Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN giờ học mở trong dạy và học bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh trong chương trình ngữ văn 8 cho học sinh trường THCS nga phú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.67 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
Phần
1

Nội dung

Trang

Mở đầu

1

1.1

Lí do chọn đề tài

1

1.2

Mục đích nghiên cứu

2

1.3

Đối tượng nghiên cứu

2

1.4



Phương pháp nghiên cứu

2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm

3

2.1

Cơ sở lí luận

3

2.2

Thực trạng

4

2.3

Các giải pháp thực hiện

5

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm


14

Kết luận, kiến nghị

15

2

3

1


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Thực hiện mục tiêu: “Tiếp tục đổi mới toàn diện về Giáo dục và Đào tạo,
nâng cao hiệu quả về chất lượng Giáo dục và Đào tạo gắn chặt với mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội ở địa phương”, yêu cầu đặt ra hiện nay là dạy học chương trình
địa phương phải gắn liền với mục tiêu trên. Nhiệm vụ của các thầy, cô giáo dạy văn
là phải giúp được các em học sinh biết yêu quê hương mình, biết tự hào về truyền
thống kiên cường, bất khuất cần cù thông minh, hiếu học, sáng tạo của quê hương,
từ đó có ý thức tìm hiểu, giữ gìn, bảo vệ các giá trị văn hóa của quê hương, sống có
trách nhiệm với quê hương.
Làm sao để đưa giờ Ngữ văn từ chỗ tuân thủ những quy trình cứng nhắc, răm
rắp theo công thức định sẵn trở thành môi trường mở để thầy và trò có thể tự do
trao đổi, sáng tạo. Những giờ học khác với truyền thống như thế, tôi gọi là “giờ
học mở”.
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng năng

lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn. Ở ta, dường như đã thành quy
định, người thầy lên lớp là phải thực hiện đầy đủ tất cả các bước từ kiểm tra sĩ số,
kiểm tra bài cũ, lời dẫn vào bài, giảng bài cho đến củng cố bài và hướng dẫn bài
mới. Thiếu một bước coi như tiết học không thành công, không thực hiện một khâu
coi như bài giảng chưa hoàn thành
Quy trình dạy học này đảm bảo sự kĩ lưỡng, chỉn chu cho tiết dạy nhưng vô
hình chung nó làm giảm khả năng sáng tạo, hạn chế sự thăng hoa của người thầy.
Có những thầy khi dạy đến chỗ tâm đắc muốn nói thêm nhưng lại sợ không kịp giờ,
không đảm bảo quy trình nên không dám nói. Lại có những kiến thức học sinh biết
cả rồi, lại được ghi rất rõ trong sách giáo khoa, nói lại đâm ra thừa. Vậy mà vẫn
không dám bỏ qua để nói cái khác. Đa số thầy cô giáo của chúng ta lên lớp thường
mong tiết dạy chu đáo, suôn sẻ từ đầu đến cuối theo công thức nhất định. Thành ra
tiết nào cũng như tiết nào, thường là đều đều trôi qua theo một kịch bản định sẵn. Ít
khi thấy sự bứt phá, vượt rào, phá cách trong giờ dạy.
Do đó cần tạo ra những khả năng mở, những cơ chế thông thoáng để thầy và
trò tự do sáng tạo. Người thầy phải tùy cơ ứng biến trước những đối tượng học sinh
khác nhau. phải linh hoạt , sáng tạo bỏ qua những gì là hình thức không cần thiết

2


mới có thể tạo ra sức hấp dẫn, sự lôi cuốn trong giờ dạy. Những giờ dạy không câu
nệ tiểu tiết như thế được xem là “giờ học mở”.
Một “giờ học mở” là một giờ học mà người dạy và người học có thể vận dụng
kiến thức liên môn để giải quyết một vấn đề đặt ra theo nhiều hướng mở khác nhau
xét theo góc độ của từng môn học, chứ không bó buộc phạm vi kiến thức đơn thuần
của môn học. Điều này nhằm đáp ứng được nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay.
Trên cơ sở khảo sát nội dung chương trình và thực trạng dạy học, nhằm khắc
phục những khó khăn, lúng túng mà giáo viên và học sinh đang phải đối mặt trong

việc đổi mới phương pháp dạy - học, tôi mạnh dạn đưa ra vấn đề: “giờ học mở”
trong dạy và học bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh trong chương trình
Ngữ văn 8 cho học sinh trường THCS Nga Phú”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đưa ra một hướng tiếp cận mới trong dạy học Ngữ văn theo định
hướng phát triển năng lực của học sinh. Qua đó, tìm ra một hướng đi mở cho giờ
dạy - học Ngữ văn trong nhà trường, làm sao để đưa giờ Ngữ văn từ chỗ tuân thủ
những quy trình cứng nhắc, răm rắp theo công thức định sẵn, trở thành môi trường
mở để thầy và trò có thể tự do trao đổi, sáng tạo. Đồng thời giúp học sinh biết vận
dụng được những kiến thức đã học của các môn học để thuyết minh về một danh
lam thắng cảnh, một di tích lịch sử cụ thể của địa phương.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu, tổng kết việc chuẩn bị và thiết kế một giờ học theo hướng mở của
bài thuyết minh về danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử của địa phương trong
chương trình Ngữ văn 8 cho học sinh trường THCS Nga Phú.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết: nghiên cứu các tài liệu có
liên quan tới việc đổi mới phương pháp dạy học làm cơ sở lí luận để thực hiện đề
tài.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: tiến hành điều tra
khảo sát cho đối tượng là học sinh lớp 8A, 8B để lấy số liệu đối chứng trước và sau
khi thực hiện đề tài.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: thống kê số liệu làm căn cứ để thực hiện
đề tài.

