Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Khủng bố sử dụng công nghệ cao và các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật việt nam trong đấu tranh chống khủng bố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐỨC MINH

Khñng bè sö dông c«ng nghÖ cao vµ c¸c quy
®Þnh cña ph¸p luËt quèc tÕ, ph¸p luËt ViÖt Nam
trong ®Êu tranh chèng khñng bè

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN ĐỨC MINH

Khñng bè sö dông c«ng nghÖ cao vµ c¸c quy
®Þnh cña ph¸p luËt quèc tÕ, ph¸p luËt ViÖt Nam
trong ®Êu tranh chèng khñng bè
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Lan Nguyên


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để cho tôi có thể bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Đức Minh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1:

TỔNG QUAN VỀ KHỦNG BỐ, KHỦNG BỐ CÔNG


8

NGHỆ CAO VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm cơ bản về khủng bố, khủng bố sử dụng

8

công nghệ cao
1.1.1. Khái niệm khủng bố, hoạt động khủng bố và khủng bố sử

8

dụng công nghệ cao
1.1.2. Đặc điểm, nguyên nhân và hậu quả của khủng bố nói chung

16

và khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng
1.2.

Quá trình phát triển của chế định pháp lý quốc tế về chống

25

khủng bố
1.2.1. Giai đoạn trước cuộc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001


25

1.2.2. Giai đoạn từ sau cuộc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001 đến nay

28

Chƣơng 2:

CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, PHÁP

31

LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ

2.1.

Các quy định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố

31

2.1.1. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế trong hoạt động

31

chống khủng bố
2.1.2. Các quy định của pháp luật quốc tế về các biện pháp chống

36


khủng bố
2.1.3. Các quy định về hình thức hợp tác quốc tế về đấu tranh chống

42

khủng bố
2.1.4. Các quy định về nghĩa vụ của các quốc gia trong cuộc đấu
tranh chống khủng bố

43


2.2.

Các quy định của pháp luật Việt Nam về chống khủng bố

46

2.3.

Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về

52

chống khủng bố
Chƣơng 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT

54


NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ, KHỦNG BỐ CÔNG
NGHỆ CAO

3.1.

Thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam về chống khủng

54

bố, khủng bố sử dụng công nghệ cao
3.2.

Một số giải pháp cụ thể

3.3.1. Mở rộng hợp tác quốc tế và tăng cường ký kết, gia nhập các

68
68

Điều ước quốc tế về phòng, chống khủng bố
3.3.2. Rà soát việc thực thi pháp luật về phòng, chống khủng bố

69

3.3.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho lực lượng chuyên trách

70

chống khủng bố nói chung và khủng bố sử dụng công nghệ

cao nói riêng
3.3.4. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học - kỹ thuật và khoa học - công

71

nghệ cao nhằm nâng cao chất lượng công tác chống khủng bố
KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

76

PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

ĐƯQT

: Điều ước quốc tế



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn
Từ sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ, tình hình khủng bố quốc
tế ngày càng diễn biến phức tạp, lan rộng khắp các châu lục, trở thành nguy
cơ toàn cầu, đe dọa nghiêm trọng hòa bình, ổn định và gây hậu quả nặng nề
cho nhiều quốc gia. Hậu quả mà khủng bố gây ra không chỉ đe dọa trực tiếp
đến tính mạng về người, gây ra những thiệt hại về tài sản mà nguy hại lớn hơn
là gây tâm lý lo sợ, hoang mang thường trực cho cả cộng đồng quốc tế. Đáng
chú ý, khu vực Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng đang dần trở
thành "điểm nóng" về hoạt động khủng bố, và là mục tiêu mà các tổ chức, cá
nhân khủng bố quốc tế hướng tới; nhất là khủng bố sử dụng công nghệ cao
hoạt động trên nền tảng mạng internet; khủng bố sử dụng công nghệ cao đang
tiếp tục diễn biến càng khó lường và khó nhận diện do chúng luôn thay đổi về
hình thức, phương pháp tiến hành; đồng thời, triệt để ứng dụng, khai thác
những bước phát triển công nghệ tiên tiến của khoa học, lợi dụng kẽ hở của
của an ninh mạng để hoạt động.
Trong những năm qua, tại Việt Nam đã xuất hiện những nguy cơ mà
các tổ chức, cá nhân khủng bố có thể lợi dụng tiến hành hoạt động khủng bố,
phá hoại, nhất là thông qua các phương tiện công nghệ cao. Chỉ tính riêng
địa bàn Hà Nội từ năm 2005 đến nay, đã xảy ra hàng chục vụ, việc có liên
quan đến khủng bố sử dụng công nghệ cao như: vụ đối tượng gọi điện đến
trực ban Công an quận Ba Đình đe dọa đánh bom trong khu vực Lăng Chủ
tịch Hồ Chí Minh ngày 02/9/2005; ngày 10/10/2006, một đối tượng gọi điện
đến Đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội đe dọa đánh bom khủng bố; năm 2009, tổ
chức "Những con hổ giải phóng Tamil" đã cử một số thành viên cốt cán đến
Hà Nội dưới danh nghĩa thương gia để khảo sát, quay phim, chụp ảnh địa
bàn phục vụ hoạt động...

