Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN một số kinh nghiệm dạy học phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2 ở trường TH nga điền 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 22 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1: Lí do chọn đề tài.
Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu giáo dục ở Tiểu học: "Giáo dục Tiểu
học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu
dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành
nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng nhân cách và
trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên Trung học cơ sở".
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của bậc
Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối quan tâm
của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Chính sự đổi mới
phương pháp giáo dục bậc Tiểu học sẽ góp phần tạo con người mới một cách có hệ
thống và vững chắc.
Để cho học sinh lớp 2 học tốt phân môn Tập làm văn, ngoài việc có đủ trình độ,
kiến thức thì mỗi giáo viên phải luôn biết tìm tòi, sáng tạo, thay đổi các hình thức tổ
chức dạy học. Giáo viên phải đưa được các hoạt động vui nhộn vào bài học để truyền
tải các kiến thức đến gần học sinh hơn, giúp học sinh nắm bắt kiến thức về Tập làm
văn được tốt hơn.
Xuất phát từ thực tế và yêu cầu cần thiết của xã hội hiện nay, là giáo viên Tiểu
học, tôi luôn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để các tiết dạy học Tập làm văn thật sự
có hiệu quả, làm thế nào để tìm lại sự yêu thích môn học cho học sinh, đáp ứng được
mục của tiêu Giáo dục & Đào tạo, tạo ra con người mới, con người toàn diện phục vụ
cho bản thân, gia đình và xã hội.
Với những lý do nêu trên, sau 1 năm nghiên cứu và ứng dụng thực tiễn, tôi xin được
đề xuất: Một số kinh nghiệm dạy học phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 2 ở
trường Tiểu học Nga Điền 2 huyện Nga Sơn.
1. 2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của đề tài:
Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh học tốt phân môn tập làm văn lớp 2.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Học sinh khối 2 Trường Tiểu học Nga Điền II, huyện Nga Sơn
- Kĩ năng thực hành về nghi thức lời nói, kỹ năng diễn đạt trong Tập làm văn.


1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát sư phạm
- Phương pháp điều tra khảo sát
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp giảng giải
- Phương pháp nhóm
- Phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm.
1


2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng tạo,
sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác
của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính tả, dùng
từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động vôn kiến thức nhiều mặt: từ
hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường thức... có liên quan
đến đề bài.
Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực tư
duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo của cá
nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm văn) ta sẽ
thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về cuộc sống của
học sinh.
Đối với lớp 2, dạy Tập làm văn trước hết là rèn luyện cho học sinh các kĩ năng
phục vụ học tập và giao tiếp hằng ngày cụ thể là: Nội dung chương trình sách giáo
khoa sắp xếp các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ, trong từng phần, góp phần
tô đậm nội dung chủ điểm học tập của từng tuần:
* Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin
lỗi, nhờ cậy, yêu cầu,tán thành, từ chối, chia vui, chia buồn, giúp học sinh biết sử
dụng chúng trong một số tình huống giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi

công cộng,….
* Dạy một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày: khai bản tự thuật
ngắn, viết thư ngắn để nhắn tin, chia vui hoặc chia buồn, nhận và gọi điện thoại, đọc
và lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời khóa biểu, đọc và lập thời gian
biểu,…
* Bước đầu dạy cách tổ chức đoạn văn, bài văn thông qua nhiệm vụ kể một sự
việc đơn giản hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh, bằng
câu hỏi.
Bên cạnh đó, do quan niệm tiếp thu văn bản cũng là một loại kỹ năng về văn
bản cần được rèn luyện. trong các tiết Tập làm văn từ giữa học kì II trở đi, nội dung
chương trình sách giáo khoa tổ chức rèn luyện kĩ năng nghe cho học sinh thông qua
hình thức nghe kể chuyện – trả lời câu hỏi theo nội dung câu chuyện.
Dựa vào các loại bài và yêu cầu cụ thể trong sách giáo khoa, giáo viên tổ chức
cho học sinh làm miệng, làm viết theo nhóm, làm cá nhân trong vở nháp họăc vở bài
tập Tiếng Việt,…Giáo viên có thể vận dụng các phương pháp áp dụng dạy các loại bài
trên như phương pháp đàm thoại vấn đáp, phương pháp đóng vai, phương pháp xử lí
tình huống, phương pháp giao tiếp và phương pháp trực quan.
Tùy theo từng loại bài mà giáo viên lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp
với đối tượng học sinh.
Thật vậy, cũng như các phân môn và môn học khác, phân môn Tập làm văn,
thông qua nội dung dạy học giáo viên có nhiệm vụ trau dồi cho học sinh thái độ ứng
2


xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành
mạnh, tốt đẹp cho các em.
2. 2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và công tác chủ
nhiệm.

- Được đào tạo chuẩn hoá về chuyên môn.
- Được sự giúp đỡ của đồng chí, đồng nghiệp trong công tác giảng dạy.
- Cơ sở vật chất cũng như đồ dùng dạy học cũng được nhà trường trang bị đầy đủ
phục vụ cho việc dạy và học.
- Tuy nhiên vẫn còn một số giáo viên chưa đầu tư vào nghiên cứu kĩ bài, sử dụng
phương pháp và hình thức chưa hợp lý vì vậy giờ học Tập làm văn còn đơn điệu,
nhàm chán, thụ động. Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau
về ý tưởng, nội dung.
- Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút ra ý
hay, ngược lại một số giáo viên còn cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều đó đã
làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
* Về phía học sinh:
- Các em học sinh lớp 2 đa số có vốn sống còn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt còn
rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn cụt ngủn hoặc câu có thể có
đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc
trình bày , diễn đạt ý của các em còn hạn chế. Mặt khác, do thực tế học sinh mới được
làm quen với phân môn Tập làm văn ở lớp 2 nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có
phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lý.
- Học sinh thường chưa chăm đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu
phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo vốn
sống để có thể đưa bài văn vào viết.
- Mặc dù trong quá trình dạy học bản thân tôi đã tìm tòi, học hỏi và thường
xuyên trao đổi với bạn bè đồng nghiệp để tìm ra những phương pháp dạy học phù hợp
với đối tượng học sinh nhất nhưng kết quả cũng chưa được như mong muốn. Cụ thể
đạt được như sau:
Khảo sát chất lượng học sinh lớp 2A cuôi năm học năm học 2016 – 2017
Tổng
số HS
31


Số HS hoàn thành tốt Số HS hoàn thành kiến
kiến thức, kĩ năng
thức, kĩ năng
môn học
môn học
SL
TL
SL
TL
5
16,1
22
71

Số HS chưa hoàn thành
kiến thức, kĩ năng
môn học
SL
TL
4
12,9

Chất lượng học sinh hoàn thành tốt kiến thức kĩ năng còn thấp. Số học sinh chưa
hoàn thành kiến thức kĩ năng còn cao, đa số học sinh mới dừng ở mức hoàn thành
kiến thức, kĩ năng môn học. Sở dĩ kết quả chưa cao là do một số nguyên nhân sau:
3


- Giáo viên chưa chú trọng việc rèn kĩ năng thực hành về nghi thức lời nói nên
những em nhút nhát không dám nói ra những điều mà các em suy nghĩ trong đầu.