3


2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận

Đổi mới chương trình giáo dục và cùng với nó là đổi mới phương pháp dạy học
và đổi mới đánh giá là những phương diện thể hiện sự quyết tâm cách tân, đem lại
những thay đổi về chất lượng và hiệu quả giáo dục. Và ở khía cạnh hoạt động, tất
cả những thay đổi này đều được biểu hiện sinh động trong mỗi giờ học qua hoạt
động của người dạy và người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống
như: bám sát mục tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh; giờ học đổi mới phương pháp dạy học còn
có những yêu cầu mới như: được thực hiện thông qua việc giáo viên tổ chức các
hoạt động học tập cho học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp
tư duy, khả năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo
nguyên tắc tương tác nhiều chiều: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với
nhau.
Tại hội thảo Dạy học ngữ văn trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục phổ thông - ThS Huỳnh Văn Thế cho rằng có thể thực hiện giờ học mở trong
dạy học Ngữ văn qua việc tạo không gian lớp học, buổi sinh hoạt chuyên đề, ngoại
khóa... gần với không gian văn hóa vùng miền.
Theo quan điểm trên, một “giờ học mở” không thể là giờ học mà quan hệ thầy
- trò chỉ là quan hệ một chiều theo kiểu người thầy độc quyền thuyết giảng kiến
thức, còn học sinh thì lắng nghe và tiếp thu một cách thụ động. Trái lại, một giờ học
mở phải là giờ học lấy học sinh làm trung tâm. Học sinh có quyền trao đổi, thậm
chí có thể có ý kiến phản biện lại những điều thầy giáo trình bày. Theo đó mỗi gời
học mở là một diễn đàn học thuật để thầy và trò cùng nhau thảo luận, bàn bạc, tranh
luận một cách cởi mở, thẳng thắn cho đến khi tìm ra chân lí. Chính vì thế, cái quan
trọng không phải là thầy dạy cái gì, mà là thầy có cung cấp kiến thức và giúp cho
học sinh phương pháp tự học hay không. Đây là điều chúng ta cần hướng đến để có
thể đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong thời đại năng động như hiện nay. Nói như
Thomas L.Fridman trong quyển Thế giới phẳng: Kĩ năng đầu tiên và quan trọng
nhất mà bạn cần có trong một thế giới phẳng là khả năng học phương pháp học.
Trên cơ sở của các tài liệu có liên quan tới vấn đề nghiên cứu, các nhận xét,
đánh giá và ý kiến của các nhà giáo dục... đã gọi là giờ học mở thì lẽ dĩ nhiên

không thể đưa ra một mô hình, một hướng đi cụ thể nào để áp dụng chung cho tất
cả mọi người. Trái lại mỗi thầy cô giáo tùy theo điều kiện và khả năng thực tế mà
4


linh hoạt tổ chức sao cho giờ dạy của mình trở nên sinh động, tích cực và tạo được
sự hào hứng cho học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Trước khi thực hiện đề tài tôi đã tiến hành phương pháp điều tra, khảo sát thực tế đối với học
sinh lớp 8A qua tiết dạy thuyết minh về danh lam thắng cảnh với việc tuân thủ theo cách dạy
truyền thống thì kết quả là:

Số học sinh Số học sinh hứng thú với cách Số học sinh không hứng thú
tham gia
dạy - học
với cách dạy - học
khảo sát
41

SL

%

SL

%

8
19,5
33

80,5
Từ kết quả trên tôi nhận thấy cách dạy này chưa thực sự tạo được sự cuốn hút,
nếu không muốn nói là đa phần là nhàm chán và đơn điệu đối với học sinh. Đó
cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho đa số các học sinh của nhà trường
không hứng thú đối với những giờ học văn.
Tôi nghĩ, thầy cô giáo cũng như nghệ sĩ. Đặc biệt là thầy cô giáo dạy văn càng
phải như những nghệ sĩ, bởi ngoài việc dạy tri thức, họ còn mang thiên chức bồi
dưỡng tâm hồn, tình cảm, cảm xúc và những rung động thẩm mĩ cho học sinh. Tài
năng của họ không thể thăng hoa nếu cứ phải chịu sự bó buộc trong những khuôn
khổ, những quy định quá chặt chẽ, giáo điều. Thầy cô nào chỉ chăm chăm vào
những điều được ghi trong sách giáo khoa và sách giáo viên, học thuộc lòng để rồi
lên lớp diễn lại theo một quy trình định sẵn, không sai một bước, không trừ một
khâu thì bất quá cũng chỉ là thợ dạy chứ không thể là thầy cô giáo- nghệ sĩ thực thụ
được. Do dó cần tạo ra những khả năng mở, những cơ chế thông thoáng để thầy và
trò tự do sáng tạo.
Đối với học sinh trường THCS Nga Phú các em đã có những hoạt động trải
nghiệm khi tham gia lễ hội Mai An Tiêm- danh thắng, di tích lịch sử của địa
phương, nếu giáo viên giảng dạy tiết học thuyết minh về danh lam thắng cảnh, di
tích lịch sử chỉ dừng lại đơn thuần, rập khuôn một cách máy móc, tổ chức lớp học
đơn điệu thì hiệu quả giờ dạy sẽ không cao. Vì vậy cần có một hướng dạy mở trong
tiết học này để các em có thể hiểu sâu hơn về danh thắng của địa phương mình
thông qua hoạt động trải nghiệm để giờ học của cá em đạt hiệu quả cao hơn.
2.3. Các giải pháp tổ chức thực hiện
5