1



Song trên thực tế, hiện nay tại nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam, hành lang pháp lý để làm cơ sở phòng, chống và xử lý các hoạt
động khủng bố nói chung và khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng vẫn
còn thiếu và chưa có hệ thống; một số trường hợp có hành lang pháp lý nhưng
việc áp dụng lại thiếu thống nhất nên gây rất nhiều khó khăn cho công tác
phòng, chống khủng bố của các lực lượng chuyên trách, đơn vị chức năng của
các nước.
Trước thực trạng trên, học viên thấy vấn đề chống khủng bố nói chung
và chống khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng cần phải nghiên cứu toàn
diện hơn nữa về cả lý luận và thực tiễn; trong đó, luận văn hướng tới phân
tích thực trạng và chỉ ra các khó khăn trong thực tiễn liên quan tới hoạt động
phòng, chống khủng bố sử dụng công nghệ cao; nghiên cứu làm rõ hơn pháp
luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về chống khủng bố quốc tế;
qua đó, đề xuất những giải pháp đồng bộ nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
Từ những lý do trên, học viên mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài: "Khủng
bố sử dụng công nghệ cao và các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật
Việt Nam trong đấu tranh chống khủng bố" làm luận văn Thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài luận văn
Việc nghiên cứu về các hoạt động khủng bố, tổ chức khủng bố và
pháp luật quốc tế về chống khủng bố là đề tài khá phổ biến, thu hút nhiều cá
nhân, tập thể tham gia và đến nay, đã có một số công trình khoa học nghiên
cứu trên những khía cạnh nhất định, như:
- Ở cấp độ đề tài khoa học cấp Bộ và luận án tiến sĩ có đề tài: "Khủng
bố và giải pháp phòng chống khủng bố ở nước ta hiện nay" do PGS.TS Hoàng
Kông Tư làm chủ nhiệm; "Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác hợp tác
quốc tế về phòng chống khủng bố" do TS. Nguyễn Đắc Tuấn làm Chủ nhiệm;
Luận án tiến sĩ Luật học: "Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng chống khủng


2


bố trong tình hình hiện nay của lực lượng Công an" của Tạ Văn Roan, Học
viện Cảnh sát nhân dân;…
- Ở cấp độ luận văn có một số đề tài như: "Pháp luật quốc tế về chống
khủng bố - một số vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Nguyễn Long, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Hợp tác quốc tế về
chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Bùi Mạnh Hùng Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Pháp luật quốc tế với
vấn đề khủng bố quốc tế: Lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Trần Minh Thu, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Pháp luật quốc tế về
chống khủng bố và việc hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc
sĩ Luật học, của Vũ Ngọc Dương, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội...
- Bên cạnh đó, còn một số sách tham khảo, các bài viết, các cuộc Hội
thảo về phòng chống khủng bố và giới thiệu các Công ước quốc tế về chống
khủng bố như: "Tổng quan hợp tác quốc tế về chống khủng bố", Tài liệu Hội
thảo khung pháp lý phòng chống khủng bố, ngày 25/3/2010 của tác giả
Nguyễn Thị Hoàng Anh; "Công ước ASEAN về chống khủng bố và sự ra nhập
của Việt Nam", của tác giả Nguyễn Duy Chiến tại Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 6 năm 2009; "Một số vấn đề về xây dựng Luật phòng, chống khủng
bố", Tài liệu Hội thảo khung pháp lý phòng chống khủng bố, ngày 25/3/2010
của tác giả Nguyễn Ngọc Anh; "Pháp luật về chống khủng bố của một số
nước trên thế giới", của TS. Phạm Văn Lợi - Viện Khoa học pháp lý; các bài
báo, thông tin liên quan đến công tác phòng, chống khủng bố đã được đăng
trên Tạp chí Công an nhân dân của Bộ Công an, Tạp chí Khoa học và Chiến
lược của Viện Chiến lược và Khoa học Công an, Bản tin phòng chống khủng
bố của Ban chỉ đạo phòng chống khủng bố - Bộ Công an, Văn phòng Ban chỉ
đạo phòng, chống khủng bố quốc gia.

Ngoài ra, trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các
học giả, chuyên gia về hoạt động khủng bố như: Alex Schmid (1983), Political -

3


terrorism, Transaction Publishers, U.S 1983; Nations And Regional Organizations
in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishing, Cronin (2004), Attacking
Terrorism: Elements of a Grands Stratery, Washington, EX: Georgettown
University Press, Boaz Ganor (2005), The counter - terrorism puzzle: a guide for
decision makers, New Brunswick - London: Transaction, Moghadam (2006),
The Roots of Terrorism, New York: Infobase Publishes, Nesi, Giuseppe
(2006), International Cooperation in Counter - terrorism: The U.N And
Regional Organizations in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishers.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đi sâu nghiên
cứu những khía cạnh khác nhau của hoạt động khủng bố quốc tế mà chưa có
đề tài nào đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về hoạt động
khủng bố sử dụng công nghệ cao, sự nguy hại, hậu quả khó lường của loại tội
phạm này cũng như cơ sở pháp lý để phục vụ công tác đấu tranh. Vì vậy, đây
là lần đầu tiên đề tài: "Khủng bố sử dụng công nghệ cao và các quy định của
pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam trong đấu tranh chống khủng bố" được
nghiên cứu dưới góc độ là một đề tài khoa học.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài luận văn
* Mục tiêu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận văn là làm rõ thêm một số vấn đề
lí luận cơ bản về khủng bố sử dụng công nghệ cao cũng như thực trạng các
quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về chống khủng bố sử dụng
công nghệ cao; kinh nghiệm thực thi các quy định về pháp luật quốc tế của
một số nước trên thế giới và việc thực thi cam kết quốc tế của Việt Nam trong
hợp tác chống khủng bố sử dụng công nghệ cao; qua đó, góp phần nâng cao

hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các quốc gia
và các tổ chức quốc tế.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục tiêu đó, đề tài có các nhiệm vụ sau:

4


- Phân tích làm rõ khái niệm và xu hướng phát triển của hoạt động
khủng bố sử dụng công nghệ cao, lịch sử hình thành phát triển của chế định
pháp lý quốc tế về chống khủng bố.
- Phân tích, đánh giá thực trạng nội dung của pháp luật quốc tế về
chống khủng bố sử dụng công nghệ cao và kinh nghiệm thực thi các quy định
của pháp luật quốc tế về chống khủng bố sử dụng công nghệ cao của một số
quốc gia trên thế giới.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về chống khủng bố sử dụng
công nghệ cao và vấn đề thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam về vấn đề
này; trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật để nâng cao
hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế tại Việt Nam về chống khủng bố sử
dụng công nghệ cao.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
- Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng khủng bố quốc tế sử dụng
công nghệ cao và các vấn đề pháp lý xung quanh vấn đề chống khủng bố với
nguồn chủ yếu là Điều ước quốc tế (ĐƯQT), các quy định pháp luật của một
số quốc gia trên thế giới và pháp luật Việt Nam về vấn đề đấu tranh chống
khủng bố.
Luận văn tập trung làm rõ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về khủng
bố quốc tế, khủng bố sử dụng công nghệ cao và pháp luật quốc tế về chống
khủng bố; tập trung tìm hiểu thực trạng các quy định pháp luật quốc tế và
pháp luật Việt Nam về chống khủng bố; kinh nghiệm thực thi các quy định

của pháp luật quốc tế của một quốc gia; việc thực thi cam kết quốc tế của Việt
Nam trong hợp tác chống khủng bố.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài luận văn
* Phương pháp luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng, phương pháp luận của khoa học pháp lý nói chung
và khoa học luật quốc tế nói riêng để nghiên cứu đề tài.

5


* Phương pháp nghiên cứu
Bám sát phương pháp luận, đề tài luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Thu thập và phân tích chuyên sâu các
kết quả nghiên cứu khoa học; hồ sơ nghiệp vụ; các báo cáo sơ kết, tổng kết về
phòng, chống khủng bố của các cơ quan chức năng.
Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp trao đổi, thảo luận với các đồng
chí lãnh đạo đơn vị, các giáo viên trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
để tranh thủ ý kiến góp ý trực tiếp vào một số nội dung còn băn khoăn, vướng
mắc như: trong phần dự báo và các giải pháp thực hiện.
Phương pháp thống kê, so sánh: trên cơ sở so sánh, phân tích đánh giá
thực trạng pháp luật quốc tế về chống khủng bố sử dụng công nghệ cao và
kinh nghiệm thực thi các quy định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố
sử dụng công nghệ cao của một số quốc gia trên thế giới nhằm rút ra các bài
học kinh nghiệm, làm cơ sở đưa ra các giải pháp.
Phương pháp nghiên cứu dự báo: Trên cơ sở kết hợp với tư duy hệ
thống và quan điểm phát triển; đề tài phác thảo về xu hướng phát triển của
hoạt động khủng bố sử dụng công nghệ cao tại Việt Nam cũng như thế giới
thời gian tới; trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật để

nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế tại Việt Nam về chống khủng
bố sử dụng công nghệ cao.
6. Những đóng góp mới của đề tài luận văn
Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về khủng bố
sử dụng công nghệ cao và pháp luật quốc tế về chống khủng bố sử dụng công
nghệ cao; thực trạng các quy định pháp luật quốc tế về chống khủng bố sử
dụng công nghệ cao và kinh nghiệm thực thi ở một số nước cũng như thực
trạng pháp luật Việt Nam về chống khủng bố sử dụng công nghệ cao và việc
thực thi, cam kết quốc tế của Việt Nam trong hợp tác đấu tranh chống khủng
bố quốc tế sử dụng công nghệ cao.

6


7. Kết cấu của đề tài của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về khủng bố, khủng bố công nghệ cao và pháp
luật về chống khủng bố.
Chương 2: Các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam về
chống khủng bố.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về chống
khủng bố và khủng bố sử dụng công nghệ cao.

