Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy bài 12 đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường công nghệ 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.01 KB, 14 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo đã ghi:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều,
ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo
cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”[4].
Trong luật Giáo dục Việt Nam, điều 28.2 đã chỉ rõ “Phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học
sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến
thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh”[1]. Vì vậy, để nâng cao chất lượng dạy học thì giáo dục phải đổi
mới về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học.
Công nghệ là một môn khoa học ứng dụng, nghiên cứu việc vận dụng
những quy luật tự nhiên và các nguyên lý khoa học nhằm đáp ứng các nhu cầu
vật chất và tinh thần của con người. Nội dung trong sách giáo khoa (SGK) Công
nghệ 10 là những kiến thức cơ bản về Nông, lâm, ngư nghiệp và tạo lập doanh
nghiệp. Do đó, nếu người dạy không đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo
hướng cho học sinh (HS) tìm tòi khám phá, từ đó tìm ra tri thức và tiếp nhận tri
thức một cách chủ động mà cứ giảng dạy theo phương pháp truyền thống sẽ gây
nhàm chán cho học sinh [3].
Xu hướng đổi mới PPDH ở nước ta hiện nay là chuyển từ việc dạy học lấy
giáo viên (GV) làm trung tâm chuyển sang việc dạy học lấy HS làm trung tâm.
Trước đây, việc dạy học chủ yếu bằng hình thức truyền đạt tri thức từ người thầy
giáo nhưng PPDH hiện nay là phải phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của HS. Giáo viên chính là những người hướng dẫn, tổ chức, điều khiển cho
HS để các em tự lĩnh hội tri thức.


Ở nước ta, việc đổi mới PPDH đã diễn ra, nhất là trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên vẫn còn tình trạng dạy học theo lối thầy đọc, trò chép,… người giáo
viên ít chú trọng đến vấn đề phát huy tính tự học của HS, ít khi đặt ra vấn đề
mang tính chất tìm tòi cho HS phát triển năng lực tư duy, tự học và tư nghiên
cứu. Thực trạng dạy học Công nghệ 10 ở trung học phổ thông (THPT) phần lớn
vẫn còn trong tình trạng chung như trên. Do đó, việc đổi mới PPDH Công nghệ
10 nhằm phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo, chủ động của HS là cấp bách
và cần thiết. Xác định được nhiệm vụ trên, đội ngũ giáo viên ở các cấp học đã
không ngừng đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của HS, trong đó phương pháp đóng vai được nhiều giáo viên lựa
chọn.
Mặc dù, Quan Hóa là một huyện miền núi, đa số học sinh đều là dân tộc
thiểu số, sự hiểu biết và tiếp cận với phương pháp học mới còn nhiều hạn chế
nhưng bằng niềm đam mê với nghề nghiệp, sự nhiệt huyết trong chuyên môn và
1


xuất phát từ những lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Sử dụng phương
pháp đóng vai vào dạy Bài 12. Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số
loại phân bón thông thường - Công nghệ 10 nhằm phát huy tính tích cực học
tập của học sinh ở trường THPT Quan Hóa” góp phần thực hiện yêu cầu đổi
mới nội dung và PPDH theo hướng phát huy tính tích cực học tập của HS ở phổ
thông.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Thiết kế, xây dựng và sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học phần
Nông, lâm, ngư nghiệp - Công nghệ 10, nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh, nâng cao hiệu quả dạy học môn Công nghệ 10.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Biện pháp đế phát triển kĩ năng “đóng vai”.
- Học sinh khối 10 trường trung học phổ thông Quan Hóa.

- Nội dung bài 12 – trang 38, SGK Công nghệ 10.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Nghiên cứu tài liệu và các công trình nghiên cứu đổi mới PPDH theo
hướng tích cực hóa việc học của học sinh.
- Nghiên cứu về cấu trúc và nội dung chương trình Công nghệ 10 (phần
Nông, Lâm, Ngư nghiệp).
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về các phương pháp, biện pháp thiết kế và sử
dụng phương pháp đóng vai trong nội dung bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ
thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo hướng
phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
1.4.2. Phương pháp chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi, tiếp thu ý kiến của các đồng nghiệp để tham khảo ý kiến
làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
1.4.3. Phương pháp thực tập sư phạm
Thực nghiệm sư phạm ở trường THPT Quan Hóa, tiến hành theo quy trình
của đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục để đánh giá hiệu quả của đề tài nghiên
cứu.
1.4.4. Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phương pháp này để thống kê, xử lý, đánh giá kết quả thu được.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực
PPDH tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ
những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích
cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người học. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì
giáo viên phải nổ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.[2]

Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách học,
nhưng ngược lại thói quen học tập của trò cũng ảnh hưởng tới cách dạy của thầy.
2


