Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN nghiên cứu và đổi mới một số thí nghiệm sinh học 10 theo hướng phát triển năng lực thực hành cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.03 KB, 18 trang )

Phần 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển thì việc hình thành các kĩ năng, năng lực để đáp
ứng những yêu cầu phát triển đó ngày càng trở nên quan trọng và cần thiết, nó
trở thành một trong những vấn đề đáng được quan tâm của toàn xã hội nói
chung và trong hệ thống giáo dục nước nhà nói riêng. Trong định hướng đổi mới
chương trình và phương pháp giáo dục để phù hợp với sự phát triển của nền giáo
dục thế giới, một trong những quan điểm giáo dục được xem là trọng điểm đó là
phát triển năng lực toàn diện của người học.
Năng lực được quan niệm là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức
kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân… nhằm chinh
phục một nội dung kiến thức nhất định. Năng lực thể hiện sự vận dụng kết hợp
nhiều yếu tố (phẩm chất, kiến thức và kĩ năng) được thể hiện qua các hoạt động
của cá nhân để chiếm lĩnh tri thức.
Đổi mới PPDH theo hướng phát triển năng lực của học sinh đã và đang đạt
được nhiều bước tiến mới. Trong các PPDH tích cực theo hướng phát triển năng
lực của học sinh thì sử dụng phương tiện trực quan được xem là một giải pháp
mang tính thực tiễn đạt hiệu quả nhất. Phương pháp trực quan đã và đang được
áp dụng rộng rãi ở các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là ở các
nước có nền giáo dục tiên tiến với phương châm "học đi đôi với hành, lí luận
gắn liền với thực tiễn". Có thể nói đây là phương pháp giúp người học có thể
trực tiếp khám phá sự vật, hiện tượng để tìm ra bản chất và giải thích dựa trên
những hiểu biết của mình. Sử dụng thí nghiệm trong dạy học cũng là một trong
những biện pháp dạy học mang lại hiệu quả tối ưu được dùng rộng rãi trên nhiều
lĩnh vực như toán học, vật lí, hóa học, sinh học, y học, tâm lí học…. Thí nghiệm
thực hành giúp học sinh trực tiếp tiếp xúc và khám phá sự vật hiện tượng cụ thể,
thực tế gắn với các kiến thức đã học từ đó hiểu rõ bản chất nội dung tri thức để
từ đó có thể ứng dụng linh hoạt trong cuộc sống.
Sinh học là môn khoa học thực nghiệm, phương pháp chủ yếu là quan sát và
làm thí nghiệm. Sử dụng TN trong dạy học sinh học là PPDH trực quan, sinh
động giúp phát triển tư duy, năng lực của học. Kiến thức sinh học rất đa dạng và


phong phú, để tìm hiểu rõ bản chất của kiến thức đòi hỏi phải tiến hành nhiều thí
nghiệm khác nhau. Hầu hết ở các trường THPT trên cả nước đang gặp rất nhiều
bất cập trong các tiết dạy thực hành. Đối với từng TN cần phải lưu ý mục đích
thí nghiệm, nguyên liệu và dụng cụ dễ tìm, dễ tiến hành và phù hợp với thời
lượng một tiết học
Nghiên cứu các bài thực hành trong chương trình sinh học 10 hiện nay, tôi
nhận thấy :
- Ở một vài thí nghệm, các nguyên liệu thí nghệm còn hạn chế, không phù hợp
với từng địa phương, từng vùng miền, từng thời điểm TN.
- Các dụng cụ và hóa chất chưa đáp ứng đủ cho bài thực hành
1