7


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ KHỦNG BỐ, KHỦNG BỐ CÔNG NGHỆ CAO
VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ

1.1. Khái niệm, đặc điểm cơ bản về khủng bố, khủng bố sử dụng
công nghệ cao
1.1.1. Khái niệm khủng bố, hoạt động khủng bố và khủng bố sử
dụng công nghệ cao
1.1.1.1. Khái niệm khủng bố, hoạt động khủng bố
Khủng bố là một vấn đề xã hội có từ rất lâu, xuất hiện từ khi loài
người phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quan niệm về khủng bố được
đề cập từ trước Công nguyên: "Khi một người dùng vũ lực điều khiển cưỡng
ép những người khác, thâm tâm những người bị ép buộc không tuân phục
(anh ta) một cách tự nguyện. Họ chấp nhận vì chưa đủ mạnh để kháng cự lại"
(Menccus 372-298) [Dẫn theo 33, tr. 18].
Việc sử dụng thuật ngữ "khủng bố", "kẻ khủng bố" được ghi nhận lần
đầu tiên vào năm 1795, liên quan đến chính quyền Terreur (chính quyền cách
mạng Pháp giai đoạn cách mạng Pháp diễn ra từ tháng 9/1793 đến tháng
7/1794). Tuy nhiên, thuật ngữ "kẻ khủng bố" theo nghĩa là kẻ chống chính
quyền chỉ được sử dụng từ năm 1878 - 1881 bắt đầu từ nước Nga - Sa hoàng
rồi lan ra châu Âu và Mỹ. Khái niệm này được người ta dùng để chỉ những kẻ
chống chính quyền với triết lý và lý tưởng vô chính phủ, phủ nhận nhà nước,
các đạo luật do nhà nước ban hành và tài sản của công dân.
Như vậy, có thể thấy ban đầu thuật ngữ "khủng bố" được sử dụng để
chỉ hành vi đàn áp của chính quyền, của chế độ thực dân hay xâm lược. Sau
này, người ta còn sử dụng nó để chỉ cả các hành vi của các nhóm đối lập
chống chính quyền.
Sau vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Mỹ, hàng loạt khái niệm gắn với
thuật ngữ "khủng bố" thường xuyên được nhắc đến như: khủng bố quốc tế, chủ

8


nghĩa khủng bố, tổ chức khủng bố, cuộc chiến chống khủng bố, khủng bố sử

dụng công nghệ cao... Hiện nay, có khoảng hơn 100 định nghĩa, khái niệm về
khủng bố; tuy nhiên những khái niệm này còn chung chung, chưa nhận được sự
đồng thuận của các nước thành viên Liên hợp quốc do vẫn có sự bất đồng về
quan điểm chính trị - xã hội. Hiện nay, trên cơ sở lợi ích quốc gia và chính sách
đối ngoại, mỗi nước đưa ra khái niệm khác nhau theo quan điểm của mình.
Theo Bộ Quốc phòng Mỹ định nghĩa khủng bố là: "việc sử dụng hoặc
đe dọa sử dụng bạo lực bất hợp pháp nhằm khắc sâu sự sợ hãi, có ý định
cưỡng chế hoặc để đe dọa chỉnh phủ hoặc xã hội trong việc theo đuổi các mục
tiêu mà nói chung là chỉnh trị, tư tưởng hay tôn giáo" [Dẫn theo 17, tr. 1].
Luật chống khủng bố năm 2000 của Anh đưa ra khái niệm khủng bố:
Là việc sử dụng hay đe dọa sử dụng bạo lực nhằm vào con
người hay gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản hay gây nguy
hiểm đối với tính mạng của người khác ngoài người thực hiện hành
động đó hay gây nguy hại đối với sức khỏe hay an toàn của công
chúng; sử dụng hoặc đe dọa sử dụng nhằm gây ảnh hưởng với một
chính quyền hay để hăm dọa công chúng hoặc một bộ phận công
chúng; và sử dụng hoặc đe dọa sử dụng nhằm mục đích thúc đẩy
mục tiêu tư tưởng hay tôn giáo hay chính trị [Dẫn theo 17, tr. 1].
Tháng 12/2001, Bộ trưởng Tư pháp các nước thuộc Liên minh Châu
Âu đưa ra quan niệm: "Khủng bố là hành vi nhằm gây mất ổn định hoặc phá
hoại nền tảng xã hội, kinh tế, hiến pháp hay chính trị cơ bản của quốc gia".
- Nhóm hoạch định chính sách của Liên hợp quốc về chống khủng bố
đã đưa ra khái niệm: "Khủng bố là thực hiện hoặc có ý đồ thực hiện hành vi
xâm phạm các nguyên tắc pháp luật, trật tự quyền con người và các nguyên tắc
hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế vốn là nền tảng tạo lập nên thế giới".
Ở Việt Nam, khái niệm khủng bố cũng được đề cập ở nhiều tài liệu
khác nhau.

9



Từ điển Bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 đưa ra khái niệm:
Khủng bố là hoạt động bạo lực của cá nhân, tổ chức, nhà
nước hoặc liên minh nhà nước để đe dọa hoặc cưỡng bức đối phương
khiến họ khiếp sợ mà phải khuất phục. Các hình thức khủng bố
thường là bắt cóc, ám sát, đánh bom, tàn sát man rợ. Khủng bố
được giới cầm quyền một số nước đế quốc và các thế lực phản động
coi như một quốc sách hoặc một chiến lược để chống lại các quốc
gia tiến bộ và phong trào đòi độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội. Khủng bố bị nhân dân thế giới lên án và là một tội ác có tính
chất quốc tế. Chống khủng bố đã trở thành mục tiêu chung của các
quốc gia tiến bộ [7, tr. 23].
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam nêu khái niệm:
"Khủng bố là hoạt động bạo lực của cá nhân, tổ chức, nhà nước hoặc liên
minh nhà nước để đe dọa hoặc cưỡng bức đối phương khiến họ vì khiếp sợ
mà phải chịu khuất phục. Các hình thức khủng bố thường là bắt cóc, ám sát,
đánh bom, tàn sát man rợ" [7].
Ở Việt Nam, tội khủng bố là một trong các tội xâm phạm an ninh quốc
gia, được quy định tại Điều 84, Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1999, sửa đổi bổ
sung năm 2009: (1) Người nào nhằm chống chính quyền nhân dân mà xâm
phạm tính mạng của cán bộ, công chức hoặc công dân, thì bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình; (2) Phạm tội trong trường hợp
xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe, thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm; (3)
Phạm tội trong trường hợp đe dọa xâm phạm tính mạng hoặc có những hành
vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm; (4) Khủng bố
người nước ngoài nhằm gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì cũng bị xử phạt theo điều này. Theo đó,
cấu thành tội khủng bố chỉ bao gồm những hành vi xâm hại tự do thân thể,
sức khỏe, tính mạng, uy hiếp tinh thần con người vì động cơ, mục đích chống