Chẳng hạn, có trường hợp HS đòi hỏi cách dạy tích cực hoạt động nhưng giáo
viên chưa đáp ứng học, hoặc có trường hợp GV hăng hái áp dụng PPDH tích cực
nhưng không thành công vì HS chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ
động. Vì vậy, GV phải kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng
cho HS phương pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong
đổi mới PPDH phải có sự hợp tác của cả thầy và trò, sự phối hợp nhịp nhàng
hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công. [2]
2.1.1.2. Phương pháp đóng vai
Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành “làm thử” một số
cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.[2]
Thực tế giảng dạy môn Công nghệ 10 ở trường THPT cho thấy phần lớn do
các giáo viên ở các bộ môn khác đảm nhận nên sự “đầu tư” giảng dạy chưa cao.
Việc sử dụng các PPDH truyền thống càng làm cho HS có cách nhìn tiêu cực về
môn học này, và nhiều HS ngày càng “ngán” môn Công nghệ. Để tránh hiện
tượng nhàm chán cho HS việc mạnh dạn sử dụng phương pháp đóng vai vào dạy
học Công nghệ 10 là rất cần thiết, đặc biệt trong những năm gần đây với chương
trình thay sách, đóng vai là phương pháp được áp dụng khá phổ biến [2].
* Ưu điểm của phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai có những ưu điểm sau:
- HS được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày tỏ thái độ
trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn.
- Gây hứng thú và chú ý cho học sinh.
- Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học sinh
- Khích lệ sự thay đổi, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi đạo
đức và chính trị xã hội.

- Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các
vai diễn.
- Phát huy được những kinh nghiệm thực tế và tư duy sáng tạo của từng cá
nhân cũng như sự phối hợp chặt chẽ của cá nhân với tập thể nhóm.
- Lớp học sinh động, người học tiếp thu kiến thức thông qua những hoạt
động tích cực trong "vai diễn" của họ [8].
* Hạn chế của phương pháp đóng vai
- Mất nhiều thời gian.
- Phải suy nghĩ "kịch bản", "diễn viên"...
- Đối tượng học sinh có tỷ lệ khá giỏi phải nhiều.
- Nếu số lượng học sinh nhiều hiệu quả không cao [8].
* Phương pháp tổ chức phương pháp đóng vai
Cách thức tiến hành phương pháp đóng vai thường theo các bước sau:
- Giáo viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai cho từng nhóm một cách
tương đối đơn giản, không quá phức tạp và quy định rõ thời gian chuẩn mực,
thời gian đóng vai.
- Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công sắm vai
- Thứ tự các nhóm đóng vai

3


- Các HS khác theo dõi phóng vấn, nhận xét, đánh giá, bổ sung (nếu cần).
Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm
nào?
- Cuối cùng GV kết luận chốt lại về cách ứng xử cần thiết trong tình huống
nên sự cố gắng của HS và rút kinh nghiệm.
Cách thức tiến hành có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
GV chia nhóm, giao nhiệm vụ
Các nhóm thảo luận, xây dựng kịch bản

Các nhóm đóng vai
Các nhóm khác theo dõi, nhận xét…
Giáo viên kết luận, nhận xét
Sơ đồ 1. Các bước tiến hành phương pháp đóng vai [8]
* Một số lưu ý khi thực hiện phương pháp đóng vai
- Chọn vấn đề đóng vai có mục tiêu dạy học rõ ràng.
- Chọn người đóng vai có kiến thức hay kinh nghiệm tương tự vai diễn hay
chọn tình huống trong các nhóm đóng vai phải sát thực tế và đáp ứng mục tiêu
dạy học.
- Giáo viên giới thiệu vai diễn rõ mục đích, thống nhất tình huống.
- Tình huống nên để mở, giáo viên không cho trước “kịch bản”, lời thoại
[2].
- Phải dành thời gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai [2].
- Người đóng vai phải hiểu rõ nhiệm vụ của mình trong bài tập đóng vai để
không lạc đề [2].
- Nên có các biện pháp khích lệ những học sinh nhút nhát tham gia [2].
- Nên hóa trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi đóng
vai [2].
- Rút ra được kết luận sư phạm: ý đồ đưa ra tình huống để đóng vai, mục
đích của kịch bản, kết quả sư phạm thu được v.v...[2]
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng dạy học môn Công nghệ nông nghiệp ở trường THPT
2.2.1.1. Thực trạng dạy học của giáo viên
Nhìn chung, giáo viên cải tiến đổi mới phương pháp như sử dụng: phương
pháp vấn đáp tìm tòi, trực quan tìm tòi, thảo luận nhóm… Tuy nhiên, việc sử
dụng các phương pháp trên không thường xuyên, đa phần giáo án chủ yếu là nội
dung bài học chứ chưa chú trọng đến phương pháp, rất ít câu hỏi tư duy. Chỉ sử
dụng hệ thống sơ đồ trong SGK để minh học cho bài học, mà không có thêm các
4