- Việc rèn kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày chưa được giáo viên
coi trọng, các em ít được tiếp xúc, chưa biết cách sử dụng những kiến thức đã học
được mà áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
- Giáo viên chưa dành nhiều thời gian cho học sinh thực hành rèn luyện về kỹ
năng diễn đạt (nói, viết ) dẫn đến các em còn lúng túng khi trả lời các câu hỏi thông
qua việc quan sát tranh và hệ thống câu hỏi gợi ý, diễn đạt câu còn lủng củng, còn lặp
từ khi viết đoạn văn ngắn từ 3 – 5 câu.
Qua một năm nghiên cứu và áp dụng, tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng học tập môn Tập làm văn lớp 2 như sau:
2.3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..
Biện pháp 1: Hướng dẫn học sinh thực hành về nghi thức lời nói.
Tất cả những nghi thức lời nói luôn xảy ra trong đời sống hàng ngày. Tuy nhiên,
có em mạnh dạn thì hay nói còn những em nhút nhát thì ít nói. Bởi vậy, giáo viên phải
dùng những biện pháp tích cực để các em nhút nhát nói ra những điều mà các em suy
nghĩ trong đầu. Có thể tổ chức trò chơi sắm vai với những tình huống cụ thể để mỗi
học sinh được tự do bộc lộ suy nghĩ, cách diễn đạt của mình.
1.1. Luyện nói cá nhân:
Giáo viên định hướng cho học sinh luyện nói cá nhân theo các bước sau:
- Xác định yêu cầu của bài.
- Xác định rõ đối tượng để thực hành nói cho phù hợp.
- Tập nói theo yêu cầu: Cố gắng tìm được nhiều cách diễn đạt khác nhau.
- Phát biểu trước lớp đối thoại ( nhiều học sinh nói).
- Học sinh khác nhận xét , bổ sung, bình chọn người nói đúng và hay nhất.
Ví dụ:
Bài tập 1: Nói lời cảm ơn trong trường
hợp: bạn cùng lớp cho đi chung áo mưa.
- Tổ chức cho học sinh thực hành và nói.
- Ôi may quá! Tớ cảm ơn bạn nhé!
- Tớ cảm ơn bạn nếu không hôm nay tớ
sẽ bị ướt hết rồi!

- Tớ cảm ơn bạn nhiều nhé!
Lưu ý: Khi nói lời cảm ơn cần thể
hiện sự chân thành, biết ơn để người nghe
dễ cảm nhận được.
Học sinh thực hành luyện nói khi đi chung
áo mưa cùng bạn.

Bài tập 2: Nói lời xin lỗi của em trong trường hợp: Em mải chơi, quên làm việc me
đã dặn.
- Con sai rồi, con xin lỗi mẹ, lần sau con không thế nữa.
4


- Mẹ ơi! Con biết mình sai rồi, con xin lỗi mẹ ạ!
- Mẹ tha lỗi cho con, lần sau con sẽ làm tốt lời mẹ dặn.
Lưu ý: Nói lời xin lỗi cần thể hiện rõ thái độ biết lỗi. Người nói phải hạ giọng,
nói nhỏ nhẹ nhưng thành khẩn để người nghe dễ dàng tha lỗi cho mình.
1.2. Luyện nói theo cặp:
- Hai HS ngồi cùng bàn xác định yêu cầu của bài, thảo luận, phân công: một
HS nêu tình huống, một HS nêu lời đáp rồi làm ngược lại.
Chú ý: Hai HS có thể thảo luận để tìm ra nhiều cách diễn đạt khác nhau (về lời
nói, cử chỉ, nét mặt ) để sửa và bổ sung cho nhau.
- Cho đại diện các cặp lên trình bày trước lớp.
- Đại diện các cặp khác nhận xét, bổ sung, bình chọn người nói đúng và hay
nhất.
Ví dụ: Đáp lời chào, lời tự giới thiệu -Tuần 19
- Trước tiên, tôi cho HS thấy được sự cần thiết của lời chào: Lời chào khi mới
gặp nhau cũng như trước khi chia tay là phép lịch sự, thể hiện người có văn hóa trong
tiếp xúc, khiến cho mọi người thấy thân mật, gần gũi nhau hơn. Khi chào hỏi hoặc tự
giới thiệu: Lời nói, giọng nói, vẻ mặt, ánh mắt, nụ cười phài tùy từng đối tượng mình

gặp gỡ và những điều này cũng chứa dựng nội dung tiếp xúc. Cách chào hỏi, cách
xưng hô phải phù hợp với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể. Lời chào hỏi cần tự
nhiên, lịch sự, cử chỉ thân mật.
Học sinh thực hành luyện nói Bài tập 2 như sau:
- Có một người lạ đến nhà em gõ cửa và tự giới thiệu: Chú là bạn của bố cháu, chú
đến thăm bố cháu. Em sẽ nói thế nào?
a, Nếu bố mẹ em có nhà?
b, Nếu bố mẹ em đi vắng?
+ Trường hợp thứ nhất (bố mẹ em có
nhà)
“ Cháu chào chú, bố cháu đang ở nhà,
chú chờ chút xíu, cháu vào gọi bố cháu
ra ngay ạ!”
+ Trường hợp thứ hai (bố mẹ em đi
vắng)
Cháu chào chú, Bố mẹ cháu đi
vắng cả. Trưa chú quay lại chú nhé!
Thưa chú… chú tên gì ? Chú cho cháu
biết để cháu về nói lại với bố mẹ cháu
có chú…đến thăm.

Học sinh thực hiện đóng vai tại lớp.

5


Lưu ý: Khi luyện nói theo cặp phải chắc chắn cả hai bạn trong nhóm đều được
nói để rèn kĩ năng nói một cách toàn diện cho học sinh.
1.3. Luyện nói theo nhóm:
Đối với các nghi thức lời nói cần nhiều lời đáp (lời nói của nhiều nhân vật) nên

áp dụng theo hình thức sắm vai đơn giản.
- Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà GV phân thành nhóm 3, 4 hay 5,6 học
sinh.
- HS trong nhóm thảo luận về yêu cầu của tình huống, phân công vai cho phù
hợp, thảo luận cách ứng xử (tìm ra nhiều phương án và chọn lựa phương án tối ưu để
thực hiện. )
- Đại diện các nhóm lên sắm vai trước lớp.
- Đại diện các nhóm khác nhận xét, bổ sung, bình chọn người nói đúng và hay
nhất.
Ví dụ:
* Đóng vai chúc mừng nhau:
Đáp lời chia vui -Tuần 28
Bài tập 1: Nói lời đáp của em trong trường hợp sau: Bạn tặng hoa chúc mừng
sinh nhật.
- Luyện tập cách nói lịch sự khi chúc mừng
người khác và đáp lại lời người khác chúc
mừng mình.
- Rèn thói quen lịch sự trong giao tiếp và
sinh hoạt hằng ngày; tập chúc mừng bằng
những lời khác nhau.
3 HS : - Chúng tớ chúc mừng sinh nhật cậu.
1 HS: - Tớ cảm động quá! Xin cảm
ơn tất cả các bạn!
Hoặc 1 HS khác: - Cảm ơn các bạn đã dành
cho mình rất nhiều niềm vui trong ngày
sinh nhật.
Học sinh thực hành nói lời chúc
(- Xin cảm ơn các bạn, mình rất vui.)
mừng sinh nhật
Hình thức này tôi sử dụng rất nhiều và mang lại hiệu quả cao, các em rất tích