10


chính quyền nhân dân hoặc gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, khái niệm này đã có những bất
cập nhất định về mặt pháp lý.
Chỉ thị số 25/2007/CT-TTg ngày 15/11/2007 của Thủ tướng Chính
phủ về công tác phòng chống khủng bố trong tình hình mới đã giải thích rộng
và rõ hơn về khủng bố:
Khủng bố là hoạt động có tổ chức do cơ quan tình báo nước
ngoài chỉ đạo hoặc do tổ chức khủng bố quốc tế, tổ chức "tôn giáo
cực đoan", lực lượng phản động lưu vong người Việt ở nước ngoài,
bọn phản động trong nước hoặc bọn tội phạm hình sự có tổ chức sử
dụng vũ khí, chất nổ, chất độc hại, lợi dụng công nghệ thông tin, tấn
công vào các cơ quan nhà nước, cơ quan nước ngoài tại Việt Nam,
nơi công cộng, ám sát, bắt cóc con tin, khống chế người hoặc
phương tiện giao thông, phá hủy các công trình công cộng, công
trình quan trọng về an ninh quốc gia, xâm phạm hoặc đe dọa xâm
phạm trật tự an toàn xã hội, tính mạng, tài sản, uy hiếp tinh thần cán
bộ, công chức, công dân, lợi ích của nước ngoài ở Việt Nam, nhằm
chống lại chính quyền nhân dân, gây nguy hại cho an ninh quốc gia,
gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam [9, tr. 1].
Ngày 12/6/2013, kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
Phòng, chống khủng bố, có hiệu lực từ ngày 01/10/2013. Tại Điều 3, Chương I,
thuật ngữ khủng bố được giải thích như sau:
Khủng bố là một, một số hoặc tất cả hành vi sau đây của tổ
chức, cá nhân nhằm chống chính quyền nhân dân, ép buộc chính
quyền nhân dân, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, gây khó khăn
cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

hoặc gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng [25].

11


Theo Luật Phòng, chống khủng bố thì khủng bố là tập hợp các hành vi sau:
- Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc đe dọa xâm
phạm tính mạng, uy hiếp tinh thần của người khác;
- Chiếm giữ, làm hư hại, phá hủy hoặc đe dọa phá hủy tài sản; tấn
công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng internet, thiết bị số của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
- Hướng dẫn chế tạo, sản xuất, sử dụng hoặc chế tạo, sản xuất, tàng
trữ, vận chuyển, mua bán vũ khí, vật liệu nổ, chất phóng xạ, chất độc, chất
cháy và các công cụ, phương tiện khác nhằm phục vụ cho việc thực hiện hành
vi khủng bố;
- Tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục, cưỡng bức, thuê mướn hoặc tạo điều
kiện, giúp sức cho việc thực hiện hành vi khủng bố;
- Thành lập, tham gia tổ chức, tuyển mộ, đào tạo, huấn luyện đối
tượng nhằm thực hiện hành vi khủng bố;
- Các hành vi khác được coi là khủng bố theo quy định của ĐƯQT về
phòng chống khủng bố mà Việt Nam là thành viên.
Theo cách giải thích trên thì khủng bố không chỉ gồm những hành vi
có mục đích chống chính quyền nhân dân mà bao gồm tất cả các hành vi
chuẩn bị và tiến hành khủng bố dưới mọi hình thức nhằm xâm phạm an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, xâm phạm tự do thân thể, tính mạng con
người, tài sản của nhà nước và nhân dân, cũng như gây cản trở cho việc thực
hiện chính sách đối nội, đối ngoại của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
Từ các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà
nước Việt Nam về vấn đề khủng bố, có thể khái quát về khủng bố và hoạt
động khủng bố như sau:

- Khủng bố là hành động của cá nhân, tổ chức, Nhà nước hay liên
minh Nhà nước sử dụng, đe dọa sử dụng bạo lực hoặc bằng các hình thức,
thủ đoạn khác để trả thù, uy hiếp, khuất phục, cưỡng bức chính quyền Nhà
nước phải đáp ứng yêu cầu, thỏa mãn yêu sách của bọn chúng.