sơ đồ tự thiết kế từ nội dung SGK hay liên hệ thực tiễn. Chưa chú ý sử dụng các
phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
2.2.1.2. Việc học của học sinh
Qua thực tế giảng dạy cho thấy, chất lượng giờ dạy môn Công nghệ 10
chiếm tỷ lệ trung bình rất cao. Hoạt động các em chủ yếu là nghe giảng, ghi
chép chứ chưa có ý thức phát biểu xây dựng bài. Một số em còn làm việc riêng
trong giờ học, có khi lớp 48-52 học sinh nhưng trong suốt giờ học chỉ tập trung
4-5 em phát biểu xây dựng bài. Các em hầu như không có hứng thú vào việc học
tập bộ môn Công nghệ 10.
Từ thực tế trên dẫn đến kết quả học tập bộ môn chưa cao. Số học sinh giỏi
ít, khá và trung bình nhiều, yếu vẫn còn. Qua thực tế giảng dạy nếu sử dụng các
PPDH phát huy tính tích cực như: thảo luận nhóm, phiếu học tập, sử dụng băng
hình… cùng với những câu hỏi tìm tòi, kích thích tư duy, gây tranh luận thì
không khí học tập sôi nổi hẳn, các em tích cực phát biểu xây dựng bài. Ngược
lại, ở một số lớp giáo viên sử dụng phương pháp thuyết trình, đàm thoại tái hiện,
thông báo… lớp học trở nên trầm, ít học sinh phát biểu xây dựng bài.
2.2.2. Những nguyên nhân của thực trạng dạy và học môn Công nghệ
10 ở các trường THPT hiện nay nói chung và ở trường THPT Quan Hóa
nói riêng
- Giáo viên ngại áp dụng các phương pháp mới vào quá trình dạy học. Bởi
để dạy học theo các phương pháp mới phát huy được tính tích cực của HS đòi
hỏi phải đầu tư thời gian, trí tuệ vào việc soạn giáo án. Đồng thời giáo viên phải
có năng lực tổ chức, điều khiển quá trình dạy học. Đây là khó khăn đối với giáo
viên hiện nay vì một số trường chưa có giáo viên chuyên ngành kỹ thuật nông
nghiệp. Ở một số trường THPT chưa có đủ cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động
học tập của bộ môn như: chưa có phòng thực hành bộ môn, chưa có các đồ dùng
dạy học cần thiết…
- Đặc điểm của HS khu vực miền núi:
Qua quá trình tìm hiểu và thực tế dạy học ở trường THPT Quan Hóa –

Thanh Hóa, tôi có thể tóm tắt về một số đặc điểm của HS THPT miền núi như
sau:
+ Về điều kiện kinh tế xã hội: Đa phần HS là con em dân tộc thiểu số, sống
ở miền núi cao,địa hình hiểm trở, sống xa nhau, xa trường nên đi lại khó khăn,
gây cản trở không ít đến việc đến trường học tập của các em.
+ Về ngôn ngữ tiếng Việt: Do đa phần HS là người dân tộc thiểu số, hoàn
cảnh sống khó khăn, ít được tiếp xúc với phương tiện dạy học hiện đại nên ngôn
ngữ tiếng Việt còn nghèo, nhiều khi trong lớp các em còn giao tiếp bằng ngôn
ngữ riêng của dân tộc mình, kĩ năng đọc, viết, diễn đạt câu, phát âm các thuật
ngữ khoa học nhiều khi chưa chính xác.
+ Về khả năng tư duy: Thường tư duy chậm, khi gặp tình huống phức tạp
thường bối rối không nhanh chóng tìm ra phương án, khả năng tư duy trừu
tượng, tư duy logic biện chứng chưa cao. Các em thường xem xét sự vật hiện
tượng trong mối quan hệ riêng lẻ, đơn giản. Các em quen tư duy cụ thể, bắt
chước, dập khuôn nên gặp bài khó, phức tạp không tích cực suy nghĩ mà chờ sự
hướng dẫn của giáo viên.
5


Khả năng vận dụng, liên hệ thực tế còn hạn chế, khả năng phân tích, tổng
hợp, so sánh còn yếu.
+ Về đặc điểm tâm hồn: Các em sống hồn nhiên, vô tư, có tình cảm yêu
ghét rõ ràng. Lòng tự trọng cao, bản tính thật thà và có trách nhiệm trong công
việc. Nhưng còn rụt rè, ít nói và lòng tự ti dân tộc cao.
- Bên cạnh đó, một nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng dạy và học
Công nghệ 10 hiện nay do môn này không được học sinh coi là môn học chính,
vì không thi tốt nghiệp, không thi đại học. Từ đó đã hình thành nên suy nghĩ
buông lõng, thả trôi trong ý thức học tập của học sinh.
2.3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
Đối với bài này tôi sử dụng phương pháp đóng vai theo cách sau đây: Học