cực học tập, suy nghĩ tìm tòi nhiều cách trả lời hay và khác nhau. Tôi luôn khuyến
khích động viên các em bằng lời khen “Tuyệt quá”, “Rất hay” đối với những lời diễn
đạt sáng tạo của các em.
Kết luận: Trong quá trình dạy học, nếu chúng ta thật sự quan tâm đến việc rèn
kĩ năng thực hành về nghi thức lời nói cho học sinh, động viên các em thường xuyên
sử dụng lời nói, nói đúng câu, đúng từ, có sắc thái biểu cảm thì chắc chắn học sinh sẽ
học rất tốt các nội dung trong chương trình Tập làm văn lớp 2.
Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh viết bản tự thuật, viết nhắn tin và lập thời gian
biểu học tập.
6


- Mặc dù đây là những kỹ năng phục vụ cho học tập và đời sống hàng ngày
nhưng các em lại ít được tiếp xúc. Bởi vậy, giáo viên cần cho các em thấy một cách
trực quan, thật rõ ràng. Khi dạy bản khai tự thuật, danh sách học sinh, mục lục sách,
thời gian biểu. Giáo viên phải có một bản mẫu thật to để các em được nhìn và nghiên
cứu. Giáo viên phải chỉ rõ cách xem, cách lập, từ đó các em mới biết cách sử dụng
những kiến thức đã học được mà áp dụng vào cuộc sống hàng ngày.
2.1. Viết bản tự thuật ngắn:
* Mục tiêu
Mục tiêu của bài tập là nhằm giúp học sinh biết cách tự giới thiệu với thầy cô,
bạn bè hoặc người xung quanh về mình.
a) Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Viết bản tự thuật theo mẫu ( SGK)
- Đọc từng dòng mẫu tự thuật trong SGK để nắm được những nội dung cần viết
ra cho đúng và đủ.
- Hỏi người thân trong gia đình (Ông, bà, bố, mẹ, anh, chị,..) để nắm được
những điều mình chưa rõ ( như ngày, tháng , năm sinh, quê quán, nơi ở hiện nay)
- Xem lại bài tập đọc Tự thuật trong SGK, tập 1, trang 7 để học tập cách viết và
trình bày sạch đẹp.

b) Hướng dẫn học sinh làm bài:
Với loại bài này, giáo viên cần giúp học sinh hiểu văn bản (tự thuật) này bao
gồm những phần nào. Nội dung của mỗi mục thể hiện hình thức trình bày ra sao. Giáo
viên cần vận dụng các phương pháp dạy học như phương pháp trực quan (học sinh
được quan sát văn bản mẫu), phương pháp phân tích ngôn ngữ (phân tích cấu trúc,
đặc điểm của các văn bản mẫu), phương pháp rèn luyện theo mẫu (học sinh được dựa
theo văn bản mẫu để tạo lập văn bản tương tự)
Cần trình bày bài viết sạch sẽ, đúng chính tả ( chú ý viết hoa những tên riêng và
các con chữ đầu tiên của mỗi dòng cần ghi thẳng hàng dọc với nhau cho đẹp).
Ví dụ:
- Họ và tên:
Nguyễn Hải Nam
- Nam, nữ:
Nam
- Ngày sinh:
10 - 11 - 2010
- Nơi sinh:
Nga Điền
- Quê quán:
Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa
- Nơi ở hiện nay: Xóm 4, Nga Điền, Nga Sơn, Thanh Hóa
- Học sinh lớp:
2A
- Trường:
Tiểu học Nga Điền II, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Nga Điền ngày 10 tháng 2 năm 2018
Người tự thuật
Nguyễn Hải Nam
7



2.2: Viết nhắn tin:
Trước hết, giáo viên cho học sinh hiểu:
Khi muốn nói với ai điều gì mà không gặp được người đó ta có thể viết những
điều cần nhắn vào giấy để lại. Nội dung lời nhắn cần ngắn gọn mà đủ ý, dễ hiểu.
a) Hướng dẫn chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Viết một vài câu nhắn lại cho bố mẹ biết, khi bà đến nhà
đón em đi chơi.
- Xem lại bài tập đọc: Nhắn tin để nắm được cách viết nhắn tin: Nhắn cho ai?
Cần nói gọn và rõ nội dung gì? (ví dụ: đi đâu, làm gì, cùng với ai, bao giờ về).
- Nhớ ghi thời điểm viết nhắn tin.
- Đọc đề bài, xác định nội dung đoạn nhắn tin theo gợi ý sau:
+ Em nhắn tin cho ai? (ví dụ: Nhắn tin cho ba mẹ hoặc bạn) biết.
+ Em muốn nhắn lại điều gì để bố mẹ hoặc bạn biết? (ví dụ: Bà đến chơi, chờ
mãi mẹ chưa về, bà đưa con tới nhà cô Phương chơi)
+ Để mẹ yên tâm, em cần nhắn thêm điều gì? ( ví dụ: Hẹn mấy giờ em sẽ về).
b) Hướng dẫn bài làm:
- Viết nhắn tin của em cho ba hoặc mẹ.
- Chú ý: Trình bày cho sạch sẽ, viết đúng chính tả, đầy đủ nội dung.
* Chú ý cách ghi nhắn tin:
- Đầu tiên ghi giờ, ngày, tháng, năm.
- Dòng đầu ghi nhắn tin cho ai?
- Tiếp theo ghi nội dung nhắn tin.
- Cuối cùng kí tên em.
Ví dụ:
3 giờ ngày 20 – 10 - 2017
Mẹ ơi!
Chiều nay bà nội đến chơi, bà đợi mãi mà mẹ chưa về. Bà đưa con sang nhà
cô Phương chơi. Khoảng 8 giờ tối bà sẽ đưa con về.
Con trai: Khánh Nguyên

