Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM - Dạy Tập làm văn lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.65 KB, 26 trang )



SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Dạy Tập làm văn lớp 3 như thế nào để
đáp ứng yêu cầu đổi mới

A.Phần mở đầu
I. Lí do chọn chuyên đề.
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh 4 kĩ năng đó là: “nghe-nói-đọc-viết”. Trong đó môn Tiếng Việt có các phân
môn như: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm
văn…Trong đó, phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất tích hợp của các
phân môn khác. Qua tiết Tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản,
đó là bài nói, bài viết. Nói và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông
qua đó con người thực hiện quá trình tư duy-chiếm lĩnh tri thức, trao đổi tư tưởng, tình
cảm, quan điểm, giúp mọi người hiểu nhau, cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
Ngôn ngữ (dưới dạng nói-ngôn bản, và dưới dạng viết-văn bản) giữ vai
trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học
sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần
lớn vào việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn lớp 3 nói
rêng. Vấn đề đặt ra là: người giáo viên dạy tập làm văn theo hướng đổi mới như thế
nào để đáp ứng được khả năng tiếp thu của học sinh? Cách thức tổ chức, tiến hành tiết
dạy Tập làm văn ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy phân môn Tập làm văn là phân môn
khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản


(nói và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật,
kể lại bản tin, tập tổ chức cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung
quanh.Trong quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến


thức còn hạn chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại
bài viết đã chuẩn bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.
Xuất phát từ thực tiễn đó, Ban giám hiệu trường Tiểu học Đằng Hải chỉ đạo
giáo viên chúng tôi tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm chuyên đề “Dạy Tập làm
văn lớp 3 như thế nào để đáp ứng yêu cầu đổi mới”.
II. Cơ sở thực tiễn và lý luận:
1. Cơ sở lý luận:
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọngcủa môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều
phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói,
đọc, viết; phải vận dụng các kiến thức về Tiếng Việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo lập văn bản,
trong quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng Tiếng
Việt trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, Tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng
hợp, có liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình
phân môn Tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt
được mục đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có
vốn kiến thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn
khác không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói,
viết, cách hành văn cho học sinh.
Tóm lại: Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực,
sáng tạo, chủ động trong học tâp; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn
bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho
việc dạy Tập làm văn được tốt.



2. Cơ sở thực tiễn:
2.1 Thuận lợi:
+ Đối với giáo viên:

- Năm học 2005-2006 là năm thứ tư tiến hành chương trình thay
sách, giáo viên đã nắm được yêu cầu của việc đổi mới phương pháp một cách
cơ bản, việc sử dụng dồ dùng tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo chuyên môn của phòng giáo dục, trường, tổ chuyên
môn có vai trò tích cực, giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân
môn Tập làm văn.
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành
công khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo… giáo viên
tiếp cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
+ Đối với học sinh
- Học sinh lớp ba đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học.
- Môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội
dung phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy
học hiện đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em
ở lớp 2 đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập Làm Văn như kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em
học tốt phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
2.2 Khó khăn:
+ Đối với học sinh:


- Do đặc điểm tâm sinh lý
lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên, mức độ tập trung thực hiện các yêu
cầu của bài học chưa cao.
- Sự hiểu biết của hs lớp 3
về phân môn tập làm văn còn hạn chế. Bước đầu kế thừa, tập làm quen phân môn tập
làm văn của lớp 2.
- Kiến thức về cuộc sống

thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh
chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc lập. Cụ thể là: các em viết câu rời
rạc, chưa liên kết, thiếu lôgic; tính sáng tạo trong thực hành viết văn chưa cao, thể hiện
ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh
động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy
móc, chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ:
phần lớn học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.

+ Đối với giáo viên:
Tiếng Việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập Làm Văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú. Cần phải có vốn sống thực tế, người giáo
viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò,
khả năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn
ngữ quả không dễ.
Các điều về CSVC phần nào chưa đáp ứng được đầy đủ cho việc nghiên cứu,
giảng dạy học tập của giáo viên, một số bài dạy còn thiếu tranh ảnh, nên giáo viên
dùng lời nói mô tả học sinh tiếp thu trừu tượng. Kết quả giờ dạy còn hạn chế.


Với những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng
môn Tập làm văn lớp 3 vào tháng 9-tuần 3 (năm học 2005-2006) với đề bài như sau:
Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen.
Kết quả khảo sát như sau:Tổng số học sinh khối 3: 85 em.
Nội dung khảo sát Số
học sinh
Tỷ
lệ%
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý. 43/85 50.5%

2. Biết nói-viết thành câu. 47/85 55.5%
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình
ảnh.
13/85 15.3%
4.Biết trình bày đoạn văn. 34/85 40%
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở
lên
57/85 67%

Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh,
vốn từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít; do vậy chất lượng bài viết của các em
chưa cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương
pháp giảng dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ
học.



