Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN dạy học theo chủ đề tích hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh, đối tượng học sinh THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.9 MB, 19 trang )

MỤC LỤC
TỀN MỤC

TRANG

1. Mở đầu

1

1.1. Lí do chọn đề tài

1

1.2. Mục đích nghiên cứu

1

1.3. Đối tượng nghiên cứu

2

1.4. Phương pháp nghiên cứu

2

2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1 Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm


3

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.

5

2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

9

2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.

15

3. Kết luận, kiến nghị

16

- Kết luận

16

- Kiến nghị.

17

Tài liệu tham khảo

18


1


1. MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài
Trong bối cảnh ngành giáo dục và đào tạo ( GD&ĐT ) đang không ngừng
nỗ lực đổi mới phương pháp dạy – học ( PPDH ) nhằm phát huy tính tích cực
chủ động, sáng tạo của học sinh ( HS ) . Giáo viên (GV) tổ chức các hoạt động
học tập nhằm giúp HS đạt được những mục tiêu bài học. Để thực hiện được điều
đó đòi hỏi phải có sự quan tâm, chung tay của nhiều cấp, nhiều mặt. Theo
chương trình sách giáo khoa ( SGK) trung học cơ sở ( THCS) môn Mĩ Thuật, có
4 phân môn: Thường thức Mĩ Thuật; Vẽ tranh; Vẽ trang trí; Vẽ theo mẫu. Thống
nhất lại thành một môn học gọi là: Môn Mĩ Thuật. Coi trọng tính thực hành ,
SGK Mỹ Thuật THCS tập trung theo hướng theo tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS trong đó phân môn vẽ tranh rất được quan tâm.
Chương trình mới bồi dưỡng GD đã và đang cải cách theo quan điểm hướng
đến thiết thực, tập trung vào những kĩ năng, kiến thức cơ bản, coi trọng thực
hành vận dụng, nhiều nội dung GD, tích hợp được nhiều mặt. Trong quá trình
dạy học GV chủ yếu là người định hướng cho HS tự học, tự tìm hiểu, tự tìm tòi
sáng tạo, phát hiện và chiếm lĩnh tri thức mới. Đổi mới quan điểm là điều tất yếu
nếu không muốn nền GD nước nhà tụt hậu so với nền GD thế giới mà theo định
hướng của UNESCO là : “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để
tự khẳng định mình”
Với quan điểm như vậy chương trình SGK và phân phối chương trình đã
được giảng dạy lâu nay có những điểm thay đổi ( Không theo tuần tự bài trong
SGK, cắt bỏ bài, tăng thời lượng những bài thực hành trong phân môn vẽ tranh).
Do vậy người làm công tác giảng dạy không thể không tự học, tự tìm cách thay
đổi cho phù hợp với yêu cầu, mục tiêu dạy và học mới.
Với những năm kinh nghiệm đứng trên bục giảng, tôi nhận thức rõ phân

môn vẽ tranh là nền tảng, là công cụ giao tiếp phát huy tốt tính tích cực , sáng
tạo của HS, từ sự vận dụng vẽ tranh trong việc lý giải vẻ đẹp và hiệu quả của
nghệ thuật, kĩ năng trong những bài học ( Đề tài) hàng ngày. HS sẽ tự nâng cao
tri thức, trí tưởng tượng, sáng tạo để hoàn thành bài của mình tốt. Đây cũng
chính là lí do tôi chọn đề tài viết SKKN này: “Dạy học theo chủ đề tích hợp
thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh, đối tượng HS THCS”
1. 2 Mục đích nghiên cứu:
Qua những năm thực tế giảng dạy, tôi suy nghĩ, nghiên cứu viết SKKN “ Dạy
học theo chủ đề tích hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh,
đối tượng HS THCS” với mục đích tìm ra phương pháp, đánh giá, nhận xét tốt
nhất góp phần bổ sung vào lượng kiến thức còn thiếu để nhằm nâng cao chất
lượng dạy và học môn Mỹ Thuật huyện nhà nói chung, trường THCS Xuân Du
nói riêng.