Lưu ý: Tùy vào điều kiện từng vùng, từng địa phương, giáo viên có thể lưu ý cho
học sinh viết tin nhắn trên điện thoại, máy tính, thư tay khi cần thiết giúp các em có
thể thông tin cho người thân khi đang ở xa và cũng giúp các em sớm tiếp cận với công
nghệ thông tin trong thời đại mới.
1.3: Lập thời gian biểu:
Dạy học sinh lập thời gian biểu là một biện pháp hình thành ở các em thái độ
tích cực, chủ động, tính kế hoạch và khả năng sắp xếp cuộc sống riêng.Thời gian biểu
là lịch sinh hoạt, làm việc, nghỉ ngơi trong một ngày,gồm cả sáng, trưa, chiều, tối.
Thời gian biểu rất cần thiết vì nó giúp chúng ta làm việc tuần tự, hợp lý và không bỏ
sót công việc.
- Đề bài yêu cầu học sinh lập thời gian biểu buổi tối .
8


a) Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Lập thời gian biểu buổi tối của em.
- Xem lại bài tập đọc “Thời gian biểu”để biết cách trình bày: nhớ lại thời gian
và công việc buổi tối của em để lập thời gian biểu (từ khoảng 18 giờ 30 đến 19 giờ
em làm gì? Thời gian tiếp theo, em làm tiếp việc gì? Cho đến khi đi ngủ)
b) Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Em có thể viết hoặc kẻ bảng ghi thời gian biểu buổi tối của mình theo thứ tự
thời gian và công việc (nhớ ghi rõ họ tên và địa chỉ lớp); cố gắng ghi đủ các việc cụ
thể cần làm và thời gian làm mỗi việc đó.
Ví dụ: Thời gian biểu buổi tối.
Họ và tên: Nguyễn Việt Anh
Lớp: 2A Trường Tiểu học Nga Điền II
- 18 giờ 30 – 19 giờ : ăn cơm
- 19 giờ
– 19 giờ30: nghỉ ngơi, xem ti vi
- 19 giờ 30 – 20 giờ30: học bài

- 20 giờ 30 – 21 giờ: vệ sinh cá nhân
- 21 giờ: đi ngủ
Kết luận:
Khi hướng dẫn học sinh viết bản tự thuật, viết nhắn tin và lập thời gian biểu
học tập, giáo viên phải luôn nhắc học sinh lựa chọn ngôn ngữ ngắn gọn, xúc tích
không rườm rà, dài dòng nhưng phải thể hiện rõ mọi thông tin cần thiết để nội dung
cần thông báo không bị khó hiểu dẫn tới người đọc hiểu sai thông tin.
Biện pháp 3: Rèn luyện kỹ năng diễn đạt (nói, viết ) qua các dạng bài trả lời câu
hỏi hoặc qua quan sát tranh ảnh người, sự vật cho học sinh.
Thực hành rèn luyện kỹ năng diễn đạt (nói, viết) là dạng bài nòng cốt trong môn
Tập làm văn. Nó đòi hỏi ở người học sinh vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi
mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy, khi dạy dạng
bài này, giáo viên cần nắm rõ tâm lý lứa tuổi học sinh. Ở lứa tuổi này, học sinh nhìn
nhận sự vật thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em rất tỉ mỉ quan sát, có
em chỉ hời hợt qua loa. Bởi vây, giáo viên phải nhấn mạnh để học sinh rõ, muốn tả bất
cứ cái gì thì các em phải hiểu rõ về cái đó. Các em phải tìm hiểu thông tin về cái đó.
Có thể hỏi bạn bè, gia đình, thầy cô hay quan sát thực tế, qua đọc sách, đọc báo, …
Giáo viên cần phối hợp nhiều phương pháp và hình thức dạy sao cho bảo đảm với
mục tiêu.
- Giáo viên yêu cầu và hướng dẫn học sinh có thói quen quan sát những sự vật
hiện tượng xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Ngoài ra giáo
viên cần sưu tầm những hình ảnh để các em quan sát hoặc có thể trình chiếu, cho các
em quan sát vật thật, tham quan dã ngoại … nhằm giúp HS nắm được rõ hơn về các
hình ảnh của các sự vật. Từ đó giúp các em hào hứng học tập và kể sinh động, chính
xác. Khi học sinh kể thì chú ý hướng dẫn các em dùng những từ ngữ có hình ảnh, màu
sắc để kể nhằm làm cho bài văn thêm sinh động.
9


- Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý và chú

ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học sinh có thể rút ra
những câu văn hay, hình ảnh đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng. Để dạy tốt bài tập làm
văn dạng viết một đoạn văn ngắn kể về người thân, con vật, loài vật, cây cối…giáo
viên cần tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần: mở bài (giới thiệu),
thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm); nói, viết phải thành câu rõ ý, đúng ngữ pháp.
Khi viết xong các em đọc lại toàn bộ, gắn bó các câu với nhau để ý sau, ý trước nối
tiếp thành đoạn văn, bài văn xuôi nghĩa. Tôi xin giới thiệu cách hướng dẫn học sinh
viết đoạn văn ngắn với một số chủ đề sau:
3.1. Trả lời câu hỏi:
a. Quan điểm về dạng bài:
Trả lời câu hỏi là loại bài tập làm văn trả lời đúng và đủ các câu hỏi (SGK)
thành câu rõ, gọn và có hình ảnh về một việc, một hoàn cảnh, một chuyện. Các câu trả
lời lần lượt ghép thành đoạn văn, bài văn rõ đề bài.
b. Cách làm bài văn trả lời câu hỏi:
- Đọc kĩ các bài Tập đọc có liên quan đến bài tập (nếu có).
- Đọc đi đọc lại từng câu hỏi rồi đọc vài lượt toàn bộ câu hỏi theo đúng thứ tự
trong SGK, vừa đọc vừa nhẩm xem câu hỏi hỏi gì và mình sẽ trả lời thế nào?
- Lần lượt trả lời từng câu theo thứ tự các bước:
+ Câu đó hỏi điều gì?
+ Suy nghĩ, cân nhắc để tìm ý trả lời cho đủ, cho đúng. Câu trả lời phải rõ ràng,
gẫy gọn và mạch lạc ( ý trước, ý sau nối tiếp nhau chặt chẽ )
+ Sắp xếp, ghép các câu trả lời theo thứ tự để tất cả các câu hợp thành đoạn
văn, bài văn trọn vẹn.
Ví dụ: Bài: Mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị. Kể ngắn theo câu hỏi. (Tuần 8)
Bài tập 2: Trả lời câu hỏi ( theo SGK)
* Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Trả lời câu hỏi (theo sách giáo khoa).
- Nhớ lại: Tên cô giáo (thầy giáo) dạy em ở lớp 1; Tình cảm của cô giáo (thầy
giáo) đối với em và các bạn trong lớp; điều mà em đáng nhớ nhất ở cô giáo (thầy
giáo); tình cảm của em đối với cô giáo ( thầy giáo).

- Điều đáng nhớ nhất có thể là: Khi em mắc khuyết điểm, cô giáo (thầy giáo) ân
cần khuyên bảo em như thế nào? Lúc em viết sai, cô giáo (thầy giáo) đã uốn nắn cho
em từng nét chữ như thế nào? .
* Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Em lần lượt trả lời từng câu hỏi trong SGK để kể về cô giáo (thầy giáo) của
mình. Chú ý dùng từ đúng, nói thành câu đủ ý và thể hiện được tình cảm chân thành
của em đối với cô giáo (thầy giáo).
Ví dụ:
Câu hỏi
Trả lời
a, Cô giáo ( hoặc thầy - Cô giáo lớp Một của em là cô Hòa.
10


giáo) lớp Một của em tên
là gì?
b, Tình cảm của cô (hoặc
thầy) đối với học sinh
như thế nào?

- Cô Hòa là cô giáo dạy em hồi lớp Một.