III. Phạm vi nghiên cứu của chuyên đề:
Các tiết dạy Tập làm văn lớp 3.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát thông qua dự giờ.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, kiểm tra đối chứng.
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu.
B. Phần nội dung
I. Nội dung chương trình SáCH GIáO KHOA và các hình thức
luyện tập làm văn lớp 3
1. Nội dung dạy học:
Chương trình Tập làm văn lớp 3 bao gồm 35 tiết/năm (thực học 31 tiết + 4
tiết ôn tập):
- Kỳ 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập.

- Kỳ 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập.
Yêu cầu trang bị cho học sinh một số kiến thức và kĩ năng phục vụ cho học tập
và đời sống hàng ngày như: điền vào giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và
phát biểu trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trường, ghi chép sổ tay…
Tiếp tục rèn kĩ năng đọc, nghe, nói, viết thông qua kể chuyện và miêu tả như:
kể một việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc
bằng câu hỏi.
Rèn kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe.


2. Các hình thức luyện tập.



1.Bài tập nghe: Gồm các tiết:
- Tuần 4: Nghe kể: Dại gì mà đổi.
- Tuần 7: Nghe kể: Không nỡ nhìn.
- Tuần 11: Nghe kể: Tôi có đọc đâu.
- Tuần 14: Tôi cũng như bác.
- Tuần 15: Nghe kể: Giấu cày.
- Tuần 16: Nghe kể: Kéo cây lúa lên.
- Tuần 19: Nghe kể: Chàng trai Phù ủng.
- Tuần 21: Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống.
- Tuần 24: Nghe kể: Người bán quạt may mắn.
- Tuần 34: Nghe kể: Vươn tới các vì sao.
* Yêu cầu các bài tập nghe:
- Học sinh hiểu nội dung câu chuyện, thuật lại được câu một cách mạnh dạn, tự
tin.
- Học sinh thấy cái hay cái đẹp, cái cần phê phán trong câu chuyện.
- Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu.

Các hình thức luyện tập
Bài tập nghe
Bài tập nói
Bài tập viết


- Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện.
2. Bài tập nói: Gồm các tiết:
- Tuần 1: Nói về Đội TNTP.
- Tuần 5: Tập tổ chức cuộc họp.
- Tuần 6: Kể lại buổi đầu em đi học.
- Tuần 8: Kể về người hàng xóm.
- Tuần 11: Nói về quê hương.
- Tuần 12: Nói về cảnh đẹp đất nước.
- Tuần 15: Giới thiệu về tổ em.
- Tuần 16: Nói về thành thị nông thôn.
- Tuần 20: Báo cáo hoạt động.
- Tuần 21: Nói về tri thức.
- Tuần 22: Nói về người lao động trí óc.
- Tuần 25: Kể về lễ hội.
- Tuần 26: Kể về một ngày hội.
- Tuần 28: Kể lại một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 32: Nói về bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu:
- Học sinh nói đúng và rõ ý, diễn đạt rõ ràng dễ hiểu.
- Học sinh nói theo nội dung, chủ đề cho trước.


- Nói thành câu, biết cách dùng từ chân thực.
- Nói thành đoạn văn.

3. Bài tập viết: Gồm các tiết:
- Tuần 1: Điền vào giấy tờ in sẵn (ĐTNTP).
- Tuần 2: Viết đơn.
- Tuần 3,4: Điền vào tờ giấy in sẵn.
- Tuần 10: Tập viết thư và phong bì thư.
- Tuần 12: Viết về cảnh đẹp đất nước.
- Tuần 13: Viết thư.
- Tuần 17: Viết về thành thị nông thôn.
- Tuần 22: Viết về người lao động trí óc.
- Tuần 28: Viết lại một tin thể thao trên báo, đài.
- Tuần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao.
- Tuần 30: Viết thư.
- Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường.
* Yêu cầu các bài tập viết:
- Đủ số lượng câu.
- Trình bày thành đoạn văn.
- Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai là gì, ai làm gì?, để
ntn?).


- Biết cách dùng từ (biết sử dụng phép so sánh, nhân hoá)
II. Các phương pháp dạy tập làm văn.
1. Phương pháp sử dụng trực quan.
2. Phương pháp thực hành giao tiếp, rèn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết.
3. Phương pháp giảng giải.
4. Phương pháp dạy học cá nhân.
5. Phương pháp thảo luận nhóm.
6. Phương pháp đàm thoại.
7. Phương pháp trò chơi …
8. Phương pháp làm việc với SGK và các tài liệu.

III. Quy trình tiết tập làm văn lớp 3.
1. Kiểm tra bài cũ 3’–5’.
2. Dạy bài mới.
a. Giới thiệu 1’-2’
b. Hướng dẫn làm các bài tập (30’-32’)
- Thực hành giải lần lượt các bài tập bằng nhiếu hình thức.
- Chú ý đặc trưng của từng tiết dạy. Ví dụ: rèn nghe-nói-
đọc-viết hoặc những hình thức khác nhau nhằm đạt được mục đích yêu
cầu.
3. Củng cố dặn dò 1’-2’.

×