2


1.3.Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của tôi ở đề tài này là: “ Dạy học theo chủ đề tích
hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh, đối tượng HS
THCS” nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Mỹ thuật ở trường THCS
Xuân Du.
1.4 Phương pháp nghiên cứu :
a. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Phương pháp phân tích tích hợp và tích hợp lý thuyết ( Qua các giáo trình,
tài liệu, SGK, sách báo, qua mạng Internet)
Tham khảo một số trường thuộc vùng nông thôn, thị trấn lứa tuổi từ 12
đến 15 tuổi với những nhận thức đặc diểm, tính cách riêng. Là một môn học mà
kiến thức của nó vừa cụ thể, lại vừa chung chung trừu tượng, lấy những sự vật
hiện tượng xung quanh để biểu đạt.Điều đó đòi hỏi người GV cần phải có kiến

thức chuyên môn vững và phải nắm vững kiến thức ở các bộ môn liên quan như:
Lịch sử, Văn học, Sinh học, Toán, Tâm lý lứa tuổi ...vv.Trong đó cái cốt yếu là
phải nắm được phương pháp DH theo chủ đề tích hợp thông qua ngôn ngữ tạo
hình cho HS THCS mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này nó nằm trong phạm vi
phân môn vẽ tranh.
VD: Vẽ tranh: Đề tài cuộc sống quanh em

Dạy học tích hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của hội hoạ nói chung bao
gồm những yếu tố như tính không gian, tính tạo hình trực tiếp trong đó bao gồm
bố cục, đường nét, hình khối, màu sắc, và đối tượng HS THCS ngôn ngữ tạo
hình của các em cũng không nằm ngoài những yếu tố đó.
3


b, Phương pháp nghiên cứu các thực tiễn :
Qua chuyên đề trao đổi, dự giờ đồng nghiệp, đúc rút kinh nghiệm về phương
pháp GD môn Mỹ Thuật.
Phương pháp thực nghiệm dạy giờ mẫu bằng phương pháp mà mình đã đề ra để
đồng nghiệp dự giờ góp ý. Giảng dạy theo phương pháp dạy học tích cực.
2. NỘI DUNG SÁNG KINH NGHIỆM :
2.1 Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm: Sự xuất hiện và phát triển của
ngôn ngữ tạo hình trong phân môn vẽ tranh.

Qua tài liệu và SGK Mỹ Thuật 6 bài 2 “Sơ lược về Mỹ Thuật Việt Nam
thời kì cổ đại” Đã khẳng định và cho chúng ta thấy rằng con người trước khi
chưa có chữ viết và tiếng nói thì đã biết vẽ rồi. Vậy vẽ có trước chữ viết và
tiếng nói. Trong hang động, những viên đá cuội ta bắt gặp hình vẽ, những hình
vẽ lúc bấy giờ chỉ mang tính trao đổi thông tin với nhau thay thế cho tiếng nói.
Nói như vậy tức là vẽ xuất hiện từ rất sớm nhưng lúc này cái đẹp trong hình vẽ
của con người chưa nhận thức được về bố cục, đường nét, màu sắc và cũng

chẳng có khái niệm hay định nghĩa gì về cái đẹp, chỉ đơn giản là trao đổi thông
tin đáp ứng nhu câu cuộc sống.
Đối với trẻ khi mới bước chân vào môi trường học tập (Mầm non, tiểu học)
cũng vậy. Sự sắp xếp về bố cục lộn xộn, khi vẽ hình khối phải phải thấy đầy đủ
cả khuôn mặt, thân ở góc chính diện. Nhưng với bộ phận 2 chân và bàn chân thì
lại vẽ theo góc nhìn ngang, màu sắc xanh, đỏ, tím vàng đặt cạnh nhau làm cho
trẻ thích thú, lúc này trẻ chỉ mới là hoạt động , hoạt động này được coi là bản
năng.

4


Khi bản năng của trẻ càng hoàn thiện hơn biết ý thức được về bố cục, hình
khối, màu sắc thì lúc này ta mới coi là hoạt động vẽ, trẻ quan sát tốt hơn, cảm
nhận suy luận, diễn đạt được nhiều chi tiết về thế giới xung quanh.
Từ thời cổ đại kiến thức về nghệ thuật với những nét vẽ đơn giản, những đồ
vật thô sơ dần dần được hoàn thiện, sự phối kết hợp nhịp nhàng tạo được đường
nét – màu sắc- hình khối- bố cục trở thành một tác phẩm nghệ thuật. Điều này
minh chứng rằng nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ tạo hình nói riêng rất quan
trọng trong đời sống con người.