sinh đóng vai mình chính là các loại phân bón.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm (14 người), tương ứng với 3 loại
phân bón.
+ Nhóm 1: Phân hóa học
+ Nhóm 2: Phân hữu cơ
+ Nhóm 3: Phân vi sinh vật
Mỗi nhóm phân công nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên phát đồ dùng gồm 1
giấy A0, 1 bút dạ và yêu cầu trong thời gian 10 phút cả nhóm cùng nghiên cứu,
xây dựng “kịch bản”, sau đó cử đại diện lên bảng “đóng vai” chính là loại phân
bón đó. Giới thiệu “về mình” cho cả lớp (xem như là bà con nông dân) thời gian
tối đa là 5 phút.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Thứ tự các nhóm lên đóng vai.
Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu
cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá.
Sau đây tôi xin giới thiệu “kịch bản” của học sinh Lữ Văn Tùng - lớp 10A1
lên đóng vai:
“…Xin chào tất cả bà con, tôi xin tự giới thiệu tôi là phân hóa học, là loại
phân bón được sản xuất theo quy trình công nghiệp, có sử dụng nguyên liệu tự
nhiên hoặc tổng hợp. Nếu xét theo số nguyên tố tham gia tôi thường được chia
làm 2 loại đó là: phân đa nguyên tố và phân đơn nguyên tố, phân đơn nguyên tố
ví dụ như: đạm, lân, kali… phân đa nguyên tố ví dụ như NPK...
Bà con nông dân nên sử dụng tôi bởi tôi có những đặc điểm sau: thứ nhất,
chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất dinh dưỡng cao nên chỉ cần bón lượng ít. Thứ
hai, tôi phần lớn dễ tan (trừ lân) nên cây dễ hấp thụ và cho hiệu quả nhanh. Tuy
nhiên, tôi lại có nhược điểm là bón nhiều và liên tục nhiều năm sẽ làm đất chua,
do đó để sử dụng tôi có hiệu quả bà con cần lưu ý một số vấn đề sau: Đạm, kali
bón thúc là chính. Lân (khó tan) chủ yếu bón lót. Đất dễ bị chua hóa nên cần kết

hợp bón vôi cải tạo.
Bà con lựa chọn tôi chính là đầu tư có hiệu quả, tôi hy vọng sẽ là người bạn
đưa lại năng suất cao cho các bác. Chúc bà con có một vụ mùa bội thu và thắng
lợi…”.
6


Ghi chú: Từ in nghiêng là nội dung chính được HS trình bày trên giấy A0.

GIÁO ÁN
Tiết PPCT 11. Bài 12: ĐẶC ĐIỂM, TÍNH CHẤT, KỸ THUẬT SỬ DỤNG
MỘT SỐ LOẠI PHÂN BÓN THÔNG THƯỜNG
I. MỤC TIÊU

Sau bài học này, học sinh phải:
1. Về kiến thức:
- Kể tên được một số loại phân bón thường dùng trong nông, lâm nghiệp.
Cho ví dụ từng loại.
- Nêu được đặc điểm và tính chất của một số loại phân bón thường dùng
trong nông, lâm nghiệp.
- Mô tả được cách sử dụng các loại phân bón và giải thích được cơ sở khoa
học của việc sử dụng. Nêu được ví dụ minh họa.
- Phân biệt được cách sử dụng phân hữu cơ và phân vi sinh.
2. Về kỹ năng:
- Rèn luyện kỹ năng hoạt động nhóm, trình bày trước lớp
3. Về thái độ:
- Có ý thức vận dụng được những hiểu biết về phân bón để tham gia và vận
động mọi người sử dụng phân bón hợp lý, tăng năng suất cây trồng, tăng độ phì
nhiêu cho đất, đồng thời bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe con người.
II. CHUẨN BỊ BÀI DẠY


- Mẫu một số loại phân bón thường dùng (đạm, lân, kali, NPK…)
- Tranh ảnh liên đến bài dạy.
- 3 tờ giấy A0 , 3 tờ nguồn, 3 bút dạ, 3 cốc (hoặc bình tam giác)
III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC

- Thảo luận nhóm – phương pháp đóng vai.
- Làm việc với sách giáo khoa.
IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC

1. Ổn định tổ chức
2. Vào bài mới
GV hỏi: Trong việc cải tạo hai loại đất trồng đã học, muốn cung cấp chất
dinh dưỡng cho đất người ta thường sử dụng biện pháp nào? (HS: Bón phân)
GV giảng thêm: Tại Hội nghị phân bón thế giới (1937) từng nói: “Cơ sở
sản xuất nông nghiệp là độ phì nhiêu. Cơ sở độ phì nhiêu là phân bón, nhờ phân
bón mà đất xấu củng trở thành đất tốt…”
? Vậy phân bón gồm những loại nào?
HS trả lời → GV sắp xếp ở bảng
Phân đạm, lân, kali
Phân hoá học
Phân hỗn hợp NPK
Phân vi lượng
Phân xanh: bèo…
Phân bón
Phân hữu cơ
Phân chuồng…
Phân rác, phân bùn…
Phân vi sinh vật
7



GV kết luận và vào bài mới: Như vậy, có rất nhiều loại phân bón khác nhau. Muốn
sử dụng có hiệu quả thì chúng ta phải hiểu đặc điểm, tính chất và cách sử dụng của các loại
phân đó. Để hiểu rõ các loại phân này chúng ta nghiên cứu bài hôm nay (ghi bảng).