12


- Các hình thức của hoạt động khủng bố: khủng bố sử dụng vũ khí hủy
diệt hàng loạt như: súng, bom, mìn; khủng bố bằng vũ khí sinh học như: đạn
hơi cay, súng sử dụng chất độc hóa học; khủng bố hạ tầng thông tin mạng
như: phá hủy hệ thống máy tính chủ, phát tán virut máy tính; khủng bố về
trong lĩnh vực vận tải hàng không, đường bộ, đường thủy…
- Hoạt động khủng bố bao gồm tất cả các hành vi chuẩn bị và tiến hành
khủng bố dưới mọi hình thức nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, xâm phạm tự do thân thể, tính mạng con người, tài sản Nhà nước
và của nhân dân cũng như gây cản trở việc thực hiện chính sách đối nội, đối
ngoại của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
1.1.1.2. Khái niệm khủng bố sử dụng công nghệ cao
Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia:
Công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng cao về nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ; được tích hợp từ thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại; nhằm tạo ra sản phẩm có chất
lượng, tính năng vượt trội, trị giá gia tăng cao và thân thiện với môi
trường; đóng một vai trò rất quan trọng đối với việc hình thành
ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa, công nghiệp hóa các
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có [44].
Khủng bố sử dụng công nghệ cao mang đầy đủ các yếu tố của khủng
bố và hoạt động khủng bố. Tuy nhiên, khủng bố sử dụng công nghệ cao
thường gắn liền với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và

triệt để khai thác, ứng dụng các thành tựu của khoa học - kỹ thuật và nền tảng
mạng internet vào các hoạt động tấn công, phá hoại. Hoạt động khủng bố sử
dụng công nghệ cao có thể nhìn nhận là những hoạt động khủng bố trong lĩnh
vực: công nghệ thông tin, tự động hóa, hàng không, vũ trụ, sinh học. Về cơ
bản các hoạt động khủng bố sử dụng công nghệ cao đều hoạt động trên nền
tảng mạng nhằm mục đích khủng bố; hoạt động của các tổ chức, cá nhân

13


khủng bố trên không gian mạng và hoạt động tán phát thông tin nhằm mục
đích khủng bố tinh thần. Hoạt động tấn công khủng bố trên mạng có thể được
thực hiện bởi một đối tượng, một nhóm đối tượng hoặc một tổ chức với mục
đích xâm nhập đánh cắp thông tin nhằm gây sức ép với chính quyền để thỏa
hiệp hoặc đạt một yêu cầu nào đó hoặc tấn công phá hoại cơ sở hạ tầng không
gian mạng và các cơ sở vật chất - kỹ thuật có liên quan.
Đáng chú ý, khủng bố sử dụng công nghệ cao có những thay đổi và
khác biệt khá lớn với khủng bố đơn thuần cả về hình thức, phương tiện, thành
phần khủng bố, tốc độ và chu kì hoạt động của hành động khủng bố. Điển
hình như trước đây, các phần tử khủng bố thường dùng các phương thức như
ám sát, đánh bom tự sát, nhưng đến nay, cùng với sự phát triển của khoa học
công nghệ đã xuất hiện khủng bố sử dụng công nghệ cao như vũ khí sinh học,
hóa học, vũ khí hạt nhân với mức độ tàn sát lớn và để lại hậu quả lâu dài.
Chúng có các chuyên gia máy tính, sinh hóa và các chuyên gia vũ khí gây nổ,
được đào tạo huấn luyện khủng bố chuyên nghiệp, sử dụng thành thạo các
loại vũ khí kể cả loại vũ khí hiện đại nhất.
Bên cạnh đó, các tổ chức khủng bố sử dụng công nghệ còn triệt để
khai thác khoa học tiên tiến và mạng internet... để tạo thành một mạng lưới tổ
chức mang tính toàn cầu, rộng khắp. Mạng lưới này do nhiều tổ chức nhỏ ở
khắp nơi trên thế giới kết hợp thành, chúng không còn tập trung mà phân chia

rải rác, thường phân bố rộng, quân số đồng và hành động rất linh hoạt. Chúng
hoạt động độc lập với nhau đồng thời cũng liên hệ mật thiết với nhau. Hàng
loạt các vụ khủng bố được tiến hành đa phần là do các tổ chức quy mô nhỏ
thực hiện, thậm chí do một số cá nhân không thuộc tổ chức nào thực hiện
nhưng mức độ tinh vi lại tăng lên rất nhanh và mang đậm "dấu ấn cá nhân".
Nhiều vụ khủng bố diễn ra bất ngờ khiến các quốc gia không kịp trở tay.
Khiến cho việc đề phòng và ngăn chặn hoạt động khủng bố sử dụng công
nghệ cao đã và đang gặp nhiều khó khăn.

14


Trên thực tế, ở Việt Nam, mỗi năm có hàng nghìn cổng thông tin điện
tử, trang thông tin điện tử bị tin tặc tấn công, chiếm quyền quản trị, thay đổi
giao diện… trong đó có nhiều trang của các cơ quan chính quyền từ Trung
ương đến địa phương, một số tập đoàn kinh tế quan trọng. Cá biệt, các cơ
quan chức năng của Việt Nam đã phát hiện một số trường hợp đối tượng nhận
chỉ đạo của tổ chức phản động lưu vong để tấn công Cổng thông tin điện tử
của Chính phủ. Trên thế giới, đã diễn ra nhiều hoạt động khủng bố mạng quy
mô lớn, điển hình là hoạt động của các nhóm tin tặc quốc tế như: Anonymous,
Luzlsec,… với nhiều hoạt động tấn công gây thiệt hại lớn nhằm vào các cơ
quan chính phủ Mỹ, EU, Nga, Đức, Pháp,… và các tập đoàn lớn như: Visa,
Paypal, Master, Google,… Không chỉ gây đình trị hệ thống, tiết lộ các thông
tin nhạy cảm, mà số đối tượng khủng bố mạng còn công khai nhiều tài liệu bí
mật của các quốc gia, gây nên các tổn thất khó lường về chính trị, ngoại giao.
Ở dạng thứ hai, không gian mạng và các phương tiện công nghệ cao
đã trở thành môi trường cũng như công cụ cho các tổ chức khủng bố quốc tế
hoạt động tuyên truyền, tuyển lựa, huấn luyện và chỉ đạo các hoạt động của
các mạng lưới. Các tổ chức khủng bố hoạt động nổi lên hiện nay như: Nhà
nước Hồi giáo tự xưng Iraq và Cận đông (IS), Al-Qaeda,… đều có các hoạt