Ngày nay con người trong thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá ( CNHHĐH ), thời của công nghệ thông tin ( CNTT) thì nhu cầu về cái đẹp càng được
nâng cao. Con người muốn được hoàn thiện cần phải trải qua 4 yếu tố “ Đức –
5


Trí - Thể - Mỹ ” vậy “Đức” là gì ? Là đạo đức, nhân cách , phẩm chất..., “Trí” là
gì ? Là trí khôn, óc sáng tạo, tìm tòi tư duy..., “Thể” là gì ? Là khoẻ mạnh, vận
động linh hoạt, thao tác nhanh nhẹn..., “ Mỹ” là gì ? Là cái đẹp, lý tưởng, tâm
hồn... Như vậy nhu cầu về cái đẹp, về nghệ thuật, Mỹ Thuật không thể thiếu

trong đời sống loài người.
2.2 Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trong các môn học nói chung và môn Mĩ thuật nói riêng, việc vận dụng
kiến thức của các bài đã học là một yêu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, đối với GV và
học sinh, việc vận dụng kiến thức dạy học tích hợp trong môn Mĩ thuật ở THCS
một số năm trở lại đây mặc dù đã có xu hướng tích cực hơn, nhưng vẫn chưa
được như mong muốn.Điều này cũng không phải là ngoại lệ đối với thực tế dạy
học ở trường THCS Xuân Du những năm trước. Qua khảo sát chất lượng năm
học 2015- 2016 cho thấy:
Năm học 2015-2016
Xếp loại – tỉ lệ
STT Lớp

Tổng
số HS

Mức độ
Mức độ
nhận biết thông hiểu

Vận dụng
Mức độ thấp

Mức độ cao

1

6A

5


100%

50%

35%

15%

2

7A

5

100%

55%

27%

18%

3

8A

5

100%


60%

25%

15%

4

9A

5

100%

60%

20%

20%

Sở dĩ có tình trạng này là do một số nguyên nhân cơ bản sau :
Theo những nhà tâm lí học và những năm kinh nghiệm giảng dạy cho thấy
tâm sinh lí của con người ở mỗi lứa tuổi đều có sự thay đổi và khác nhau. Lứa
tuổi từ 12- 15 tuổi lúc này trí não của các em phát triển rất nhanh, luôn luôn tìm
hiểu, khám phá thế giới xung quanh. Vẽ là một hoạt động vui nên các em rất
thích thú thoải mái sáng tạo, tưởng tượng. Bởi thế thông hiểu và vận dụng,sáng
tạo của lứa tuổi này ( 12- 15 tuổi ) hoàn toàn khác.

6



Đa số các em ở độ tuổi từ 12- 15, THCS đều đam mê môn Mỹ Thuật, ở độ
tuổi này vẽ đã trở thành hình thức sáng tạo, nhưng sự đam mê này sẽ dần mất
khi tuổi càng lớn sự thông hiểu càng phức tạp, hững hờ vì khi lớn cách nhìn
nhận vấn đề thế giới xung quanh có nhiều hơn chi tiết và đầy đủ hơn, bố cục,
màu sắc vô cùng phong phú;
VD: Vẽ về đề tài phong cảnh hay đề tài sinh hoạt lao động các em đều thấy khó
thể hiện hoặc có thể là không thể hiện được những gì mà mắt mình trông thấy.
Song song với giai đoạn này là sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất, giới tính cũng
được phân định rõ ràng, lúc này sự xuất hiện của tình cảm khác giới nên sự đam
mê sáng tạo, niềm vui khi được hoạt động vẽ sẽ xa dần mà giờ chỉ còn là trách
nhiệm, nhiệm vụ phải hoàn thành trước yêu cầu của GV.
Minh chứng cho sự thông hiểu và vận dụng của ngôn ngữ và đặc điểm tạo
hình của HS THCS có thể chia làm 4 độ tuổi:
Thông hiểu, vận dụng ngôn ngữ tạo hình của HS lớp 6 ( 12 tuổi )
HS lớp 6 độ tuổi 12 là giai đoạn đặc điểm của các em vẽ ít khi nhìn mẫu mà chỉ
vẽ theo trí nhớ sự tưởng tượng, vẽ theo sự cảm nhận thế giới xung quanh, tranh
của các em mang nhiều về tính tượng trưng còn yếu tố tự nhiên ít, mang tính
kể ,liệt kê lại những gì mà mắt mình trông thấy vào trong tác phẩm của mình.
Độ đậm nhạt chưa thể hiện được , đường nét, bố cục chưa chặt chẽ, rời rạc, hình
dáng xiêu vẹo, nhà cửa vẽ theo khối vuông, chữ nhật, hình thang, người ở xa to
hơn người ở gần, chưa hiểu sâu về luật xa gần nên chưa có chiều sâu, không
gian dàn trải trên mặt phẳng.