- Cô rất thương yêu và quan tâm, chăm sóc chúng em.
- Cô luôn chăm lo, săn sóc cho chúng em từng li, tưng
tí.
- Em nhớ nhất lần đầu tiên cô cầm tay giúp em viết
c, Em nhớ nhất điều gì ở từng nét chữ.
cô (hoặc thầy)?
- Em nhớ mãi lần em bị ốm sốt cao cô đã ân cần đưa
em xuống phòng y tế của nhà trường và động viên

em,
d, Tình cảm của em đối - Em sẽ nhớ mãi cô giáo Hòa .
với cô giáo (hoặc thầy - Dù đã lên lớp Hai, không được học cô Hòa nữa,
giáo) như thế nào ?
nhưng hình ảnh cô vẫn còn in đậm trong tâm trí em.
3.2. Kể về người thân hoặc người quen biết.
* Hướng dẫn chung về kể người:
- Giới thiệu về người mà mình muốn kể.
- Kể về hình dáng (cao- thấp, béo- gầy, thon thả - mập mạp, ..)
- Kể về những đặc điểm nổi bật ( mái tóc, khuôn mặt, nước da, đôi mắt, hàm
răng,..)
- Kể về tính tình (hiền, vui vẻ, phúc hậu, ..)
- Kể về hoạt động: Làm việc gì?
- Tình cảm của em đối với người em kể.
* Kể về người thân trong gia đình:
a) Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Kể về ông, bà (hoặc một người thân ) của em.
Chú ý: Người thân trong gia đình có thể là ông ( bà) nội (ngoại), bố mẹ, anh
(chị, em)
- Điều gì chưa biết rõ, có thể hỏi lại người thân ( như: tuổi tác, nghề nghiệp,
những việc làm hằng ngày)
- Để trả lời câu hỏi: Ông ( bà, bố, mẹ …) của em yêu quý, chăm sóc em như thế
nào? Em cần nhớ lại những lời nói, cử chỉ, hành động, ... cho thấy tình cảm yêu quý,
thái độ quan tâm, chăm sóc của người thân đối với em ( như: đưa đón em đi học, kể
chuyện cho em nghe, nhắc nhở em học bài.)
b) Hướng dẫn học sinh làm bài:
Em kể về người thân của mình theo các câu hỏi gợi ý trong SGK.
Lưu ý:
- Nhớ lại lời kể ở trên, chú ý lựa chọn những từ ngữ đúng, và hay để diễn đạt
thành câu văn sinh động.

- Lựa chọn nội dung viết: Kể về ai? ( Anh hay chị, em) kể về những điều gì
nổi bật? Tuổi tác, nghề nghiệp, hình dáng, tính tình của anh ( chị, em); tình tảm của
em đối với anh (chị, em).
11


Kể về gia đình em: Giáo viên hướng dẫn tương tự như trên sau khi học sinh
trả lời theo câu hỏi gợi ý trong sách giáo khoa, nhận xét bổ sung rồi cho học sinh tự
viết đoạn văn về gia đình mình khoảng 4,5 câu.
3.3. Kể về con vật.
Hướng dẫn học sinh lập sơ đồ trước khi làm tập làm văn.
Giáo viên cho học sinh nói về hình dáng, hoạt động của con vật và tình cảm của
mình đối với con vật cần kể. Giáo viên ghi nhanh các ý học sinh trả lời lên bảng thành
sơ đồ.(Nếu học sinh có thể thực hiện được thì giáo viên hướng cho học sinh tự thực
hiện sơ đồ)
Ví dụ:
Kể về con lợn
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát con
lợn tại gia đình.
- Tổ chức cho học sinh quan sát trên
tranh ảnh, băng hình.
- Yêu cầu học sinh nói và giáo viên thực
hiện lập sơ đồ trên bảng.
Chú lợn ở nhà em
Kêu ụt ịt

Tai vểnh

Con lợn
Lông thưa

cứng

Ăn cám

Em yêu mến chú
lợn
Từ sơ đồ mạng đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu, cứ
thế tiếp nối nhau lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi lại trên bảng,
thế là đã có nhiều đoạn văn mẫu khác nhau. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng củng
nhưng ta có thể sửa chữa.
- Có thể hình thành một đoạn văn qua trò chơi “tiếp sức, sắm vai người thân”…
để tạo sự hứng khởi trong học tập cho học sinh đồng thời tiếp thu kiến thức một cách
tự giác. Thông qua trò chơi, học sinh còn được phát triển cả về thể lực và nhân cách,
giúp cho học sinh học Tiếng Việt một cách nhẹ nhàng hơn và tạo sự thân thiết giữa
thầy trò với nhau. Khuyến khích học sinh lồng cảm xúc vào bài.

12


- Ví dụ: Khi tả một chú lợn, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một em là “chú
lợn”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở
nháp.
 “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú lợn “Nhà em có nuôi một chú
lợn”
 Còn “chú lợn” thì vừa nói vừa diễn tả : “Tôi có bộ lông thưa và cứng. Cái tai
của tôi vểnh lên. Tôi kêu ụt ịt suốt ngày …”
 Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú lợn : “Em thường
múc cám cho chú lợn ăn …”
- Khuyến khích học sinh diễn đạt tự do, suy nghĩ chân thật, thể hiện thoải mái.
Sau đó mới dần dần uốn nắn thì cách hành văn của các em mới tự nhiên.

Ví dụ: Khi các em nói về hoạt động của chú lợn như sau : “Nó vẫy đuôi và
kêu ụt ịt”. Ta có thể khuyến khích các em là tả đúng rồi nhưng nếu sử dụng một số từ
gợi tả hơn thì chắc chắn câu văn sẽ hay hơn nhiều như “ Nó ngoe nguẩy cái đuôi và
luôn miệng kêu ụt ịt”.
Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là ….
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay những từ
ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự.
3.4. Quan sát tranh – trả lời câu hỏi:
- Trong giờ Tập làm văn, học sinh được học kể sáng tạo qua tranh vẽ. Việc kể
chuyện theo tranh vừa kích thích trí tưởng tượng vừa giúp các em tập đặt câu cho gọn
gàng, sáng sủa để diễn đạt ý mình muốn nói. Việc kể chuyện không theo bài tập đọc
có trước là kiểu kể chuyện sáng tạo.
a. Mục tiêu của kiểu bài quan sát tranh, trả lời câu hỏi ở lớp 2 là luyện tập kĩ
năng quan sát, kĩ năng diễn đạt đúng, có hình ảnh những điều các em quan sát được
để hình thành một đoạn văn miêu tả.
b. Các phương tiện dạy học chủ yếu:
- Tranh vẽ minh họa chủ đề của bài văn. Tranh vẽ cần đạt được yêu cầu sau:
+ Bố cục tranh phải rõ đủ để học sinh nhận ra các phần cảnh.
+ Tranh vẽ phải gợi ra được hành động của con vật, con người, gợi ra được các
tình huống mà nhân vật chính trong tranh. Màu sắc hình vẽ trong tranh phải hấp dẫn,
thể hiện được những nét tiêu biểu, độc đáo của người và vật, cảnh được nói tới trong
tranh.
c. Hoạt động chính của học sinh khi đọc kiểu bài này:
- Quan sát tranh có định hướng: Hướng dẫn học sinh thực hiện các thao tác
quan sát tranh.
- Diễn đạt các điều vừa quan sát được bằng ngôn ngữ: Hướng dẫn học sinh tìm
từ ngữ để thể hiện một cách có hình ảnh những điều đã quan sát được.
- Diễn đạt lời văn có hình ảnh về những điều quan sát được tổ chức theo một
logic: Hướng dẫn học sinh nói thành câu văn kể (tả) những điều quan sát.
d. Cách làm bài văn quan sát tranh trả lời câu hỏi:

13


- Học sinh quan sát kĩ bức tranh (toàn cảnh và từng chi tiết ). Dựa vào vốn hiểu
biết thức tế, học sinh tưởng tượng các màu sắc, hình thù, âm thanh để khi viết câu trả
lời nêu được ý trọn vẹn, gắn bó với nhau và câu văn sinh động. Giáo viên hướng dẫn
học sinh nhìn tranh, đối chiếu tranh với nội dung đã chuẩn bị để bổ sung từ ngữ diễn
đạt chi tiết mới.
- Đọc kĩ từng câu hỏi, nắm chắc yêu cầu từ đó suy nghĩ các hình ảnh đã quan
sát được và trả lời sao cho gọn, chính xác, hay.
- Sắp xếp theo trình tự, nối với nhau cho liền mạch, bài văn hoàn chỉnh.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trả lời miệng trong nhóm: Học sinh trả lời
miệng từng câu hỏi dựa vào chuẩn bị ở trong nhóm, bổ sung, sửa chữa câu trả lời của
bạn, ghi chép vào phần chuẩn bị từ ngữ, diễn đạt mới.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh trả lời miệng trong toàn lớp và chuẩn hóa cách
diễn đạt trong câu trả lời, giới thiệu cách lựa chọn từ ngữ, phân tích câu trả lời tốt nhờ
biết tưởng tượng, liên tưởng, so sánh, nhân hóa. Ghi các từ ngữ làm điểm tựa cho
từng câu trả lời lên bảng( từ nói ý từ ngữ gợi hình ảnh). Học sinh trả lời miệng từng
câu hỏi trong toàn lớp, bổ sung, sửa chữa câu trả lời của bạn, ghi chép các từ ngữ làm
điểm tựa cho từng câu trả lời.
- Hướng dẫn học sinh viết bài: Giáo viên viết yêu cầu của bài viết chỉ viết câu
trả lời, câu phải có đủ bộ phận chính. Đầu câu phải viết hoa, cuối câu phải có dấu
chấm. Giữa các câu (nếu có thể) thì viết từ nối ở đầu câu sau nhằm giúp cho bài làm
thêm liền mạch.
- Cuối cùng, giáo viên yêu cầu học sinh đọc lại bài viết để sửa chữa, bổ sung.
Ví dụ: Tuần 25: Bài; Đáp lời đồng ý. Quan sát tranh- Trả lời câu hỏi.
a) Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Nhìn tranh
( SGK) và trả lời câu hỏi ( a, b, c, d)
- Quan sát tranh kĩ từ trái sang

phải, từ trên xuống dưới, cảnh vật to,
nhỏ, màu sắc.
- Tìm hiểu hệ thống câu hỏi:
Đọc lần lượt từng câu hỏi.
+ Câu hỏi (a) yêu cầu trả lời
bằng ý bao quát ( cảnh gì ?).
+ Câu hỏi ( b,c,d) yêu cầu trả
lời bằng nhận xét hay liệt kê những
Tranh cảnh biển buổi sáng bình minh
chi tiết cụ thể

b) Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Em nhìn tranh và trả lời từng câu hỏi trong SGK; có thể lựa chọn từ ngữ gợi ý
để diễn đạt thành câu.
14


Câu hỏi
a. Tranh vẽ cảnh gì?

Gợi ý

- Cảnh biển buổi sáng
- Cảnh buổi sớm mai thật đẹp.
b. Sóng biển như thế nào?
- Nhấp nhô, dập dềnh (từng đợt)
- Nối đuôi nhau chạy vào bờ cát
- Mấy chiếc thuyền đánh cá đang giương buồm ra
c. Trên mặt biển có những
khơi

gì ?
- Mấy còn thuyền đang căng buồm ra khơi đánh cá
- Mặt trời (đỏ ối) đang nhô lên, mấy đám mây bồng
bềnh ( nhởn nhơ) trôi, từng đàn hải âu bay rập rờn
d. Trên bầu trời có những gì? - Mây lững lờ trôi, đàn hải âu đang chao lượn.
3.5. Kể về một loài cây mà em thích.
a . Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Dựa vào gợi ý SGK, viết một đoạn văn ngắn (khoảng 4 - 5
câu) nói về một loài cây mà em thích.
b. Hướng dẫn dàn bài:
- Trước hết, cần lựa chọn một loài cây mà em thích:
+ Đó là cây gì? Trồng ở đâu ?
+ Hình dáng của cây thế nào ? (dáng đứng, tán lá, hoa, quả…)
+ Ích lợi của cây (tìm từ ngũ để diễn tả cho đúng ý): làm đẹp cuộc sống, để
trang trí, để ăn, lấy bóng mát, lấy gỗ.
c. Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Viết đoạn văn ngắn ( 4, 5 câu) về một loài cây mà em thích.
- Viết nháp rồi sửa lại từ ngữ, câu văn trước khi chép cho sạch sẽ, đúng chính tả
vào vở.
3.6. Tả người thông qua tranh ảnh:
Ví dụ: Quan sát ảnh Bác Hồ được treo trong lớp học, trả lời các câu hỏi trong
SGK.
a) Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
- Xác định yêu cầu: Quan sát ảnh Bác Hồ
được treo trong lớp học, trả lời các câu hỏi nêu ở
SGK.
- Dựa vào ảnh Bác Hồ treo ở lớp học, em
hãy quan sát, suy nghĩ và tìm ý (từ ngữ ) để diễn
đạt.
+ Xác định vị trí nơi treo ảnh Bác Hồ ( ví

dụ: Phía trên bảng lớp; phía trên bảng lớp và khẩu
hiệu; phía trên bảng lớp và dòng chữ: Đời đời nhớ
ơn Bác Hồ vĩ đại; chính giữa bức tường lớn của
lớp em )
15