2.3.1. Tổ chức thuyết trình theo nhóm
Giáo viên tổ chức lớp thành những nhóm học tập. Giao cho mỗi nhóm một
hơặc một số vấn đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học), yêu cầu mỗi nhóm tổ
chức bàn bạc, thảo luận ở nhà sau đó thống nhất viết thành bài thuyết trình chung

cho cả nhóm. Trong giờ học trải nghiệm, mỗi nhóm cử một đại diện trình bày bài
thuyết trình trước lớp. Thầy cô giáo tổ chức cho lớp thảo luận, tranh luận xung
quanh vấn đề được trình bày và chốt lại những kiến thức cơ bản nhất. Cụ thể là:
- Nhóm 1: Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu cho một
đoàn khách thăm quan di tích lịch sử Mai An Tiêm.
- Nhóm 2: Em hãy viết một bức thư giới thiệu về di tích lịch sử Mai An Tiêm cho
một người bạn chưa có dịp về thăm di tích lịch sử trên quê hương em.
- Nhóm 3: Em hãy viết một bài giới thiệu gửi tạp chí Xứ Thanh để quảng bá hình
di tích lịch sử Mai An Tiêm tới bạn đọc.
Với những yêu cầu trên các nhóm đã thực hiện khá tốt các nội dung được giao,
hầu hết các em biết cách triển khai một bài giới thiệu dưới nhiều thể loại khác nhau,
nắm vững những yêu cầu cơ bản của bài văn thuyết minh về di tích lịch sử. Đặc
biệt các em biết vận dụng kiến thức của các môn học như: Lịch sử, Địa lí, Giáo dục
công dân... vào bài giới thiệu của mình
- Với kiến thức môn Lịch sử: các em đã vận dụng để giới thiệu về nhân vật lịch sử;
nguồn gốc hình thành; quá trình tu sửa, tôn tạo khu di tích...
- Với kiến thức môn Địa lí: các em đã vận dụng để giới thiệu về vị trí địa lí, đặc
điểm địa hình... của khu di tích.
- Với kiến thức môn Giáo dục công dân: các em đã thấy rõ được ý thức, trách
nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ, giữ gìn khu di tích bằng những hành động cụ
thể.
2.3.2. Tổ chức giờ dạy - học theo mô hình Chương trình phỏng vấn chuyên gia
Giao vấn đề (thuộc kiến thức trọng tâm của bài học), yêu cầu học sinh chuẩn bị
kĩ lưỡng ở nhà. Giờ học trên lớp thầy/cô giáo tổ chức lớp thành một diễn đàn đối
thoại, cử ra một học làm phóng viên, một học sinh khác làm chuyên gia (hoặc
thầy/cô giáo làm chuyên gia) để phỏng vấn chuyên gia về những vấn đề xoay
quanh bài học. Tất cả các học sinh khác tham gia với tư cách là người đối thoại với
chuyên gia. Theo đó, giờ học sẽ trở thành một môi trường để thầy và trò tham gia
thảo luận về bài học.


6


Dưới đây là buổi phỏng vấn giữa phóng viên và chuyên gia được phóng viên
ghi lại như sau:
Phóng viên: Nhiều khi chúng tôi cứ tự hỏi, có nơi nào trên mảnh đất hình chữ
S này lại dễ níu chân người như thế. Có mảnh đất nào mà lại trở thành nơi “đất
lành chim đậu” của nhiều người con ở mọi miền quê như thế. Những đặc sản mỗi
vùng miền theo con người di cư và tụ hội cùng với những gì là vốn có bản địa đã
khiến cho di tích lịch sử văn hóa Mai An Tiêm trên mảnh đất quê hương Nga Phú
có sức hấp dẫn đặc biệt đối với nhiều khách thập phương đến thăm quan cũng như
tham gia các hoạt động lễ hội truyền thống đã được tổ chức ở nơi đây.
Phóng viên: Bạn hãy cho biết vị trí địa lý của khu di tích lịch sử Mai An
Tiêm?
Chuyên gia: Nga Phú là vùng đất ven biển của huyện Nga Sơn. Phía Bắc
giáp với Ninh Bình, cách huyện Nga Sơn 8 km về phía Đông Bắc. Để vào khu di
tích Mai An Tiêm với những người dân địa phương họ có thể đi bằng nhiều con
đường khác nhau (đường tắt qua cánh đồng, qua làng hay thậm chí là qua núi),
nhưng với những du khách phương xa con đường dễ đi nhất là từ trung tâm huyện
Nga Sơn đi dọc Quốc lộ 10 về hướng Đông Bắc khoảng 8 km ta sẽ nhìn thấy một
ngọn núi hùng vĩ như chắn ngang trước mặt và đó chính là ngọn núi Mai An Tiêm.
Đến nơi chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh con đường đổ bê tông, nằm giữa con
đường và dãy núi chính là con sông Voi nước trong xanh với sóng gợn lăn tăn. Men
theo sông và con đường bê tông sẽ dẫn chúng ta đi vào khu di tích lịch sử Mai An
Tiêm huyền thoại.
Phóng viên: Bạn hãy cho biết lịch sử, nguồn gốc ra đời của khu di tích.
Chuyên gia: Theo truyền thuyết, Mai An Tiêm- nhân vật huyền sử của nước
Văn Lang ở vào cuối thời Hùng Vương, là người có công khai phá, xây dựng vùng
đất ven biển Nga Sơn, cũng là người “khai sinh” ra quả dưa hấu đỏ. Ông vốn là
một nô lệ bị tàu buôn phương Nam bắt làm tặng vật dâng lên Vua Hùng. Nhờ trí

thông minh, nhã nhặn, yêu lao động ông được Vua Hùng quý mến tin dùng đặt cho
cái tên Mai An Tiêm và ban cho một người thiếp làm vợ, được bổ làm quan cai
quản các nô lệ. Nhưng sau này ông bị các Lạc hầu Lạc tướng ghen ghét, gièm pha,
xúc xiểm nên nhà vua nghi ông, khép vào tội phản nghịch, đày ra sống ngoài đảo
xa.
Tương truyền, chính lúc ông cùng gia đình bị đày ra sống ở trên hòn đảo xa
ngoài khơi (nay thuộc vùng biển huyện Nga Sơn), nhờ loài chim biển từ phương
7