7


Cách vẽ người của các em đơn giản như tay, chân, thân khối hình chữ nhật,

đầu khối tròn, tuy đơn giản ở các phần, bộ phận nhưng mắt mũi miệng chân tay
phải đầy đủ. Khi vẽ con vật hoặc xe cộ thì lại vẽ ở góc độ ngang, ví dụ như vẽ
con chó, mèo, gà... vì cách nhìn đó mới thể hiện đầy đủ các bộ phận của con vật
( chân, thân, đầu, đuôi, mắt...) thiên nhiên là yếu tố các em đưa tranh chỉ là
trưng, như bầu trời thì rất ít, cây cối to chỉ có thân và tán lá to khong có cành,
các em vẽ ở nhiều góc nhìn, nhiều mặt cắt khác nhau, đang vẽ người ở bên trái
lại chuyển sang phải (Đi bên trái hoặc phía sau các em lại xoay tờ giấy và khi
nhìn tổng thể thì dáng lộn ngược...). Các đồ vật trong nhà như tủ, giường, ghế
phải đầy đủ 4 chân, khi vẽ tranh các em rất thích kể lể, liệt kê mội sự vật hiện
tượng vì sợ rằng người xen hay GV khi xem, chấm bài không hiểu được ý tưởng
sáng tạo của mình mà nhận xét, đánh giá kết quả thấp hoặc chưa đạt.
Với những ưu điểm và nhược điểm của lứa tuổi 12 này là người GV cần nắm
rõ, bám sát để dạy và đưa ra phương pháp, yêu cầu phù hợp, đúng với khả năng
của HS, GV không nên áp đặt, nguyên tắc cứng nhắc là phải vẽ giống cảnh thật
như các em thấy ở ngoài đời, hay vẽ giống GV.
• Thông hiểu, vận dụng ngôn ngữ tạo hình của HS lớp 7 ( 13 tuổi )
Với độ tuổi 13 ở lớp 7 đã nắm bắt được kiến thức vững hơn: Về cách sắp
xếp bố cục, cũng chặt chẽ hơn, miêu tả thế giới xung quanh cũng chi tiết, và số
lượng nhiều hơn, cụ thể hơn, luật xa gần, không gian trong tranh cũng bắt đầu
thể hiện, màu sắc hình dáng, đường nét tốt hơn.

Nói chung ở độ tuổi 12- 13 qua nghiên cứu trải nghiệm và giảng dạy cho
thấy sự thông hiểu, vận dụng khác nhau nhau không đáng kể. Từ cách vẽ , cách
thể hiện bố cục , đường nét, hình khối , màu sắc và đồ vật gần giống nhau, tuy
là ở độ tuổi 13 có sự lựa chọn về màu sắc và bố cục sắp xếp rõ ràng cụ thể hơn.


Thông hiểu, vận dụng ngôn ngữ tạo hình của HS lớp 8 (14 tuổi )

8



Ở độ tuổi 14, các em có vận dụng và thông hiểu nhiều hơn, sự chuyển biến
mô tả nhiều hơn, chi tiết, hình vẽ cũng chính xác về tỉ lệ, quan sát thế giới xung
quanh ở nhiều phương diện. Hình ảnh trong tranh sinh động, thể hiện đường
nét trau chuốt, vẽ đúng góc độ, quan tâm đến thực tế, diễn tả độ đậm nhạt màu
sắc có sự phong phú, có chiều sâu, biết sắp xếp bố cục có mảng chính, phụ rõ
ràng hợp lý, biết phối cảnh xa gần diễn tả được không gian 3 chiều.

