoạn văn kể về những người thân, hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được
nội dung: con người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của
những người xung quanh làm cho mỗi người dịu bớt những nỗi lo lắng,
buồn phiền, và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
Qua hệ thống câu hỏi, tôi giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm,
ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song
với quá trình đó, tôi hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để
học sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt
mạch lạc, lôgic, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của
các em sẽ trôi chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em
cách ứng xử linh hoạt trong cuộc sống; hình thành cho học sinh kiến thức về mối
quan hệ tương thân tương ái giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh
thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ những người trong cộng đồng.
Ở phân môn Chính tả Tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ
đề Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già.
Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp:
Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông nằm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà
ốm nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện,

11


ông cảm ơn lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông
cũng thấy lòng nhẹ hơn.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các
dấu câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt
nỗi lo lắng, buồn phiền, tăng thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong
cuộc sống. Học sinh vận dụng cái hay , cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để

thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn Tập viết-Tuần 8, các em được làm quen với các thành
ngữ, tục ngữ về chủ đề Cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng: “Khôn ngoan
đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.”
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Chính tả, Tập viết
xoay quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết “ Kể về người hàng xóm mà em
quý mến” ( TLV 3-Tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm,
thái độ đánh giá đối với người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có
hình ảnh như:
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học, tối
tối miệt mài bên trang giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn
nhưng rất nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô
thật xứng danh là cô ca sĩ của trường.( Bài viết của em Nguyễn Sỹ Việt Anh)
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn của Tập làm văn đều nhằm mục
đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp
lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn Tập làm văn lớp 3.
Cách 4: Hướng dẫn lập bản đồ tư duy.
Giáo viên làm mẫu, hướng dẫn học sinh thao tác vẽ và đọc trên bản đồ sau
đó yêu cầu học sinh sử dụng vốn từ ngữ đã thu thập qua quá trình chuẩn bị để tự
hoàn thành bản đồ tư duy của mình. Từ bức ảnh trung tâm hoặc từ trung tâm học
sinh chia thành nhiều nhánh chính, học sinh vẽ thêm các nhánh nhỏ với các từ
ngữ miêu tả cho ý chính đã nêu.
Ví dụ: Tuần 11 “Nói về quê hương”
- Hướng dẫn học sinh lập biểu đồ tư duy (cá nhân)
- Giáo viên giới thiệu biểu đồ tư duy đã chuẩn bị.
- Hướng dẫn học sinh chon từ trung tâm.
- Hướng dẫn học sinh viết các từ ngữ chỉ cảnh vật ở các nhánh chính, tìm
các hình ảnh so sánh, gợi tả để điền vào các nhánh phụ, tiếp tục tìm các từ ngữ
nói lên tình cảm của mình với quê hương.


12


Nhà cao tầng

Xe cộ
đông đúc

Công
viên
Siêu thị
sầm uất

cánh đồng
lúa

Thành
phố

Quê
hươn
g

Nông
thôn

dòng sông,
con đò
Cây đa, luỹ

tre
giếng nước

Bản đồ tư duy là một phương tiện trực quan, muốn xây dựng được nó để
dạy tập làm văn, người giáo viên cũng phải suy nghĩ, tìm tòi đặc biệt là các từ
ngữ phục vụ theo yêu cầu của từng chủ đề, đề bài. Giáo viên thiết kế bản đồ tư
duy cần phải đảm bảo đúng kiến thức của từng bài, từng chủ đề và đảm bảo tính
thẩm mĩ để qua đó học sinh tiếp nhận kiến thức bài một cách tích cực và mang
lại hiệu quả giờ học cao hơn.
- Tổ chức tốt việc quan sát tranh, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng
kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn
trong việc nghe - nói - viết -kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy,
giáo viên cần tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu
sắc, hình ảnh, nội dung thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhân được được những
nét đẹp của cảnh vật, con người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên
cần hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để điễn đạt sao
cho dễ hiểu, sinh động. Có như vậy người nghe -đọc sẽ dễ dàng hình dung,
tưởng tượng, nắm bắt được sự việc, suy nghĩ tình cảm mà các em muốn thể hiện
qua bài nói, bài viết. Người nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo
của nhân vật, xem bối cảnh của sự việc như xem phim, xem kịch nhưng vẫn thấy
được thế giới nội tâm của nhân vật, quá trình diễn biến của sự việc qua những
hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá của các
em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Ví dụ: Dạy Tập làm văn -Tuần 12.
Yêu cầu: Học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh
đẹp ở nước ta.
13