Hoạt động của
giáo viên – học sinh
GV chia lớp làm 3 nhóm, cử nhóm
trưởng, thư ký và phát mỗi nhóm 1 bút
dạ + 1 tờ giấy A0
Nhóm 1: Tìm hiểu khái niệm, phân loại,
đặc điểm và cách sử dụng phân hoá học.
Nhóm 2: Tìm hiểu khái niệm, phân loại,
đặc điểm và cách sử dụng phân hữu cơ.
Nhóm 3: Tìm hiểu khái niệm, phân loại,
đặc điểm và cách sử dụng phân vi sinh
vật.
HS: làm việc theo nhóm, viết vào giấy
A0, cử người đóng vai.
- Đại diện nhóm 1 lên bảng “đóng vai”
HS khác bổ sung → GV tổng kết

Nội dung chính

I. PHÂN HOÁ HỌC
? Em hãy kể tên một số loại phân hoá 1. Khái niệm
học mà em biết.
- Là loại phân bón được sản xuất
? Kể tên một số nhà máy sản xuất phân theo quy trình công nghiệp, có sử

bón.
dụng một số nguyên liệu tự nhiên
hoặc tổng hợp.
2. Phân loại
GV lấy ví dụ:
- Phân đơn nguyên tố: N, P, K…
Đạm urê có 46% đạm nguyên chất.
- Phân đa nguyên tố: NPK…
Đạm Cloruaamon có 25% đạm nguyên
chất
3. Đặc điểm
GV biễu diễn thí nghiệm: hoà tan một ít - Chứa ít nguyên tố nhưng tỷ lệ chất
đạm, kali và lân vào 3 cốc nước.
dinh dưỡng cao.
GV lấy ví dụ:
- Phần lớn dễ tan (trừ lân) → cây dễ
H+
4K+
hấp thụ và cho hiệu quả nhanh.
+ KCL →
+ ALCl3 + HCL
- Bón nhiều và liên tục nhiều năm
3+
K AL
K
→ đất hóa chua.
ALCl
Đ 3 + 3H20 → AL(0H)
Đ 3


+ 3HCL

GV hỏi thêm: Vì sao đạm, kali chỉ cần
bón lót với lượng nhỏ? Nếu bón lượng
lớn sẽ gây hậu quả gì?
GV lấy ví dụ: Bón đạm nhiều sẽ cháy lá

4. Cách sử dụng
- Đạm, kali bón thúc là chính
- Lân chủ yếu bón lót
- Đất dễ chua hóa → bón vôi cải
tạo.
VD: CaCO3 + 2H2O → Ca(OH)2 +
H2CO3
Ca(OH)2 + 2HCL → CaCL2 + H2O
8


II. PHÂN HỮU CƠ
- Đại diện nhóm 2 lên bảng “đóng vai” 1. Khái niệm
HS khác bổ sung → GV tổng kết
- Là loại phân bón có nguồn gốc từ
? Kể tên một số loại phân hữu cơ mà em chất hữu cơ.
biết.
2. Phân loại: chia làm 2 loại chính
- Phân xanh: bèo, thân lạc, đậu…
- Phân chuồng:
Ngoài ra có các loại phân bùn, phân
rác
3. Đặc điểm

- Chứa nhiều nguyên tố dinh dưỡng
- Thành phần và tỷ lệ không ổn định
- Quá trình phân hóa chậm nên hiệu
quả chậm (lâu dài).
- Bón nhiều không hại đất mà có
khả năng cải tạo đất tốt.
- Nhiều nước nên sử dụng và khó
vận chuyển do đó phải ủ.
4. Sử dụng
? Vì sao phân hữu cơ được dùng để bón - Bón lót là chính
lót là chính? Bón thúc được không?
VD: Bón lúc cày → bừa lấp đất
- Vì sao phải ủ hoai? Tác dụng?
Bón thúc phải ủ hoai
- Đại diện nhóm 3 lên bảng “đóng vai” III. PHÂN VI SINH VẬT
HS khác bổ sung → GV tổng kết
1. Khái niệm
- Là loại phân bón có chứa các loài
vi sinh vật.
2. Phân loại
- Phân VSV cố định đạm:
+ Nitragin (cây họ đậu)
+ Azogin (hội sinh cây lúa)
- Phân VSV chuyển hóa lân:
+ Photpho bacterin
+ Phân lân hữu cơ vi sinh
- Phân VSV phân giải chất hữu cơ:
+ Estrasol
+ Mana
3. Đặc điểm