Ở bức tranh trên nếu chúng ta quan sát kĩ sẽ nhận thấy kiến thức mà các em
lĩnh hội được để áp dụng vào bài vẽ đó là cách sắp xếp bố cục, hình khối,
đường nét, màu sắc. Nhưng về phần diễn tả không gian đó là chiều sâu vẫn
chưa biểu đạt tinh tế và đang còn chung chung. Vì trong nghệ thuật nói chung
đặc biệt môn Mỹ Thuật phân môn vẽ tranh ngay cả những người được đào tạo
có kiến thức đầy đủ đôi khi cũng còn gặp khó khăn trong việc diễn tả chiều sâu,
hay còn gọi là không gian thứ 3.


Thông hiểu, vận dụng ngôn ngữ tạo hình của HS lớp 9 ( 15 tuổi )

Đối với ngôn ngữ tạo hình của HS lớp 9 qua nhiều năm rèn luyện, học tập
nên đã thành thạo các bước , cách vẽ cũng như kĩ năng vẽ cũng được vận dụng
ở mức độ nâng cao, cách xử lí đường nét tinh tế, diễn tả nhân vật trong tranh cụ
thể hơn ( Trẻ em, người trưởng thành, người cao tuổi cũng đã được phân biệt ).
Sắp xếp bố cục hợp lý, thuận mắt, chặt chẽ và biết đưa được trọng tâm nội
dung đề tài vào mảng chính, màu sắc rõ ràng có sự lựa chọn tính toán làm nổi
bật lên được nội dung đề tài, ví dụ: Đề tài lễ hội.

9



Hình khối cũng được thể hiện qua đường nét cụ thể , rõ ràng và có sự sáng
tạo hơn,ví dụ: Như khuôn mặt là khối tròn những đường nét cong của các bộ
phận ( Mắt, mũi, miệng, cằm, tai...) cũng được các em khẵng định.
Không gian trong tranh các em diễn tả qua hình ảnh ( Người, nhà cửa ) và
cảnh thiên nhiên cũng được diễn tả kĩ và sâu , đó chính là sự khéo léo tinh tế
trong cách sắp xếp bố cục, cách xử lí màu sắc và thêm kiến thức luật xa gần mà
GV đã truyền đạt.
Xét một cách toàn diện ở 2 độ tuổi 14-15 này sự khác biệt về mức độ thông
hiểu, vận dụng không đáng kể trừ những em có năng khiếu về bộ môn Mỹ
thuât. Vì những em có này có nhiệt huyết lòng đam mê ham học hỏi, sáng tạo
nên các em lại càng được rèn giũa nhiều hơn, hơn nữa các em cũng được GV
quan tâm bồi dưỡng thường xuyên vì đó là nguồn là mũi nhọn để GV lựa chọn
khi có các kì thi HSG các cấp tổ chức.
2.3 Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề :
Với môn học nào cũng vậy để thành công được thì sự chuẩn bị của GV đặc
biệt là chuẩn bị ĐDDH trước khi lên lớp là rất quan trọng, nhất là với môn Mĩ
Thuật cần sự chuẩn bị nhiều hơn như: ( Mẫu vẽ, tranh ảnh, giấy ruki, màu vẽ,
tẩy, chì, thước…)
* Đối với giáo viên:
- Xác định rõ mục tiêu học tập, hướng HS tới mục tiêu học tập của môn học
( Kiến thức, kỹ năng, thái độ ).
- Chuẩn bị đầy đủ ĐDDH phù hợp với nội dung ,mục tiêu , kiến thức bài học
10


( Tranh, ảnh, máy chiếu, mẫu vẽ, giấy ,chì, tẩy…).
- Khai thác khả năng đối với những nhóm HS có trình độ kiến thức tư duy khác
nhau để HS đó được thể hiện trí tuệ vừa sức của mình.
- GV thâu tóm được mức độ nhận thức của HS qua bài học ở các lĩnh vực