Tây bay tới đảo ăn trái nhả hạt mà Mai An Tiêm đã tìm ra giống dưa quý. Vào vụ
thu hoạch, Mai An Tiêm lấy que vạch lên vỏ quả dưa rồi đem thả xuống biển, với
hy vọng những con sóng sẽ đẩy chúng vào bờ. Cách “tiếp thị” độc đáo ấy của Mai
An Tiêm đã được đất liền đón nhận, họ xem như đấy là tặng vật của Thượng đế.
Nhờ có thông tin, sau đó ít lâu ông cùng gia đình đã được Vua Hùng minh oan,
đồng thời sai cả đội thuyền ra đảo đón Mai An Tiêm về và phục chức.
Để nhớ ơn Mai An Tiêm, người dân Lạc Việt đã tôn ông là “Bố Cái Dưa
Tây”. Hiện chỗ gia đình ông sống nơi đảo xa người ta vẫn còn gọi là bãi An Tiêm.
Giống dưa quý ruột đỏ ấy gọi là dưa đỏ, sau này gọi là dưa hấu. Hình ảnh Mai An
Tiêm và sự tích quả dưa hấu là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong buổi đầu
dựng nước.
Phóng viên: Bạn hãy cho biết các hoạt động văn hóa, lễ hội diễn hằng năm ở
đây?
Chuyên gia: Bật máy chiếu về các hình ảnh lễ hội để giới thiệu cho phóng
viên
Phần lễ

Lễ rước kiệu theo nghi lễ tín ngưỡng

8



Màn lễ tế thể hiện sự tôn kính, trang trọng
Phần Hội: được bắt đầu bằng màn múa lân và tiếng trống khai hội

Màn múa lân chào mừng lễ hội

9


Ông Phạm Đăng Quyền (PCT UBND tỉnh) đánh trống khai hội

Màn trống khai hội

10


Sau tiếng trống khai hội là màn nghệ thuật sân khấu hóa phong phú, hoành
tráng, , có ý nghĩa sâu sắc, tái hiện lại cảnh Mai An Tiêm bị khép tội phản nghịch
cùng gia đình bị đày ra đảo xa...;

Hoạt cảnh vợ chồng Mai An Tiêm bị đưa ra đảo hoang

Những bước chân đầu tiên vợ chồng An Tiêm đặt chân lên đảo
11


Cảnh Mai An Tiêm gắn với sự tích quả dưa hấu, được vua minh oan, gia đình
đoàn viên...; tri ân Mai An Tiêm - người có công mở mang bờ cõi, thủy tổ nghề
canh nông...


Cảnh trở về của hai vợ chồng
Phần hội có nhiều hình thức hoạt động vui chơi dân gian

Đấu vật, kéo co, chọi gà, thể dc dưỡng sinh…
được tổ chức sôi nổi

12


Màn đấu vật đẹp mắt và các màn kéo co gay cấn đã khơi dậy lòng yêu nước,
tinh thần quật khởi, ý chí kiên cường, bền bỉ, dẻo dai, ý thức tự tôn của dân tộc
Việt; đồng thời giữu gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Phóng viên: Bạn hãy cho biết ý thức, trách nhiệm của bản thân với việc giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc qua lễ hội?
Chuyên gia: Lễ hội Mai An Tiêm - một lễ hội văn hóa, lịch sử giàu truyền
thống, tưởng nhớ công ơn của các bậc tiền bối đã có công gây dựng, gìn giữ và
bảo vệ non sông đất nước. Lễ hội cũng là dịp để các thế hệ con cháu tri ân, đồng
thời, tiếp nối truyền thống lịch sử vẻ vang của cha ông, tiếp tục phát huy truyền
thống yêu nước, tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, khai thác mạnh mẽ tiềm năng, thế
mạnh, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Lễ hội đáp ứng một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của
nhân dân trong tổ chức các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hóa của địa phương, vừa tỏ lòng tri ân công đức các bậc
tiền bối đã có công tạo dựng cơ đồ cho con cháu được kế thừa và tiếp bước những
trang sử hào hùng của quê hương Nga Phú nói riêng và dân tộc Việt Nam nói
chung.
Tự hào nét đẹp văn hóa truyền thống được bảo lưu giá trị, song cũng chạnh
lòng bởi hiện tượng “thương mại hóa” lễ hội đang làm mai một bản sắc riêng vốn
có. Việc tổ chức lễ hội tràn lan, yếu kém trong công tác quản lý dẫn tới chất lượng

tổ chức các lễ hội ngày càng suy giảm. Đồng thời, mặt trái của xã hội hiện đại khi
hội nhập sâu vào quốc tế đã và đang làm “biến dạng” các giá trị truyền thống,
làm nảy sinh những tiêu cực trong lễ hội. Các hoạt động mê tín dị đoan, đốt nhiều
vàng mã gây lãng phí tiền của; thái độ ứng xử của người dân chưa văn hóa; ăn
mặc phản cảm; một bộ phận cán bộ công chức dùng xe công đi lễ hội, vấn nạn ăn
xin... vẫn còn tồn tại gây nhức nhối trong dư luận và khó khăn thách thức trong
công tác quản lý lễ hội của các ngành, địa phương, mỗi dịp tết đến xuân về.
Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng do nhân dân sáng tạo, bảo tồn, phát
huy và trao truyền qua các thế hệ. Nó xuất phát từ mạch nguồn mãnh liệt cuộc
sống cùng tâm hồn ước ao cháy bỏng được “gạn đục, khơi trong” để hun đúc nên
“cốt cách Việt”, “nhân cách Việt”. Giá trị đó được coi như “linh khí” trường tồn
của mỗi cộng đồng làng xã, lớn hơn là quốc gia, dân tộc. Mỗi con cháu Lạc Hồng
hãy biết trân trọng và giữ gìn, cùng nhau xây đắp và phát triển những tinh hoa văn