- Có chứa VSV sống, thời hạn sử
dụng ngắn.
- Mỗi loại phân chỉ thích hợp với
một hoặc một nhóm cây nhất định.
- Không làm hại đất
4. Sử dụng
? Đặc điểm có liên quan gì đến cách sử - Sử dụng ngay, không để lâu
dụng.
- Trộn hoặc tẩm vào hạt, rễ trước
9


khi gieo
- Có thể bón trực tiếp vào đất
V. CỦNG CỐ VÀ DẶN DÒ
1. Củng cố (sử dụng tình huống dạy học): Bác An có làm 3 sào ruộng,
nhưng do hoàn cảnh gia đình nghèo nên bác đang phân vân lựa chọn phân bón
nào cho phù hợp (biết bác An có chăn nuôi trâu và lợn).
- Dựa vào kiến thức đã học về các loại phân bón em hãy cho bác An lời
khuyên?
2. Dặn dò: Về nhà học bài và chuẩn bị bài mới.
* Lưu ý: Ngoài ra, đối với bài này có thể sử dụng phương pháp đóng vai theo 3
cách sau đây:
Cách 2: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân
bón.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với bà con nông dân
sử dụng 3 loại phân bón của 3 xã là: A, B, C
+ Nhóm 1: xã A - Phân hóa học
+ Nhóm 2: xã B - Phân hữu cơ

+ Nhóm 3: xã C - Phân vi sinh vật
Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10
phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Chọn 1 người
làm dẫn chương trình (MC) dưới hình thức tổ chức cuộc thi “Nhà nông đua tài”
với chủ đề về cách sử dụng phân bón.
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. MC lần lượt mời đại diện 3 đội chơi trình
bày về cách sử dụng phân bón ở địa phương mình.
Bước 4: Cả 3 đội chơi cùng thảo luận. Các học sinh khác theo dõi, phỏng
vấn, nhận xét, bổ sung (nếu cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá, tổng kết cuộc thi trao giải
(động viên).
Cách 3: Học sinh đóng vai là bà con nông dân 3 xã sử dụng 3 loại phân
bón. Cách này phân công nhóm giống cách 2 nhưng được tổ chức tương tự cách
1.
Cách 4: Học sinh đóng vai người dân đi mua 3 loại phân bón ở 3 cửa hàng
khác nhau.
Cách này được tổ chức theo trình tự như sau:
Bước 1: Giáo viên cử một học sinh đóng vai người dân đi mua phân bón và
chia lớp thành 3 nhóm, tương ứng với 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón.
+ Nhóm 1: Cửa hàng bán phân hóa học
+ Nhóm 2: Cơ sở sản xuất và bán phân hữu cơ
+ Nhóm 3: Cửa hàng bán phân vi sinh vật
Mỗi nhóm cử nhóm trưởng, thư ký. Giáo viên yêu cầu trong thời gian 10
phút cả nhóm cùng nghiên cứu, soạn thảo xây dựng “kịch bản”. Sau đó mời đại
diện 3 nhóm lên 3 vị trí đã sắp xếp trước, lần lượt người đóng vai nông dân sẽ
10


ghé thăm hỏi mua và nghe 3 “cơ sở” giới thiệu về phân bón của mình (mỗi cơ sở

trình bày 3 phút).
Bước 2: Các nhóm thảo luận, xây dựng “kịch bản” và phân công đóng vai.
Bước 3: Đóng vai “kịch bản”. Người nông dân lần lượt ghé vào 3 “cơ sở”
phân bón.
Bước 4: Các học sinh khác theo dõi, phỏng vấn, nhận xét, bổ sung (nếu
cần).
Bước 5: Giáo viên kết luận, nhận xét, đánh giá
Lưu ý: “Cơ sở” sản xuất và bán phân hữu cơ có thể là hộ gia đình hoặc
trang trại chăn nuôi.
Sau đây tôi xin giới thiệu một “kịch bản” được soạn thảo làm ví dụ:
Bác An là một nông dân ở xã A, gia đình bác làm 3 sào ruộng nhưng bác
chưa biết lựa chọn sử dụng phân bón nào cho phù hợp nên bác đã đi xin “tư
vấn” của 3 cơ sở sản xuất và bán phân bón.
- Bác vào cửa hàng bán phân hóa học, được người bán hàng giới thiệu:
Bác nên dùng phân hóa học vì đây là loại phân bón ……… (thông tin về phân
hóa học) (3 phút).
- Bác vào cơ sở sản xuất phân hữu cơ, được người chủ cơ sở giới thiệu:
Bác nên dùng phân hữu cơ vì đây là loại phân bón ………… (thông tin về phân
hưu cơ) (3 phút).
- Bác vào cửa hàng bán phân vi sinh vật, được người bán hàng giới thiệu:
Bác nên dùng phân vi sinh vật vì đây là loại phân bón … (thông tin về phân vi
sinh vật) (3 phút).
Sau khi bác An nghe lời tư vấn của 3 cơ sở, bác rất băn khoăn chưa biết
lựa chọn loại phân nào cho phù hợp. Giáo viên sử dụng tình huống mở này làm
củng cố bài học.
Em hãy cho bác An một lời khuyên?
HS tham gia trao đổi thảo luận đưa ra lời khuyên dựa vào nội dụng bài học
và sự hiểu biết của học sinh.
Giáo viên tổng kết, bổ sung, đánh giá.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