( Kiến thức, kỹ năng, thái độ ) để đánh giá cụ thể sau mỗi nội dung bài học.
- Kết hợp linh hoạt các nội dung bài học với phương pháp dạy học để HS học
tập hứng thú có hiệu quả.
- Đề ra hoạt động học tập cụ thể cho từng nội dung, từng bài học.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, tổ chức lồng ghép các trò chơi
.
* Đối với HS:
- Xác định rõ nội dung bài học, chủ động lĩnh hội tiếp thu kiến thức bài học.
- Chuẩn bị chu đáo đầy đủ ĐDHT ( Giấy, chì, tẩy, màu vẽ…).
- Quan sát, so sánh sự vật hiện tượng xung quanh, tìm ra ý tưởng riêng cho
mình.
- Thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ GV yêu cầu.
Những điểm rút ra từ quá trình nghiên cứu đề tài:
“Dạy học theo chủ đề thích hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân
môn vẽ tranh” ở từng độ tuổi tôi nhận thấy rõ qua những năm giảng dạy.
Nhưng để có đầy đủ cơ sở thực tiễn tôi đã làm thử nghiệm:
Sau đây tôi xin trình bày 1 giáo án minh họa: “Dạy học theo chủ đề tích
hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh độ tuổi HS
THCS”
Đối tượng thử nghiệm làm bài phân môn vẽ tranh với ba đề tài khác nhau,
tôi chọn học sinh từ lớp 6, 7, 8, 9 mỗi khối lớp chọn 5 em HS, thời gian thực
hành chính thức 25 phút, trong đó:
-> 10 phút triển khai nội dung kiến thức và nêu yêu cầu của vấn đề cần giải
quyết.
-> 25 phút chính thức HS làm bài thực hành.
-> 10 phút nhận xét, đánh giá, thu bài, dặn dò.
11


Giáo án tích hợp như sau:

CHỦ ĐỀ: "HOẠT ĐỘNG NGÀY HÈ"
Các bài học được tích hợp:
Bài 1:
Vẽ tranh: Hoạt động trong những ngày hè.
Bài 2:
Vẽ tranh: An toàn giao thông
Bài 3:
Vẽ tranh: Trò chơi dân gian\

PHẦN A
I. Mục tiêu.
1. Kiến thức:
- HS nắm được nội dung các hoạt động trong ngày hè.
- Nắm được cách vẽ tranh.
2. Kỹ năng:
- Học sinh biết chọn nội dung, vận dụng cách vẽ để vẽ được một bức tranh hoạt
động hè.
3. Thái độ:
- Học sinh nhận thức đúng đắn được những hoạt động bổ ích trong ngày hè.
- Chấp hành nghiêm túc luật ATGT và biết giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
II. Nội dung:
HĐ 1: Tìm chọn và vẽ tranh hoạt động trong những ngày hè.
HĐ 2: Vẽ tranh đề tài an toàn giao thông.
HĐ 3: Vẽ tranh đề tài trò chơi dân gian.
III. Ma trận công cụ đánh giá năng lực.

NỘI
DUNG

CÂU

HỎI
BÀI
TẬP

NHẬN BIẾT
(MÔ TẢ
YÊU CẦU
CẦN ĐẠT)
(1)

HĐ 1:
TÌM
CHỌN
VÀ VẼ
TRANH
HOẠT
ĐỘNG
TRONG

Nhận biết
được các
hoạt động
bổ ích
trong
những ngày
hè.

THÔNG
HIỂU
(MÔ TẢ

YÊU CẦU
CẦN ĐẠT)
(2)

VẬN DỤNG VẬN DỤNG
THẤP
CAO
(MÔ TẢ YÊU (MÔ TẢ YÊU
CẦU CẦN
CẦU CẦN
ĐẠT)
ĐẠT)
(3)
(4)

Chọn được
Sắp xếp
Thể hiện
hoạt động được bố cục
được nội
cụ thể phù hợp lý rõ nội dung sinh
hợp vói nội dung. Có động hấp dẫn
dung.
trọng tâm, phù hợp vơi
hoạt động hè.

NĂNG
LỰC
HÌNH
THÀNH


Năng
lực
khám
phá tư
duy, giải
quyết
vấn đề
12


NHỮNG
NGÀY
HÈ.

Hãy nêu
các hoạt
động
trong
ngày hè?

HĐ 2:
TÌM HIỂU
ĐỀ TÀI
AN TOÀN
GIAO
THÔNG

- Hiểu
được nội

dung vẽ
tranh đề tài
ATGT

Thế nào là
thực hiện
đúng
ATGT?

HĐ 3:
TÌM HIỂU
TRÒ CHƠI
DÂN
GIAN

-Nhận biết
được một
số trò chơi
dân gian.

Thế nào là
trò chơi
dân gian?