13


hóa truyền thống, giá trị bản sắc dân tộc mà ông cha đã ngàn đời dày công gây
dựng.
Phóng viên: Xin cảm ơn các chuyên gia về buổi phỏng vấn đầy ý nghĩa
2.3.3. Tổ chức tranh luận
Để tổ chức tốt cho cuộc tranh luận, giáo viên đưa ra những đề mở có thể tạo ra
các hướng lựa chọn khác nhau, ví dụ như: Chợ quê hay siêu thị, Thành phố hay
nông thôn, Nữ sinh nên mặc áo dài truyền thống hay trang phục hiện đại đến
trường… Sau đó tiến hành chia lớp làm hai nhóm, mỗi nhóm theo một hướng lựa
chọn và tranh luận với nhóm kia để bảo vệ quan điểm của mình.
Đối với bài học này, giáo viên có thể xây dựng một số đề mở để học sinh tranh
luận theo nhiều hướng khác nhau như:
- Khi đi lễ hội chúng ta lựa chọn trang phục như thế nào?
- Giả sử có một cuộc họp bàn với hai ý kiến đưa ra trái ngược nhau: một bên đưa ra

ý kiến nên cải tạo, trùng tu lại khu di tích, một bên lại cho rằng không nên cải tạo,
trùng tu lại vì làm như thế sẽ làm mất đi vẻ đẹp cổ kính của khu di tích. Em sẽ ủng
hộ ý kiến nào? Vì sao?
Với đề mở trên học sinh được tự do tranh luận và đưa ra chính kiến của mình,
khiến lớp học sôi nổi, các em không tiếp thu kiến thức một cách thụ động mà trái
lại cảm thấy rất hứng thú với cách học này. Người thầy lúc này phải tùy cơ ứng
biến bởi mỗi chính kiến đưa ra các em đều có lí lẽ thuyết phục và bảo vệ cho chính
kiến của mình. Lúc này người thầy phải linh hoạt, sáng tạo, bỏ qua những gì là hình
thức không cần thiết thì mới có thể tạo ra sự hấp dẫn, lôi cuốn giờ dạy. Giờ dạy
không câu nệ tiểu tiết như thế mới thực sự là một “giờ học mở”.
2.3.4. Tổ chức mở rộng không gian văn hóa trong bài học
Tạo không gian văn hóa trong bài dạy gần với không gian văn hóa của vùng
đất nơi gắn liền với di tích lịch sử. Từ nội dung bài dạy, giáo viên gợi sự liên tưởng
về nhiều nền văn hóa khác. Mở rộng không gian văn hóa trong bài dạy có sự kết
hợp của nhiều phương pháp, như: Phương pháp trực quan; phương pháp dạy học
nêu vấn đề; phương pháp thảo luận nhóm; phương pháp sắm vai,... Đồng thời, được
đặt mình vào không gian nghệ thuật, học sinh có những cảm nhận, những trải
nghiệm để hiểu sâu hơn về bài học.
Với hoạt động này, học sinh cũng có điều kiện liên tưởng, tưởng tượng và
tập thói quen liên tưởng, tưởng tượng cũng như hiểu sâu hơn, rộng hơn một tiết
học. Để làm được điều này, các bước thực hiện như sau:
14


Giai đoạn chuẩn bị: Trước tiết học giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm
chuẩn bị và tìm hiểu vài nét về địa lí, lịch sử của vùng đất có liên quan đến di tích
lịch sử; Giáo viên nêu yêu cầu về dung lượng, thời gian và người trình bày. Học
sinh tìm kiến thức, thiết kế và trình bày theo yêu cầu trong tiết học. Đồng thời
chuẩn bị các tranh ảnh có liên quan đến bài dạy để treo trong lớp học
Tiến hành tiết học: Gợi không gian văn hóa bằng lời giới thiệu bài, giới thiệu

câu chuyện liên quan bài học.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sự thành công của một giờ dạy theo hướng mở phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo của cả người dạy và
người học. Những phần trình bày trên chỉ là những kinh nghiệm được đúc kết từ
thực tiễn chỉ đạo, triển khai đổi mới giờ dạy theo hướng mở trong năm học 2017 2018 được tiến hành thực nghiệm trong tiết dạy trải nghiệm đối với bài Thuyết
minh về danh lam, thắng cảnh trong chương trình Ngữ văn lớp 8. Dù ở điều kiện,
hoàn cảnh nào, sự chuẩn bị tổ chức một tiết học chu đáo theo quy trình trên đều
đem lại giờ học có hiệu quả, bổ ích và hứng thú đối với cả người dạy và người học.
Sau khi tiến hành khảo sát thông qua phiếu điều tra kết quả giờ dạy. Kết quả đạt được
như sau:

Số học sinh Số học sinh hứng thú với cách Số học sinh không hứng thú
tham gia
dạy - học
với cách dạy - học
khảo sát
41

SL

%

SL

%

41
100
0

0
Như vậy đối chứng với kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài, tôi nhận
thấy hiệu quả của sáng kiến trong công tác giảng dạy có thể áp dụng trong công tác
giảng dạy trong những năm học tiếp theo của bản thân và đồng nghiệp. Đặc biệt đã
tạo ra được sự hào hứng trong giờ học Ngữ văn, tránh được sự nhàm chán, đơn
điệu đối với học sinh.
Giờ học mở đã phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của cả
người dạy và người học. Thực tế cho thấy trong giờ học mở đã có sự kết hợp giữa
học tập cá thể (hình thức học các nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo
nhóm, theo lớp); chú trọng kết hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện
các kĩ năng, gắn với thực tiễn cuộc sống; phát huy thế mạnh của phương pháp dạy
15


học tiên tiến, hiện đại, chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh giá
của học sinh.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Sau khi thực hiện đề tài bản thân nhận thấy dạy học theo hướng“giờ học mở”
có tính thực tiễn nên sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo
ra động cơ, hứng thú học tập cho học sinh. “Giờ học mở” cũng có khả năng rèn
luyện tư duy tổng hợp, phân tích trước mọi vấn đề. Từ việc viết một bài giứoi thiệu
về danh lam thắng cảnh của địa phương học sinh có thên nhiều kinh nghiệm thu
thập thông tin, xử lí tình huống, cảm thụ văn chương, liên tửơng và suy ngẫm để
giải quyết những vấn đề từ thực tiễn cuộc sống.
Dạy học theo theo hướng“giờ học mở” có tác dụng bồi dưỡng, nâng cao kiến
thức và kĩ năng sư phạm cho bản thân nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay và
nhất là trong thời gian tới. Dạy học theo theo hướng“giờ học mở” là vấn đề mới
mà hiện nay nhiều tài liệu hướng dẫn giảng dạy chương trình chưa đề cập tới. Vì
vậy giáo viên cần phải bồi dưỡng để giờ thật có ý nghĩa.