+ Gương mặt Bác Hồ trong ảnh: Râu tóc Bác như thế nào? Ví dụ: Râu (chòm
râu) hơi dài, mái tóc bạc phơ. Vầng trán Bác ra sao? (Ví dụ: cao, rộng). Đôi mắt Bác
trông thế nào? (Ví dụ: sáng ngời, hiền từ, thông minh, như đang mỉm cười với chúng
em)
+ Nhìn ảnh Bác Hồ treo trong lớp học, em muốn hứa với Bác điều gì? (Ví dụ:
chăm học, chăm làm, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, đoàn kết, thật thà)
b) Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Trả lời từng câu hỏi trong sách SGK theo kết quả đã quan sát, tìm ý của em;
cố gắng diễn đạt thành các câu văn mạch lạc, rõ ý. Học sinh khá, giỏi có thể tập viết
những câu văn sinh động theo cách cảm nhận riêng. Ngoài ra học sinh còn phải thể
hiện được tình cảm của mình đối với Bác.
3.7. Kiểu bài quan sát và trả lời câu hỏi:
- Để làm được dạng bài này, các em phải biết quan sát các đối tượng khác nhau:
Một bức tranh, một cây cối, một con vật. Biết quan sát tức là các em biết dùng các
giác quan để nhận biết đặc điểm của bức tranh hay con vật, cây cối (hình dạng của
chúng thế nào, chúng có màu sắc, mùi vị gì, cách thức hoạt động của chúng ra sao.)
- Khi quan sát, đầu tiên các em phải có một cái nhìn chung để xác định được
mình đang phải quan sát cái gì? Quan sát cảnh gì? Quan sát con gì? Tiếp theo các em
phải biết cách chia đối tượng thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát theo nhiều góc
độ.
+ Quan sát tranh, sau cái nhìn chung ban đầu, có thể quan sát từ trái sang phải,
từ trên xuống dưới: quan sát từ cảnh gần đến những cảnh ở xa : quan sát những cảnh,
nhân vật chính rồi đến cảnh, nhân vật phụ.

Ví dụ:
Quan sát tranh vẽ cảnh biển:
- Quan sát chung: cảnh biển.
- Quan sát từ cảnh gần (sóng biển) đến cảnh xa (những con thuyền, chim,
mây, ông mặt trời )
Quan sát con vật
- Khi quan sát con vật, các em nhớ quan sát hình dáng bên ngoài, thứ tự từ trên
xuống dưới (đầu, mình, chân, đuôi con vật) tiếp đó em quan sát hoạt động của chúng.
Quan sát cây cối
- Khi quan sát cây cối, các em cần quan sát toàn cây rồi quan sát tán cây, lá,
hoa, quả, thân và gốc cây.
- Cần lưu ý tập trung quan sát những bộ phận chính, lướt qua những bộ phận
phụ, nên tập trung vào những gì có khả năng gây sự chú ý mạnh mẽ, những gì là đặc
điểm riêng của đối tượng quan sát. Điều quan trọng là không chỉ quan sát bằng giác
quan mà bằng cả tấm lòng, qua sát bằng cả tình yêu thiên nhiên, loài vật. Sau khi đã
quan sát, em phải biết dùng lời để nêu những nhận xét về những gì mà mình quan sát
được, tập trung nói về những gì gây ấn tượng nhất.
16


- Để định hướng cho các em quan sát cũng như nêu nhận xét của mình, bài Tập
làm văn có một số câu hỏi gợi ý. Vì vậy, các em sẽ lần lượt trả lời từng câu hỏi này.
Đầu tiên, các em gắng trả lời cho đúng điều câu hỏi nêu yêu cầu. Sau đó, các em nên
sửa lại lời bằng cách chọn lọc các từ ngữ, sử dụng các từ chỉ hình ảnh, màu sắc để câu
trả lời ngày càng hay hơn có ý riêng và cách diễn đạt riêng của mình hơn. Các em nhớ
câu trả lời hay không phải là câu trả lời chỉ nêu được chính xác đặc điểm của đối
tượng được quan sát mà còn thể hiện được thái độ, tình yêu của các em đối với sự vật.
Các câu các em vừa trả lời là những ý các em cần nói. Nhưng muốn nói (viết)
thành đoạn, thành bài, lại phải nói ( hoặc viết) liên tục nhiều câu làm sao để các câu
gắn liền với nhau.

Ví dụ: Kể ngắn về con vật nuôi
a. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị:
Xác định yêu cầu: Kể về một con vật nuôi trong nhà mà em biết.
- Chọn con vật nuôi trong nhà mà em biết để kể lại những câu hỏi gợi ý sau:
+ Con vật nuôi trong nhà mà em biết là con vật gì?
+ Con vật đó có đặc điểm gì nỗi bật(về hình dáng, hoạt động).
+ Theo em , con vật đó được nuôi để làm gì? Thái độ của em đối với con vật
đó ra sao?
b. Dàn bài chi tiết:
- Em quan sát con vật định kể (nuôi trong gia đình hoặc nhà hàng xóm nuôi) rồi
trả lời các câu hỏi và làm bài tập.
- Con vật đó là con gì ? Được nuôi từ bào giờ ? ( Em nhìn thấy con vật trong
trường hợp nào?)
- Hình dáng con vật như thế nào ? Bộ lông màu gì ? Đầu, tai, mắt, mũi, răng, ..
như thế nào?
- Tính nết con vật ra sao? (Biểu hiện khi ăn, khi ngủ, biểu hiện trong hoạt
động : khi kiếm mồi, khi kêu, khi hót, khi thấy người đến)
- Vì sao em mến con vật đó ? Em biểu hiện tình cảm của mình đối
với nó ra sao ?
c) Hướng dẫn học sinh làm bài:
- Hướng dẫn học sinh làm bài theo các câu hỏi gợi ý trên. Chú ý dùng từ ngữ có
hình ảnh, màu sắc để kể nhằm làm cho bài văn thêm sinh động.
Lưu ý: Ngoài các biện pháp đã nêu trên, khâu chấm bài cũng là câu quan trọng
để góp phần giúp các em học phân môn Tập làm văn tiến bộ có hiệu quả khi làm bài.
Vậy giáo viên phải làm tốt những việc sau:
- Giáo viên cần chấm bài nghiêm túc, kĩ càng, chính xác. Nếu chấm bài qua loa
sơ sài, giáo viên sẽ không đánh giá chính xác được ưu điểm, nhược điểm trong bài
viết của các em. Muốn chấm kĩ, chính xác, trước hết giáo viên phải đọc kĩ bài văn mà
học sinh đó làm, tìm ưu, nhược điểm đánh dấu và chữa bài ngay bằng mực đỏ. Giáo
viên vừa chấm vừa ghi chép những lỗi sai của học sinh ra giấy để làm cơ sở nhận xét