Em thích Vẽ một bức Em hãy thể
nhất hoạt tranh hoạt
hiện một
động nào động ngày bức tranh
trong
hè mà em

hoạt động
những
thích?
ngày hè có ý
ngày hè?
nghĩa ở nơi
em sống?
- Lựa chọn - Sắp xếp
- Vẽ được
được hình được bố cục bức tranh có
ảnh phù
họp lý, chặt hình ảnh sinh
hợp về đề
chẽ
động có ý
tài ATGT
tưởng theo
đề tài và
màu sắc hấp
dẫn.
Chọn
Thể hiện
Em hãy vẽ
hình ảnh
một bức
một bức
tiêu biểu tranh đề tài tranh có
thể hiện
ATGT?
sáng tạo về

rõ đề tài
bố cục,
ATGT?
hình mảng,
màu sắc?
- Chọn
- Vẽ được - Có sáng tạo
được
bố cục, hình trong cách
những hình ảnh phù hợp sắp xếp bố
ảnh phù
với đề tài.
cục và tìm
hợp của trò
chọn được
chơi dân
hình ảnh sinh
gian.
động có ý
tưởng hay và
màu sắc đẹp.
Nêu các
Thể hiện
Thể hiện
trò chơi
trò chơi
trò chơi
dân gian
dân gian
dân gian

mà em
mà em
tiêu biểu
biết?
thích?
của quê
hương em?

Năng
lưc giải
quyết
vấn đề
và thực
hành
sáng tạo

Năng
lưc quan
sát
khám
phá,
biểu đạt

13


PHẦN B
I. NỘI DUNG / HOẠT ĐỘNG
Câu hỏi / bài tập
HĐ 1: Tìm chọn và vẽ tranh hoạt động trong những ngày hè.

- Nhận biết được các hoạt động bổ ích trong những ngày hè.
- Hãy nêu các hoạt động trong ngày hè?
HĐ 2: Tìm hiểu đề tài An toàn giao thông.
- Hiểu được nội dung vẽ tranh đề tài ATGT
- Thế nào là thực hiện đúng ATGT?
HĐ 3: Tìm hiểu trò chơi dân gian.
- Nhận biết được một số trò chơi dân gian.
- Thế nào là trò chơi dân gian dân?
Kết quả cho thấy là 25 phút thời gian thực hành hầu hết các em đều chưa hoàn
thành. Các bài hoàn thành được đánh giá đạt 40% - 60%. Lý do ở lứa tuổi 14
– 15 là các em vẽ kĩ nhiều chi tiết và đạt được ở mức độ thông hiểu và vận
dụng mức độ cao.

Hình minh họa cho HS 15 tuổi

14


Hình minh họa cho HS 14 tuổi
Còn ở độ tuổi từ 12-13 thì khi nghe GV triển khai kiến thức bài và nêu yêu
cầu bài xong là không đắn đo, do dự suy nghĩ nhiều, mà đón nhận rất nhiệt
tình, lấy ngay đồ dùng học tập ra vẽ ngay một mạch cho đến khi hết giờ, tuy về
kỹ năng, cách thể hiện chậm, đơn giản nhưng phần nhiều các em cũng đã hoàn
thiện bài của mình và cũng đã đạt được ở mức độ nhận biết và mức độ thông
hiểu.

Hình minh họa cho HS 13 tuổi

15



Hình minh họa cho HS 12 tuổi
Như vậy chúng ta nhận thấy rằng HS THCS ở mỗi độ tuổi đặc điểm về tâm
sinh lý và cái nhìn thế giới xung quanh muôn màu , muôn sắc khác nhau, nên
mỗi tác phẩm của các em vẽ đều có nhưng cách thể hiện sáng tạo riêng. Thể
hiện được sự trong sáng, hồn nhiên, thơ ngây, ngộ nghĩnh đầy cảm xúc.
Hiểu được tâm lí lứa tuổi của HS THCS nói chung và HS trường THCS
Xuân Du nói riêng tôi mạnh dạn áp dụng một số tiết vào soạn và dạy học theo
chủ đề tích hợp thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường :
Sau khi áp dụng một số tiết vào soạn và “dạy học theo chủ đề tích hợp
thông qua ngôn ngữ tạo hình của phân môn vẽ tranh đối tượng HS THCS”
giảng dạy ở trường THCS Xuân Du tôi thấy hiệu quả đạt được như sau:

16


Năm học 2016-2017
Xếp loại – tỉ lệ
STT Lớp

Tổng
số HS

Mức độ
Mức độ
nhận biết thông hiểu

Vận dụng

Mức độ thấp

Mức độ cao

1

6A

5

100%

60%

20%

20%

2

7A

5

100%

60%

20%


20%

3

8A

5

100%

80%

20%

40%

4

9A

5

100%

80-100%

20%

40-60%


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHI :
* Kết luận: Mỹ Thuật là loại hình nghệ thuật tạo ra cái đẹp, vì vậy Mỹ Thuật
nói chung và phân môn vẽ tranh nói riêng là GV giảng dạy cần phải làm cho
HS có sự hưng phấn , gần gũi, mong muốn được vẽ, và phải luôn luôn trau dồi
kiến thức, học tập đồng nghiệp trao đổi kinh nghiệm, luôn thấu hiểu tâm lý lứa
tuổi HS THCS. Do đó, GV cần hoạt động bao quát lớp trong khi HS làm bài
vẽ, vì phân môn này cần sự luyện tập kỹ năng nhiều, nên cần phát hiện kịp thời
để giúp đỡ điều chỉnh, góp ý bổ sung.
Để hoàn thiện và bổ sung vào chuyên môn nghiệp vụ hiện có của mình,
bản thân cũng đã đúc rút được một số kinh nghiệm vào công tác giảng dạy.
Trước hết phải dạy đúng, đủ với chương trình SGK, cung cấp đầy đủ kiến thức
tạo mối quan hệ gần gũi.
Không áp đặt, rập khuôn, cứng nhắc mà phải luôn gợi mở tạo tâm lý thoải
mái để HS có hứng thú và tích cực chủ động sáng tạo.
GV dạy môn Mỹ Thuật cần nắm vững các phương pháp dạy - học.
Chuẩn bị đồ dùng dạy học thông qua bài học, nghiên cứu mục tiêu kiểu bài
cho phù hợp với thực tế tình hình địa phương mình công tác.
Phát hiện bồi dưỡng những HS có năng khiếu Mỹ Thuật để trí tưởng
tượng, tư duy sáng tạo của các em bay xa hơn trong lĩnh vực nghệ thuật.

17


Không nên cung cấp kiến thức lý thuyết mới quá dài ( Nên mỗi tiết khoảng
từ 8 đến 10 phút ) vì kiến thức của phân môn vẽ tranh các em được học từ lớp 6
đến lớp 9, cách vẽ giống nhau.
Minh chứng cho điều đó tôi luôn trăn trở, suy nghĩ ngay từ khi áp dụng đề
tài này vào giảng dạy là mình phải luôn cố gắng hoàn thiện bản thân, rèn luyện,
trau dồi tất cả các mặt để xứng đáng là một người giáo viên dạy giỏi, xứng
đáng là người GV nhân dân, con người của thời đại mới.


* Kiến nghị :
Ở lứa tuổi HS THCS nên khi tránh đánh giá áp dặt, không so sánh với lứa
tuổi cao hơn hoặc với hoạ sĩ và GV.
Hoà nhập cùng các em, vậy ta mới cảm thụ được tâm tư tình cảm vốn luôn
luôn tiềm ẩn trong mỗi con người và tác phẩm của các em. Vì vậy, khi đánh giá
phải xác định rõ đối tượng HS ở lứa tuổi nào.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi đúc rút được trong quá trình giảng
dạy ở trường THCS Xuân Du .Tuy nhiên đề tài này nó còn khá mới mẻ nên
trong thời gian tìm hiểu tôi cũng đã dành khá nhiều thời gian sưu tầm tài liệu,
thu thập ý kiến , kinh nghiệm đồng môn, nhưng bài viết chắc hẳn còn hạn chế.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh chỉ đạo, cùng quý
thầy cô, giới chuyên môn để SKKN của tôi được hoàn thành tốt hơn nữa, góp
phần nâng cao chất lượng dạy học môn Mỹ Thuật ở trường THCS.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Như Thanh, ngày 17 tháng 03 năm 2016
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm này là
của tôi, không copy, sao chép của người khác.
Người thực hiện:

Nguyễn Văn Thắng

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Chuẩn kiến thức kỹ năng môn Mĩ thuật
- Tài liệu tập huấn chuyên đề đánh giá năng lực học sinh ( năm 2014- 2015), và

một số tài liệu của đồng nghiệp.
- Sách giáo khoa mỹ thuật 6;7;8;9.

19



×