3.2. Kiến nghị
Nhà trường cần tăng cường đưa giờ dạy học theo theo hướng“giờ học mở”
vào các dịp thao giảng. Đưa hoạt động này thành hoạt động sinh hoạt chuyên môn
đối với các tổ bộ môn và giáo viên hằng năm. Tăng cường thêm tài liệu, phương
tiện dạy học có liên quan đến việc dạy học theo theo hướng“giờ học mở” . Tạo
điều kiện thuận lợi để giáo viên được giao lưu với các đơn vị trên địa bàn thông
qua các cuộc hội thảo chuyên đề.
Giáo viên cần chủ động trong việc tiếp cận dạy học theo theo hướng“giờ học
mở” . Tích cực cho học sinh tham gia các hoạt động trải nghiệm về các danh tháng
của địa phương để có những bài viết, sự cảm nhận sinh động hơn.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Phạm Anh Đức

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 8 - Nguyễn Khắc Phi, NXB giáo dục 2016
2. Sách giáo viên - Nguyễn Khắc Phi, NXB giáo dục 2016
3. Bồi dưỡng Ngữ văn 8 - Nguyễn Kim Dung, NXB Tổng hợp TP.HCM
4. Những bài văn đạt điểm cao của học sinh giỏi lớp 8 - Tạ Đức Hiền, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội
5. Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn 8 - Cao Bích Xuân, NXB giáo dục
6. Những thắng tích Xứ Thanh - Trần Quốc Chấn, Nhà xuất bản Văn Hóa


17


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Phạm Anh Đức
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó hiệu trưởng trường THCS Nga Phú

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một vài biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của việc chấm,
trả bài tập làm văn
Áp dụng chuẩn kiến thức kĩ
năng để dạy học truyện hiện
đại Việt Nam theo bản đồ tư
duy trong chương trình Ngữ
văn lớp 9
Tích hợp liên môn trong dạy
học chương trình Ngữ văn
địa phương 9 bài “ Dô tả dô
tà” của Mạnh Lê


2.

3.

Cấp đánh

Kết quả

giá xếp

đánh giá

Năm học đánh giá

loại

xếp loại

xếp loại

Huyện

B

2008 - 2009

Huyện
Tỉnh

A

C

2010 - 2011

Huyện
Tỉnh

A
C

2014 - 2015

18


PHỤ LỤC
Tiết 83: THUYẾT MINH MỘT DANH LAM THẮNG CẢNH
1. Mục tiêu dạy học:
1.1. Kiến thức:
- Học sinh vận dụng được những kiến thức đã học về phương pháp thuyết
minh về một danh lam thắng cảnh để vận dụng thuyết minh một di tích lịch sử cụ
thể.
- Giúp học sinh biết vận dụng những kiến thức liên môn như: Lịch sử ( Lịch
sử hình thành phát triển của ngôi chùa) , Địa lí (vị trí địa lí của vùng đất), Ngữ văn
(sử dụng từ ngữ, phương thức biểu đạt… ), Giáo dục công dân (niềm tự hào và lòng
yêu quê hương đất nước, ý thức, trách nhiệm giữu gìn bản sắc văn hóa dân tộc
thông qua lễ hội Mai An Tiêm ) để giải quyết vấn đề thực tiễn.
1.2. Kỹ năng:
- Rèn kĩ năng nhận biết và xây dựng bố cục văn bản thuyết minh
- Rèn kĩ năng tìm hiểu kiến thức lịch sử, địa lí

- Rèn kĩ năng trình bày trước công chúng.
1.3. Thái độ:
- Giáo dục ý thức trau dồi vốn kiến thức tìm hiểu về những di tích lịch sử và
danh lam thắng cảnh của đất nước, để thêm tự hào và yêu mến quê hương đất nước.
- Giáo dục các em niềm tự hào và ý thức, trách nhiệm giữu gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
2. Thiết bị dạy học, tư liệu
- Các thiết bị, đồ dùng dạy học, tư liệu sử dụng trong dạy học: Sách giáo khoa,
tranh ảnh minh họa, tài liệu sưu tầm của HS.
- Các ứng dụng CNTT trong việc dạy và học của bài học: dùng máy quay
phim hoặc máy ảnh để chụp, chiếu các hình ảnh để lưu giữ.
- Sử dụng giấy, bút ghi chép lại các tư liệu, kiến thức cần thiết.
- Đặc điểm địa lý, địa hình của khu di tích lịch sử Mai An Tiêm
- Lịch sử hình thành và phát triển của khu di tích lịch sử Mai An Tiêm.
- Tư liệu sử dụng: sách địa phương.
3. Tiến trình dạy học
Trước khi thực hiện buổi học này giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị ở nhà
đầy đủ các tư liệu cần thiết, phải nắm chắc bố cục của một bài văn thuyết minh về
di tích lịc sử, các dụng cụ cần thiết để phục vụ cho hoạt động của tiết học tốt hơn.
Hoạt động 1: Tổ chức giờ dạy - học theo mô hình Chương trình phỏng vấn
chuyên gia theo các nội dung sau.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh thực hiện mở đầu của một bài văn thuyết minh
bằng lời giới thiệu về di tích lịch sử Mai An Tiêm và lễ hội truyền thống của quê
hương:
19