Qua quá trình thực nghiệm, tôi đã sử dụng phương pháp đóng vai theo cách
1 vào dạy học bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân
bón thông thường – Công nghệ 10”.
Bài này được dạy song song cùng thời gian và chéo nhau với 2 loại giáo án:
- Giáo án thực nghiệm có sử dụng phương pháp đóng vai theo cách 1 vào
soạn bài và giảng dạy.
- Giáo án đối chứng không sử dụng phương pháp đóng vai.
Sau khi dạy xong bài, tôi tiến hành kiểm tra khả năng lĩnh hội kiến thức của
học sinh bằng hệ thống câu hỏi đề kiểm tra 15 phút (xem phụ lục).
Bước đầu thu được kết quả cụ thể như sau:
2.4.1. Kết quả định lượng
- Lớp đối chứng (ĐC): 10A2
- Lớp thực nghiệm (TN): 10A1
Bảng 1. Bảng phân loại trình độ HS lần kiểm tra sau TN
11


Lần Phương
KT
1

án

Số bài

Điểm yếu

Điểm TB

Điểm khá


Điểm giỏi

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

ĐC

36

8

22,2

23

63,9


5

13,8

0

0

TN

32

5

15,6

13

40,6

11

34,4

3

9,4

Qua kết quả nghiên cứu ta thấy rằng, ở lớp thực nghiệm tỷ lệ đạt điểm khá

giỏi đều cao hơn lớp đối chứng. Ngược lại, tỷ lệ điểm trung bình và dưới trung
bình của lớp đối chứng lại cao hơn. Điều đó phần nào cho thấy học sinh lớp thực
nghiệm tiếp thu kiến thức nhiều hơn và tốt hơn. Một trong những nguyên nhân
đó là: Ở lớp thực nghiệm, lớp học diễn ra nghiêm túc, học sinh hứng thú học tập,
tích cực, chủ động “đóng vai”, số lượng học sinh tham gia xây dựng bài nhiều
làm cho không khí lớp học sôi nổi kích thích sự sáng tạo, chủ động nên khả năng
hiểu và nhớ bài tốt hơn.
Còn ở lớp đối chứng, lớp học vẫn diễn ra nghiêm túc, học sinh vẫn chăm
chú tiếp thu bài giảng, nhưng các em tiếp thu thụ động về kiến thức, giáo viên sử
dụng phương pháp truyền thống như thông báo, giải thích nên quá trình làm việc
thường nghiêng về giáo viên.
2.4.2. Kết quả định tính
Qua quá trình phân tích bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng và
theo dõi trong suốt quá trình giảng dạy, tôi có những nhận xét sau:
- Ở lớp đối chứng:
+ Phần lớn học sinh chỉ dừng lại ở mức độ nhớ và tái hiện kiến thức. Tính
độc lập nhận thức không thể hiện rõ, cách trình bày rập khuôn trong SGK hoặc
vở ghi của giáo viên.
+ Nhiều khái niệm các em chưa hiểu sâu nên trình bày chưa chính xác,
thiếu chặt chẽ.
+ Việc vận dụng trí thức đối với đa số các em còn khó khăn, khả năng khái
quát hóa và hệ thống hóa bài học chưa cao.
+ Giờ học trầm lắng, kém hứng thú, các em vẫn trả lời câu hỏi nhưng chưa
nhiệt tình.
Tuy nhiên, vẫn có một số học sinh hiểu bài khá tốt, trình bày khá lôgic, chặt
chẽ.
- Ở lớp thực nghiệm:
+ Phần lớn học sinh hiểu bài tương đối chính xác và đầy đủ
+ Lập luận rõ ràng, chặt chẽ
+ Độc lập nhận thức, có khả năng “đóng vai”, trình bày vấn đề một cách

chủ động theo quan điểm riêng, không theo nguyên mẫu SGK hoặc của giáo
viên. Ví dụ: như học sinh Lữ Thanh Tùng ở lớp 10A1 “đóng vai” lưu loát, sáng
tạo…
+ Đa số các em có khả năng vận dụng những kiến thức đã học và kiến thức
thực tế để vào tình huống “đóng vai”.
+ Các em tham gia “đóng vai”, đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi với tinh thần
say mê, hào hứng, không khí giờ học thoải mái.
12