khi trả bài.
17


Ví dụ: Lỗi sai về ngữ pháp, chính tả, dùng từ, đặt câu. Giáo viên phải nắm được
cụ thể các lỗi đó của học sinh nào nhưng không nhất thiết nêu tên học sinh đó tại lớp.
Giáo viên nêu yêu cầu chữa ngay lỗi vào vở ( để lớp học sôi nổi, giáo viên nên lấy
dẫn chứng các lỗi của học sinh như đặt câu sai nội dung, dùng từ sai nghĩa, viết sai
chính tả nó sẽ tạo cho học sinh cảm giác buồn cười.)
- Chữa lỗi xong giáo viên cho học sinh tham khảo một số bài viết hay, đạt kết
quả cao của học trong lớp hoặc bài viết ở tài liệu tham khảo có nội dung tương tự, để
cho học sinh tham khảo cách viết.
Kết luận:
Khuyến khích học sinh, tạo điều kiện cho các em bộc lộ và phát huy vốn sống
của mình chính là người giáo viên đã góp phần phát triển và từng bước nâng cao kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết (đặc biệt là kỹ năng diễn đạt câu) cho các em đạt được các
kỹ năng của môn Tập làm văn.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường.
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến, giúp học sinh học tập và rèn, chất lượng
học tập của học sinh lớp tôi dạy đã được nâng cao rõ rệt. Học sinh đã bước đầu biết
cách ứng xử, nói và viết phù hợp với tình huống giao tiếp về chủ điểm. Nội dung các
bài viết phong phú biết diễn đạt, lựa chọn từ ngữ hợp lý có ý tưởng riêng của mình.
Học sinh không thấy sợ học phân môn này nữa mà rất thích đón chờ giờ Tập làm văn
tiếp theo đó là điều tôi rất phấn khởi và tự tin ở các em.
Kết quả đạt được học kì I năm học 2017 – 2018 như sau:
Số HS hoàn
Số HS chưa hoàn
Số HS hoàn thành
Tổng

thành tốt kiến
thành kiến thức, kĩ
Năm học
kiến thức, kĩ năng
số HS
thức, kĩ năng
năng
môn học
môn học
môn học
HKI
Năm học:
31
12
38,7
19
61,3
0
0
2017-2018
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho học sinh
Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho
các em nắm được phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết sức cần thiết. Vậy
muốn các em học tốt phân môn này người giáo viên cần lưu ý:
1. Giáo viên khai thác triệt để sách giáo khoa:
- Ưu điểm tranh trong sách Tiếng Việt lớp 2 là được trình bày đẹp, trang nhã, với
nhiều hình ảnh sinh động, dễ hiểu, màu sắc phong phú. Tranh phục vụ thiết thực cho
18



những bài học, gần gũi với cuộc sống hằng ngày như: viết lời nhắn, viết thư chúc Tết,
cách viết địa chỉ người gửi và người nhận trên bì thư. Đó đều là những cách thông tin của
những quan hệ thân tình hoặc quan hệ công việc mà mỗi người hằng ngày đều cần đến.
- Từng học sinh có thể quan sát tranh ngay trong sách giáo khoa một cách cụ
thể, chi tiết và rõ ràng.
2. Các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ, trong từng phần, góp phần tô
đậm nội dung chủ điểm học tập của từng tuần. Vì thế dạy Tập làm văn cần gắn với
dạy các phân môn Tiếng Việt khác trong tuần ( đặc biệt là Tập đọc, Luyện từ và câu)
nhằm mục đích giúp học sinh nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã học ở các
phân môn Tiếng Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn.
3. Không chỉ kết hợp chặt chẽ với các phân môn khác trong Tiếng Việt mà
khi dạy Tập làm văn người giáo viên cần kết hợp chặt chẽ với các môn học khác
như: Đạo đức, Tự nhiên và xã hội .
- Qua môn Tự nhiên và xã hội, học sinh được làm quen với những cây cối,
những con vật trong đời sống hằng ngày(sống ở đâu, có đặc điểm gì.). Đó cũng là
những tư liệu quý báu giúp các em vận dụng để làm tốt hơn các bài văn kể về con vật,
cây cối.
- Trong chương trình đạo đức lớp 2 cũng có nhiều bài liên quan đến những nội
dung các em học trong Phân môn Tập làm văn như bài: Biết nhận lỗi và sữa lỗi; Biết
nói lời yêu cầu, đề nghị: Lịch sự khi nhận và gọi điện thoại; Lịch sự khi đến nhà
người khác . Ở mỗi bài này học sinh đều được luyện tập những hành vi ứng xử phù
hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội trong những tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc
sống hằng ngày. Vì thế nếu các em nắm vững được những kiến thức này thì khi học
Tập làm văn các em sẽ rất nhẹ nhàng, quen thuộc và gần gũi.
4. Khi dạy các bài Tập làm văn về bốn mùa, kể về người, con vật (thú, chim),
cây cối giáo viên có thể cho học sinh xem thêm tranh (ảnh ) hoặc băng hình về các
chủ đề nhằm giúp học sinh nắm được rõ hơn về hình ảnh các con vật. Từ đó làm cho
bài văn của các em thêm sinh động, có hình ảnh.

5. Cung cấp thêm cho học sinh những đoạn văn hay về các chủ đề (bốn mùa,
người, con vật, cây cối) để học sinh học tập về bố cục đoạn văn, cách kể (cách tả) sao
cho sinh động phù hợp với đối tượng cần kể ( tả).
* Tóm lại: Muốn dạy tốt phân môn Tập làm văn trong chương trình Tiểu học
thì bản thân người giáo viên phải nghiên cứu kĩ các phương pháp dạy môn Tiếng Việt
và đặc biệt là môn Tập làm văn. Ngoài ra, người giáo viên cần phải trau dồi thêm kiến
thức, luôn học hỏi, dự giờ chuyên đề của các đồng nghiệp, từ đó lựa chọn nội dung và
phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh.
3.2. Kiến nghị.
Tôi mong các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội luôn quan tâm đến sự nghiệp
giáo dục của đất nước nói chung. Sự nghiệp giáo dục của xã Nga Điền - huyện Nga
Sơn - tỉnh Thanh Hóa nói riêng từng bước đi lên trên con đường CNH- HĐH đất
nước.
19


Trên đây là sáng kiến nhỏ mà tôi đã áp dụng để dạy phân môn Tập làm văn ở lớp
2. Trong 2 năm đã thực hiện đạt hiệu quả và trao đổi cùng đồng nghiệp trong tổ chuyên
môn, bản thân tôi mới mạnh dạn ghi lại sáng kiến này.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày... tháng ... năm 2018
Cam kết không coppy
Người thực hiện

Mai Xuân Thống

Mai Văn Lượng


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các tài liệu tham khảo.
1. Yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng các lớp 1, 2, 3, 4. Bộ Giáo dục - Đào
tạo
2. Giải đáp 88 câu hỏi về Giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học. Lê Hữu Tỉnh – Trần
Mạnh Hưởng – NXBGD
3. Hỏi - Đáp về dạy học Tiếng Việt 4 Nguyễn Minh Thuyết – NXBGD
4. Một số lưu ý khi dạy Tiếng Việt ở Tiểu học Sở Giáo dục Hà Nội
5. Thế giới trong ta (số 189 ) Hội Tâm lý – Giáo dục học Việt Nam
6. Thực hành Tập làm văn 4 Trần Mạnh Hưởng – Phan Phương Dung –
NXBGD
8. Trò chơi học tập Tiếng Việt 4 Trần Mạnh Hưởng – Nguyễn Thị Hạnh – Lê
Phương Nga NXBGD

2. Chú thích:
[1] Luật giáo dục Điều 23.

21


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Văn Lượng
Chức vụ và đơn vị công tác: GV trường TH Nga Điền 2


TT
1.

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Ngành GD cấp
huyện/tỉnh; Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc C)

Chưa có SKKN đạt giải
các cấp.

2.
3.
4.
5.
...
----------------------------------------------------

22

Năm học
đánh giá
xếp loại




×