Nhiều khi chúng tôi cứ tự hỏi, có nơi nào trên mảnh đất hình chữ S này lại dễ
níu chân người như thế. Có mảnh đất nào mà lại trở thành nơi “đất lành chim đậu”
của nhiều người con ở mọi miền quê như thế. Những đặc sản mỗi vùng miền theo

con người di cư và tụ hội cùng với những gì là vốn có bản địa đã khiến cho di tích
lịch sử văn hóa Mai An Tiêm trên mảnh đất quê hương Nga Phú có sức hấp dẫn đặc
biệt đối với nhiều khách thập phương đến thăm quan cũng như tham gia các hoạt
động lễ hội truyền thống đã được tổ chức ở nơi đây.
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh cách giới thiệu về vị trí địa lí của di tích
lịch sử Mai An Tiêm thông qua sơ đồ điạ lí Nga Sơn kết hợp với việc quan sát thực
tế để học sinh hình dung được cách giới thiệu cụ thể nhất:

Mai An Tiêm

Vị trí khu di tích Mai An Tiêm trên bản đồ huyện Nga Sơn
Nga Phú là vùng đất ven biển của huyện Nga Sơn. Phía Bắc giáp với Ninh
Bình, cách huyện Nga Sơn 8 km về phía Đông Bắc. Để vào khu di tích Mai An
Tiêm với những người dân địa phương họ có thể đi bằng nhiều con đường khác
nhau (đường tắt qua cánh đồng, qua làng hay thậm chí là qua núi), nhưng với
những du khách phương xa con đường dễ đi nhất là từ trung tâm huyện Nga Sơn đi
dọc Quốc lộ 10 về hướng Đông Bắc khoảng 8 km ta sẽ nhìn thấy một ngọn núi
20


hùng vĩ như chắn ngang trước mặt và đó chính là ngọn núi Mai An Tiêm. Đến nơi
chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh con đường đổ bê tông, nằm giữa con đường và dãy
núi chính là con sông Voi nước trong xanh với sóng gợn lăn tăn. Men theo sông và
con đường bê tông sẽ dẫn chúng ta đi vào khu di tích lịch sử Mai An Tiêm huyền
thoại.
- Lịch sử, nguồn gốc ra đời?
Theo truyền thuyết, Mai An Tiêm- nhân vật huyền sử của nước Văn Lang ở
vào cuối thời Hùng Vương, là người có công khai phá, xây dựng vùng đất ven biển
Nga Sơn, cũng là người “khai sinh” ra quả dưa hấu đỏ. Ông vốn là một nô lệ bị tàu
buôn phương Nam bắt làm tặng vật dâng lên Vua Hùng. Nhờ trí thông minh, nhã

nhặn, yêu lao động ông được Vua Hùng quý mến tin dùng đặt cho cái tên Mai An
Tiêm và ban cho một người thiếp làm vợ, được bổ làm quan cai quản các nô lệ.
Nhưng sau này ông bị các Lạc hầu Lạc tướng ghen ghét, gièm pha, xúc xiểm nên
nhà vua nghi ông, khép vào tội phản nghịch, đày ra sống ngoài đảo xa.
Tương truyền, chính lúc ông cùng gia đình bị đày ra sống ở trên hòn đảo xa
ngoài khơi (nay thuộc vùng biển huyện Nga Sơn), nhờ loài chim biển từ phương
Tây bay tới đảo ăn trái nhả hạt mà Mai An Tiêm đã tìm ra giống dưa quý. Vào vụ
thu hoạch, Mai An Tiêm lấy que vạch lên vỏ quả dưa rồi đem thả xuống biển, với
hy vọng những con sóng sẽ đẩy chúng vào bờ. Cách “tiếp thị” độc đáo ấy của Mai
An Tiêm đã được đất liền đón nhận, họ xem như đấy là tặng vật của Thượng đế.
Nhờ có thông tin, sau đó ít lâu ông cùng gia đình đã được Vua Hùng minh oan,
đồng thời sai cả đội thuyền ra đảo đón Mai An Tiêm về và phục chức.
Để nhớ ơn Mai An Tiêm, người dân Lạc Việt đã tôn ông là “Bố Cái Dưa Tây”.
Hiện chỗ gia đình ông sống nơi đảo xa người ta vẫn còn gọi là bãi An Tiêm. Giống
dưa quý ruột đỏ ấy gọi là dưa đỏ, sau này gọi là dưa hấu. Hình ảnh Mai An Tiêm
và sự tích quả dưa hấu là sức sống mãnh liệt của dân tộc ta trong buổi đầu dựng
nước.
- Địa hình và quang cảnh xung quanh?
Mai An Tiêm là khu di tích thuộc địa hình đồi núi dốc thoai thoải, bao quanh
là núi non hùng vĩ. Khách từ xa về Nga Phú thăm cảnh di tích Mai An Tiêm nhìn
càng đắm ngắm càng say mà xem phong cảnh hữu tình, đẹp như trong huyền thoại.
Những câu hát đầy cảnh vị của người dân huyện Nga Sơn, Thanh Hóa, càng
làm mỗi du khách khi về thăm di tích lịch sử văn hóa Mai An Tiêm một cảm xúc
lưu luyến.
Cổng tứ trụ gồm 4 cột theo cổng tứ trụ truyền thống, trên đỉnh trụ đắp Phượng
lật, bốn mặt lồng đèn đắp hoa văn trang trí hình Long - Ly - Quy - Phượng, đây
cổng chính để dẫn vào khu di tích lịch sử Mai An Tiêm.
Ngày nay, trên vùng đất Nga Phú và một số xã lân cận còn có nhiều địa danh
gắn liền với Mai An Tiêm. Nơi đảo hoang xưa gọi là bãi An Tiêm. Ngọn núi - xưa
21