động này, trong đó hoạt động tuyển lựa qua mạng xã hội của IS đã gây ra mối
lo ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc tế. Ở Việt Nam, cũng xuất hiện các hoạt
động móc nối, chỉ đạo qua không gian mạng để thực hiện các hoạt động móc
nối, chỉ đạo qua không gian mạng để thực hiện các nhiệm vụ phá hoại, gần
đây có thể kể đến như hoạt động của đối tượng Pháp luân công ý đồ kéo đổ
tượng đài V.I. Lênin tại Hà Nội, đối tượng Đinh Nguyên Kha nhận chỉ đạo
của tổ chức phản động lưu vong "Việt Nam quốc dân đảng" ý đồ đặt chất nổ
tại tượng đài Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Ở dạng thứ ba, nhiều cá nhân (trong đó có cả những người được các
thế lực thù địch, phản động, các tổ chức khủng bố quốc tế lôi kéo, kích động,

15


chỉ đạo) lợi dụng tự do, dân chủ để sử dụng các trang web, mạng xã hội, blog,
video clip tung thông tin riêng tư, bịa đặt, xuyên tạc lên mạng nhằm khủng bố
tinh thần và tạo dư luận xã hội trên cộng đồng mạng nhằm phục vụ các ý đồ
đen tối, gây phương hại đến ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm về khủng bố sử
dụng công nghệ cao như sau: khủng bố sử dụng công nghệ cao là những đối
tượng khủng bố sử dụng những thành tựu công nghệ cao làm công cụ,
phương tiện để thực hiện hành vi nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, xâm phạm tự do thân thể, tính mạng con người, tài sản Nhà nước
và của nhân dân cũng như gây cản trở việc thực hiện chính sách đối nội, đối
ngoại của một quốc gia độc lập, có chủ quyền.
1.1.2. Đặc điểm, nguyên nhân và hậu quả của khủng bố nói chung
và khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng
1.1.2.1. Về tính chất, đặc điểm của tội phạm khủng bố nói chung và
tội phạm khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng
- Về tính chất của tội phạm khủng bố, bao gồm:

+ Tính chất chính trị: Tội phạm khủng bố xâm hại trực tiếp đến an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội bằng các hình thức vũ trang, bạo lực
cực đoan. Tội phạm khủng bố dễ bị các thế lực phản động quốc tế và thế lực
thù địch khác âm mưu núp dưới chiêu bài chống khủng bố để can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta.
+ Tính chất kinh tế: Tội phạm khủng bố không chỉ nhằm đe dọa tính
mạng con người mà còn nhằm phá hoại cơ sở vật chất của Nhà nước, của
nhân dân, lợi ích của các nước khác trên lãnh thổ Việt Nam, gây thiệt hại
nghiêm trọng về kinh tế.
+ Tính chất xã hội: Với các hành vi như trên, tội phạm khủng bố
không chỉ đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, tài sản của con người mà còn
gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng, xâm hại trực tiếp đến an ninh xã
hội, tác động sâu sắc đến đời sống xã hội, cộng đồng.

16


+ Tính chất quốc tế: Từ thực tiễn đấu tranh phòng chống khủng bố
cho thấy, tổ chức khủng bố thường mang tính chất xuyên quốc gia, mọi nơi
đều có thể trở thành mục tiêu khủng bố, mọi lúc đều có thể xảy ra khủng bố,
không một quốc gia, tổ chức nào có thể đơn phương chống khủng bố thành
công. Do vậy hợp tác quốc tế chống khủng bố càng trở nên quan trọng và trở
thành một vấn đề thiết yếu liên quan đến sự thành bại cho cuộc đấu tranh
chống khủng bố của chúng ta.
- Về đặc điểm của khủng bố:
+ Về hành vi: Trên thực tế, hành vi khủng bố rất đa dạng, bao gồm các
loại hành vi như xâm hại tính mạng, thân thể con người, tài sản hay tổng hợp
các loại hành vi đó. Phần lớn các hành vi khủng bố là các hành vi sử dụng vũ
lực đe dọa sử dụng vũ lực hoặc không mang tính vũ lực như chống phá bằng
công nghệ thông tin (tin tặc); làm ô nhiễm nguồn nước, phát tán mầm bệnh...