+ Tuy nhiên, vẫn còn một số ít học sinh chưa nắm vững nội dung bài học,
khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và vận dụng kiến thức chưa tốt.
2.4.3. Kết luận chung về thực nghiệm
Với kết quả thực nghiệm này, tôi có thêm cơ sở thực tiễn để tin tưởng vào
khả năng ứng dụng phương pháp đóng vai theo hướng mà đề tài đã chọn.
Qua thực nghiệm dạy học có sử dụng phương pháp đóng vai, tôi nhận thấy:
- Hứng thú học tập của học sinh cao hơn, hoạt động thảo luận sôi nổi hơn
và hiệu quả cao hơn, HS tập trung để quan sát và phân tích, phát biểu xây dựng
bài tốt hơn.
- Tăng cường thêm một số kỹ năng hoạt động học tập cho HS như quan sát,
phân tích, tổng hợp, so sánh, kỹ năng làm việc độc lập, “đóng vai” và trình bày
một vấn đề trước tập thể.
- Hoạt động của giáo viên nhẹ nhàng, thuận lợi hơn để có thể tập trung vào
việc đưa HS vào trung tâm của hoạt động dạy học. Thông qua phương pháp
đóng vai, HS trong nhóm và giữa các nhóm phát biểu ý kiến, tranh luận, bổ sung
cho những người “đóng vai” tạo không khí học tập rất tích cực, nâng cao hiệu
quả tiếp thu, lĩnh hội tri thức của HS.
- Kiến thức được cung cấp thêm, bổ sung và làm rõ SGK, đồng thời gắn với
thực tiễn nhiều hơn.
Do giới hạn về thời gian cũng như các điều kiện khác nên chúng tôi chưa

thực hiện thực nghiệm được trên quy mô lớn hơn. Chính vì thế mà kết quả thực
nghiệm chắc chắn chưa phải là tốt nhất.
Mặc dù vậy, qua thời gian giảng dạy, tôi nhận thấy rằng, việc sử dụng
phương pháp đóng vai vào dạy học Công nghệ 10 là điều rất cần thiết, góp phần
nâng cao hiệu quả giảng dạy, phát huy tính tích cực học tập của học sinh, đáp
ứng được yêu cầu đổi mới về nội dung và phương pháp trong dạy học hiện nay.
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
Từ những kết quả nghiên cứu tôi rút ra những kết luận chính sau:
- Bước đầu hệ thống hóa được cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng
phương pháp đóng vai trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử
dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”. Nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh.
- Hệ thống, phân tích được khái niệm, vai trò, ưu nhược điểm và một số lưu
ý khi sử dụng phương pháp đóng vai trong tổ chức dạy học Bài 12. “Đặc điểm,
tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”.
- Xây dựng được quy trình thiết kế và sử dụng phương pháp đóng vai gồm
5 bước trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng một số loại
phân bón thông thường - Công nghệ 10” theo 4 cách khác nhau.
- Tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp. Những kết quả bước đầu đã đánh giá được
hiệu quả của phương pháp đóng vai trong dạy học vừa nêu trên. Từ đó kết luận
được phương pháp đóng vai đã mang lại hiệu quả cao trong dạy học môn Công
nghệ 10.
- Trong dạy học hiện nay việc sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy học
Công nghệ 10 theo hướng nghiên cứu của đề tài này có thể áp dụng rộng rãi.
13


3.2. Kiến nghị
Qua nghiên cứu đề tài này, tôi rút ra một số kiến nghị sau:

- Cần phát huy tối đa vai trò của phương pháp đóng vai
- Giáo viên cần có biện pháp cụ thể để rèn luyện kỹ năng “đóng vai” cho
HS lĩnh hội tri thức trong dạy học Bài 12. “Đặc điểm, tính chất, kỹ thuật sử dụng
một số loại phân bón thông thường - Công nghệ 10”.
- Cần nghiên cứu sử dụng phương pháp đóng vai cụ thể phù hợp đối với
từng đối tượng học sinh (trình độ trung bình hay khá, giỏi).
- Do trình độ HS nơi nghiên cứu đề tài thấp nên hiệu quả còn hạn chế vì
vậy cần nghiên cứu thêm ở những nơi có trình độ HS khá, giỏi để so sánh hiệu
quả.
- Khi sử dụng phương pháp đóng vai cần dành thời gian phù hợp cho việc
xây dựng “kịch bản” và “đóng vai”. Đồng thời có biện pháp kích thích những
học sinh khác tham gia “chất vấn”, đặc biệt là những học sinh nhút nhát.
- Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp đóng vai trong dạy
học Công nghệ 10, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư thiết kế để tạo cho học
sinh hứng thú và học tập tốt hơn.
- Do thời gian có hạn nên tôi mới đi sâu thiết kế, sử dụng phương pháp
đóng vai vào bài nghiên cứu theo một cách. Vì vậy, có thể mở rộng thêm đề tài
theo các cách còn lại để đánh giá so sánh kết quả thu được.
- Do khả năng và thời gian có hạn nên kết quả nghiên cứu mới chỉ dừng lại
ở những kết luận ban đầu và nhiều vấn đề chưa đi sâu. Vì vậy không thể tránh
khỏi những thiếu sót, do đó tôi kính mong nhận được sự góp ý của quý vị để đề
tài dần hoàn thiện hơn.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh Hóa, ngày 14 tháng 4 nănm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.


Lê Thị Hồng Gấm

14



×