Bài tập 2 : Học sinh quan sát ảnh chụp cảnh biển Phan Thiết.

HS quan sát tổng thể bức ảnh, sau đó quan sát từng hình ảnh cụ thể, màu
sắc của bức ảnh, thấy vẻ đẹp bức ảnh mình vừa quan sát. ngoài ra các em biết
cách quan sát một số bức tranh ảnh mà mình sưu tầm được.
VD: Cảnh cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Biển Sầm Sơn,.. Thông qua việc quan
sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh nắm nội dung của tranh
(ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ thích hợp để
nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe-đọc tuy không quan sát tranh
(ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói
đến. Bài Tập làm văn tuần 25: Đề bài: “Quan sát một ảnh lễ hội dưới đây
(SGK). Bên cạnh đó việc dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
cũng rất quan trọng. Các hoạt động ngoại khoá giúp học sinh có những hiểu biết
thực tế ngoài kiến thức được học trong chương trình chính khoá. Qua các hoạt
động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng nhiều hình thức khác nhau, có nội
dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên giảng dạy cần có sự kết phối
hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các buổi chào cờ nói về
gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh, thi ca hát
tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện-văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng
khiếu…Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc,
những kỷ niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học ( tiết TLV- Tuần 6).Tổ
chức cho học sinh tham gia buổi lao động dọn vệ sinh sân trường để từ đó học
sinh biết vận dụng học tốt tiết TLV tuần 32 “ Kể lại một việc tốt em đã làm để
góp phần bảo vệ môi trường.” Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí
14


Minh, học sinh có nguyện vọng viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ,
tổ chức của Đội…

Ví dụ: Tham dự hội thi tìm hiểu về Đội.
+ Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí Minh,
giúp các em viết tốt hơn Đơn xin vào Đội (tiết Tập làm văn -Tuần 2) với yêu
cầu: Em hãy viết đơn xin vào Đội với mẫu in sẵn.
Hãy viết một đoạn văn ( từ 7 đến 10 câu) về một buổi biểu diễn nghệ
thuật mà em được xem.
Kết quả đạt được như sau:
Nội dung khảo sát
Số học sinh Tỷ lệ%
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý.
32/32
100
2. Biết nói-viết thành câu.
32/32
100
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
30/32
93,8
4.Biết trình bày đoạn văn.
32/32
100
5.Bài viết học sinh đạt từ hoàn thành trở lên.
32/32
100
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua quá trình nghiên cứu chuyên đề, tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan
trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy tôi đã vận dụng xây dựng tích hợp các
kiến thức liên quan với nhau giữa các môn học. Vận dụng linh hoạt các phương
pháp dạy học, tổ chức các hình thức dạy học phù hợp với từng dạng bài chính vì

vậy trong quá trình giảng dạy phân môn Tập Làm Văn tôi đã thu được kết quả
khả quan: học sinh học tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của học sinh
phong phú hơn, câu văn giàu hình ảnh. Từ những kết quả nêu trên tôi rút ra
những bài học kinh nghiệm sau:
- Khi vận dụng các giải pháp trên vào dạy Tập làm văn ở lớp 3, giáo viên
cảm thấy giờ học không trầm như trước mà học sinh chú ý học hơn nhiều, qua
thực hành giao tiếp cho thấy khả năng hoạt động học tập của học sinh rất tích
cực, hiệu quả.
- Giáo viên biết tổ chức tốt cho học sinh cách quan sát tranh, cách dùng từ,
giọng kể, lời nhân vật, nói viết thành câu.
- Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, gây hứng thú học tập cho học sinh. Học sinh
nghe giáo viên kể chuyện trên lớp sau đó nhiều em đã kể lại trọn vẹn câu chuyện
trước lớp. Qua kiểm tra, chất lượng các bài văn của học sinh nâng lên rõ nét.
- Động viên khuyến khích học sinh tự học, học theo phương pháp tự tìm
tòi. Giáo viên tổ chức, phối hợp linh hoạt các hình thức và phương pháp dạy học
theo hướng đổi mới. Dạy học hướng tập trung vào học sinh, coi học sinh là chủ