Hiện nay, theo quy định của các Công ước quốc tế về chống khủng bố, hành
vi khủng bố bao gồm các hành vi: chống lại an toàn hàng không dân dụng;
chống lại an toàn hành trình hàng hải và những công trình cố định trên thềm
lục địa; tài trợ khủng bố; xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người, tài sản
bằng các thiết bị gây nổ; chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế
bao gồm viên chức ngoại giao; bắt cóc con tin; xâm phạm an toàn sức khỏe,
tính mạng, tài sản con người bằng thiết bị hạt nhân.
+ Về mục đích: Thực tiễn cho thấy, các vụ khủng bố thường gây ra
tâm lý hoang mang, hoảng loạn, gieo rắc sự sợ hãi, nỗi kinh hoàng bao trùm
lên cộng đồng dân cư dần dần làm mất niềm tin của người dân đối với chính
quyền gây ra ảnh hưởng xấu đến ổn định xã hội, đến phát triển kinh tế của
quốc gia, qua đó thực hiện cho được mục đích cuối cùng mà chúng nhắm tới
chính là mục tiêu chính trị. Trong một số Công ước quốc tế về chống khủng
bố thì mục đích chính trị cũng đã được nhắc đến, ví dụ Công ước Nerw York
1979 về chống bắt cóc con tin quy định hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh

17


công ước phải là hành vi bắt giữ, giam giữ, đe dọa sẽ giết chết, sẽ làm bị
thương nhằm cưỡng ép bên thứ ba, cụ thể là quốc gia, tổ chức quốc tế liên
chính phủ, pháp nhân hoặc thể nhân, nhóm người nào đó phải thực hiện hay
không được thực hiện bất kì hành vi nào như một điều kiện rõ ràng hoặc điều
kiện ngầm cho việc phóng thích con tin....
+ Về chủ thể: Hiện nay, có một số quan điểm cho rằng chủ thể thực
hiện hành vi khủng bố bao gồm cả quốc gia nhà nước khủng bố. Tuy nhiên,
phần lớn các Công ước quốc tế về phòng, chống khủng bố xác định cá nhân
hoặc tổ chức là chủ thể của tội phạm khủng bố. Cụ thể:
Công ước quốc tế về trấn áp khủng bố bằng bom năm 1997 tại Điều 2
quy định:

1. Một người bị coi là thực hiện một tội phạm nếu người đó
ném, đặt, làm nổ hoặc kích nổ một cách bất hợp pháp và cố ý một
thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào hoặc chống lại một
địa điểm công cộng, một trang thiết bị của Nhà nước hoặc Chính
phủ, một hệ thống giao thông công cộng hoặc một cơ sở hạ tầng...
2. Một người bị coi là thực hiện tội phạm nếu người đó có ý đồ thực
hiện tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này. 3. Một người cũng bị
coi là thực hiện tội phạm nếu người đó: (a) Tham gia với tư cách
đồng phạm trong tội phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 của
Điều này; hoặc (b) Tổ chức hoặc chỉ đạo những người khác thực
hiện tội phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều này; hoặc
(c) Đóng góp bằng bất kỳ cách nào khác cho việc thực hiện một
hoặc nhiều tội phạm quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 của Điều
này do một nhóm người có cùng mục đích chung thực hiện, việc đóng
góp này phải là cố ý và được thực hiện để trợ giúp hoạt động phạm
tội chung hoặc mục đích chung của nhóm đó, hoặc được thực hiện
khi đã nhận thức được ý đồ thực hiện tội phạm của nhóm đó [35].

18


Như vậy, chủ thể của tội phạm khủng bố theo quy định của Công ước
quốc tế về trừng trị việc khủng bố bằng bom có thể là cá nhân hoặc tổ chức
(nhóm người).
Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay và Công
ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không
dân dụng, Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin, Công ước về trừng trị
các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hành trình hàng hải, Nghị định thư
về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn của những công trình
cố định trên thềm lục địa... cũng ghi nhận cá nhân là chủ thể thực hiện tội

phạm. Một số Công ước quốc tế khác chỉ đề cập tới tội phạm khủng bố nhưng
không nêu rõ chủ thể của tội phạm. Ví dụ: Công ước về ngăn ngừa và trừng
trị các tội phạm chống lại những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm
viên chức ngoại giao không đề cập tới chủ thể thực hiện tội phạm mà tại Điều 2
chỉ quy định các hành vi bị coi là tội phạm... và một số công ước xác định
hành động quân sự của quốc gia không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước.
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, cần phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp
luật quốc tế của chủ thể luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là tội
phạm có tính chất quốc tế. Tội phạm có tính chất quốc tế là tội phạm hình sự do
các cá nhân thực hiện xâm phạm tới trật tự pháp lí quốc tế hoặc quốc gia và có
tính nguy hiểm trên phạm vi quốc tế mà tội khủng bố nằm trong nhóm này. Các
hành vi xâm phạm luật quốc tế của quốc gia sẽ được giải quyết theo chế định
trách nhiệm pháp lí quốc tế bao gồm hai loại là: tội ác quốc tế và các vi phạm
pháp lí thông thường khác. Chính vì lẽ đó mà chủ thể của tội phạm khủng bố
chỉ có thể là cá nhân và các tổ chức tội phạm (các băng, nhóm phạm tội).
Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả những hành động mang tính
chất khủng bố nói chung và khủng bố sử dụng công nghệ cao nói riêng do các
quốc gia thực hiện cũng cần được xem xét, nghiên cứu để xây dựng các quy
phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh nhằm ngăn ngừa, trừng trị kịp thời những
hành bất hợp pháp do quốc gia tiến hành.

19


×