kia là hoang đảo được nhân dân đặt tên là núi Mai An Tiêm. Hang đá - tương
truyền là nơi ở của gia đình Mai An Tiêm khi mới đặt chân lên nơi này được gọi là
hang núi Mai An Tiêm. Ở ngôi nhà cũ của Mai An Tiêm thì lập đền thờ hai vợ
chồng chàng. Những người kế tiếp công việc của hai vợ chồng An Tiêm trên đảo
mỗi ngày thêm đông đúc. Họ lập thành làng Mai An và dưa hấu Mai An Tiêm là
sản vật nổi tiếng ở Nga Sơn.
Trải qua những biến cố thiên nhiên và thăng trầm của lịch sử, nhiều địa danh
gắn liền với An Tiêm đã thay đổi, ngôi đền thờ Mai An Tiêm bị đổ nát hoàn toàn,
nhiều đồ thờ bị hư hỏng. Đến năm 1990, chính quyền và nhân dân địa phương đã
góp công, góp sức cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước đã xây dựng lại ngôi đền trên
nền móng cũ để có quy mô kiến trúc chữ “Đinh” với 5 gian nhà tiền đường và 3
gian hậu cung. Di tích Mai An Tiêm đã được xếp hạng cấp Tỉnh và là một trong
những di tích trọng điểm nằm trong quần thể di tích thắng cảnh phục vụ phát triển
du lịch của huyện Nga Sơn. Trong thời gian tới, đền thờ Mai An Tiêm sẽ được tu
bổ, tôn tạo khang trang với 5 gian tiền bái và 3 gian hậu cung phỏng theo kiến trúc
đình đền Việt Nam.
- Hoạt động văn hóa, lễ hội ?
Phần Lễ gồm: Rước kiệu, dâng hương, lễ tế
Phần hội: Phần Hội được bắt đầu bằng màn múa lân và tiếng trống khai hội. Sau
tiếng trống khai hội là màn nghệ thuật sân khấu hóa phong phú, hoành tráng, , có ý
nghĩa sâu sắc, tái hiện lại cảnh Mai An Tiêm bị khép tội phản nghịch cùng gia đình
bị đày ra đảo xa...; Phần hội còn có nhiều hình thức hoạt động vui chơi dân gian,
Màn đấu vật đẹp mắt và các màn kéo co gay cấn đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh
thần quật khởi, ý chí kiên cường, bền bỉ, dẻo dai, ý thức tự tôn của dân tộc Việt;
đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc:
-Ý thức, trách nhiệm của bản thân với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
qua lễ hội?
Lễ hội là một loại hình sinh hoạt văn hóa cộng đồng phổ biến và đậm đà bản

sắc dân tộc, là tài sản vô giá trong kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, làm giàu và
phát huy giá trị nền văn hóa dân tộc.
Lễ hội phản ánh những sinh hoạt, những khát vọng cùng tài năng của nhân
dân về nhiều mặt của đời sống; đồng thời, thông qua lễ hội: trí tuệ, đạo lý, tình
cảm, khuynh hướng thẩm mỹ của nhân dân được tỏa sáng.
Nhu cầu tổ chức lễ hội đã lan tỏa ở hầu hết các địa phương trên địa bàn Tỉnh
Thanh Hóa, trong đó có di tích lịch sử Mai An Tiêm là một trọng điểm. Công tác
quản lý và tổ chức lễ hội có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: vừa giữ gìn,
phát triển những nét đẹp văn hóa truyền thống, vừa kết hợp nhuần nhuyễn những

22


yếu tố hiện đại, phát huy được tác dụng tích cực của lễ hội, nêu cao ý nghĩa giáo
dục truyền thống.
Lễ hội Mai An Tiêm - một lễ hội văn hóa, lịch sử giàu truyền thống, tưởng nhớ
công ơn của các bậc tiền bối đã có công gây dựng, gìn giữ và bảo vệ non sông đất
nước. Lễ hội cũng là dịp để các thế hệ con cháu tri ân, đồng thời, tiếp nối truyền
thống lịch sử vẻ vang của cha ông, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh
thần đoàn kết toàn dân tộc, khai thác mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh, góp phần thực
hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lễ hội đáp ứng
một cách hiện thực, hiệu quả đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trong tổ chức
các nghi lễ và hưởng thụ các hoạt động hội, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của địa phương, vừa tỏ lòng tri ân công đức các bậc tiền bối đã có công tạo dựng cơ
đồ cho con cháu được kế thừa và tiếp bước những trang sử hào hùng của quê hương
Nga Phú nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung.
Lễ hội là hình thức sinh hoạt cộng đồng do nhân dân sáng tạo, bảo tồn, phát
huy và trao truyền qua các thế hệ. Nó xuất phát từ mạch nguồn mãnh liệt cuộc sống
cùng tâm hồn ước ao cháy bỏng được “gạn đục, khơi trong” để hun đúc nên “cốt
cách Việt”, “nhân cách Việt”. Giá trị đó được coi như “linh khí” trường tồn của mỗi

cộng đồng làng xã, lớn hơn là quốc gia, dân tộc. Mỗi con cháu Lạc Hồng hãy biết
trân trọng và giữ gìn, cùng nhau xây đắp và phát triển những tinh hoa văn hóa
truyền thống, giá trị bản sắc dân tộc mà ông cha đã ngàn đời dày công gây dựng.
Hoạt động 2: Luyện tập
Giáo viên hướng dẫn các nhóm luyện tập theo đề bài sau:
- Nhóm 1: Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu cho một
đoàn khách thăm quan di tích lịch sử Mai An Tiêm.
- Nhóm 2: Em hãy viết một bức thư giới thiệu về di tích lịch sử Mai An Tiêm cho
một người bạn chưa có dịp về thăm di tích lịch sử trên quê hương em.
- Nhóm 3: Em hãy viết một bài giới thiệu gửi tạp chí Xứ Thanh để quảng bá hình
di tích lịch sử Mai An Tiêm tới bạn đọc.
Yêu cầu: HS cần trình bày được các nội dung sau:
- Vị trí địa lý của di tích lịch sử.
- Nguồn gốc, lịch sử hình thành và phát triển.
- Địa hình và quang cảnh xung quanh.
- Các hoạt động văn hóa, lễ hội.
- Thể hiện ý thức, trách nhiệm của bản thân trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa
dân tộc qua Lễ hội.
Hoạt động 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh củng cố lại nội dung bài học và làm
các bài tập phần luyện tập SGK theo yêu cầu.

23


24


25



×