15


th ca hot ng, t chc cỏc hot ng giỳp cỏc em chim lnh tri thc v rỳt
ra kt lun phự hp vi bi hc.
3. Kt lun, xut.
- Kt lun:
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã rút ra trong quá
trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 3. Bản thân tôi và
một số đồng nghiệp trong nhà trờng đã thực hiện tơng đối có
hiệu quả. Tôi rất mong đợc sự góp ý của Hội đồng Khoa học nh
trng, Phòng Giáo dục & Đạo tạo và các bạn bè đồng nghiệp xa
gần để sáng kiến kinh nghiệm của tôi c ỏp dng rng rói vo

thc t t hiu qu cao hn, giỳp tụi ngy cng vng vng trong chuyờn mụn.
- xut:
+ V phớa nh trng: + B sung thờm mt s dựng v ti liu dy
mụn Ting Vit. c bit l mỏy chiu giỳp cho giỏo viờn thun li trong quỏ
trỡnh i mi phng phỏp dy hc, c bit l dy hc Tp lm vn mụn hc
cn nhiu t liu thc t cho quỏ trỡnh quan sỏt ca hc sinh.
+ Cp sỏch giỏo khoa, dựng hc Ting Vit cho nhng HS cú hon cnh
c bit khú khn cỏc em cú sỏch hc.
+V phớa PGD:
+ Thng xuyờn m lp hc chuyờn dy Ting Vit. c bit phõn mụn
Tp Lm Vn.
+ T chc cuc thi giao lu vn húa mụn Ting Vit cho GV v HS nhiu v
thng xuyờn hn GV v hc sinh c th hin ti nng ca mỡnh.
Tụi xin chõn thnh cm n!
XC NHN CA
HIU TRNG NH TRNG

Thanh Hoỏ, ngy 11 thỏng 4 nm 2017
Tụi xin cam oan õy l SKKN ca mỡnh vit,
khụng sao chộp ni dung ca ngi khỏc.
Ngi vit sỏng kin

Th Thõn

Khng Th Ngha

16


17



Tài liệu tham khảo
1.Tâm lí tiểu học
( PGS – PTS Bùi Thị Huệ , trường Đại học Quốc Gia Hà Nội)
2. Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt lớp 3
3. Tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn Tiếng Việt lớp 3
( Nhà xuất bản GD - Năm 2010)
4. SGK Tiếng Việt 3
(Nhà xuất bản GD - Năm 2010)
5. SGV Tiếng Việt 3
6. ThiÕt kÕ bµi gi¶ng TiÕng ViÖt 3
( Nhµ xuÊt b¶n Hµ Néi - n¨m 2009)
7. T¹p chÝ GD TiÓu häc )

18


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Khương Thị Nghĩa
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Quảng Cát
Cấp đánh giá
Kết quả
Năm học
xếp loại
đánh giá xếp
TT

Tên đề tài SKKN
đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
loại (A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1 Một số biện pháp rèn đọc Sở giáo dục
Xếp loại B
2014 -2015
cho học sinh lớp 1.
tỉnh Thanh Hóa

19


MỤC LỤC
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích của đề tài .
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
2.2. Thực trạng vấn đề.
2.3. Những giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
3. KẾT LUẬN, ĐỀ XUẤT
- Kết luận

- Kiến nghị

TRANG
1
1
1
2
2
2
2
2
4
15
16
16
16

20



×