- Cách thức tiến hành TN phức tạp, rườm rà, không đảm bảo thời lượng cho một
tiết học.
- Một số thí nghiệm chưa phát huy được năng lực, kĩ năng của người học.
Vì vậy, việc dạy một bài thực hành là khó khả thi và hiệu quả chưa cao, xuất
phát từ quan điểm đó nên tôi chọn đề tài: "Nghiên cứu và đổi mới một số thí
nghiệm sinh học 10 theo hướng phát triển năng lực thực hành cho học sinh".
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đổi mới một số đối tượng và
dụng cụ, hóa chất TN, từ đó đề xuất một số phương án TN đơn giản, dễ sử dụng
trong dạy học để dạy một số bài thực hành trong chương trình sinh học 10 (nâng
cao) theo hướng phát triển năng lực cho học sinh.
- Sử dụng các phương án TN để thiết kế tiến trình dạy học một số bài thực hành
trong chương trình sinh học 10 (nâng cao) theo hướng tổ chức hoạt động học
nhằm phát triển năng lực cho HS.
- Đánh giá tính khả thi thông qua khả năng tư duy, nhận thức, thao tác thí
nghiệm của HS và hiệu quả thực tế của các phương án TN trong tiết thực hành.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.

* Đối tượng:
- Một số TN trong các bài thực hành của chương trình sinh học 10 (nâng cao).
- Khách thể: Học sinh lớp 10 - THPT.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Đề tài chỉ nghiên cứu một số TN thuộc các bài thực hành trong chương trình
sinh học 10 (nâng cao).
- Nghiên cứu và đổi mới một số đối tượng, dụng cụ, hóa chất TN và đề xuất các
phương án TN của một số bài thực hành trong chương trình sinh học 10 (nâng
cao).
4. Phương pháp nghiên cứu.
* Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: Thu thập, nghiên cứu và hệ thống lại các
tài liệu có liên quan đến đề tài để làm cơ sở nghiên cứu và thực nghiệm.
* Phương pháp thực nghiệm sư phạm:
- Tiến hành thực nghiệm trên các đối tượng, dụng cụ và hóa chất đã được lựa
chọn trong quá trình nghiên cứu.
- Khảo sát tính khả thi của các phương án thí nghiệm trong các buổi thực
nghiệm sư phạm.
* Phương pháp thống kê xử lí số liệu: Xử dụng công thức toán thống kê để xử
lí số liệu thu thập được nhằm đánh giá kết quả thực nghiệm.
5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm
- Đổi mới một số thí nghiệm trong các bài thực hành sinh học 10 ( nâng cao)
- Đổi mới các thí nghiệm theo hướng phát triển năng lực thực hành cho học sinh.

2


Phần 2: NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận của việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học ở trường THPT.
1.1. Thí nghiệm sinh học

1.1.1. Khái niệm thí nghiệm sinh học
Thí nghiệm sinh học là mô hình nhân tạo, mô phỏng quá trình cơ chế sinh
học để qua đó con người hiểu biết bản chất của các hiện tượng, đối tượng sống
[1].
- Thí nghiệm là cầu nối giữa lí thuyết với thực tiễn.Vì vậy, TN là phương tiện
duy nhất giúp học sinh hình thành kĩ năng, kĩ xảo thực hành và tư duy kĩ thuật
[2] :
+ Kĩ năng lắp ráp và sử dụng các dụng cụ thí nghiệm.
+ Kĩ năng thao tác và tiến hành thí nghiệm.
+ Kĩ năng phân tích các hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm.
+ Kĩ năng sử dụng các phương pháp thống kê, xử lí kết quả TN để rút ra kết
luận.
- TN giúp học sinh tìm hiểu bản chất của các hiện tượng hay quá trình sinh học.
- TN có thể sử dụng để tổ chức các hoạt động nhận thức của học sinh với các
mức độ tích cực, tự lực và sáng tạo khác nhau như thông báo, tái hiện, tìm tòi,
nghiên cứu [2].
1.1.2. Phân loại thí nghiệm sinh học
Căn cứ vào mục đích sử dụng thí nghiệm trong các nhóm phương pháp dạy
học khác nhau. Thí nghiệm được phân loại như sau[2]:
- Thí nghiệm chứng minh: Thí nghiệm được sử dụng trong nhóm trực quan với
vai trò minh họa cho lời giảng của giáo viên.
- Thí nghiệm nghiên cứu: Thí nghiệm được sử dụng trong nhóm trực quan với
vai trò là nguồn dẫn đến tri thức mới cho người học.
- Thí nghiệm thực hành: Thí nghiệm được sử dụng trong nhóm thực hành với vai
trò củng cố tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho người học.
1.1.3. Yêu cầu đối với thí nghiệm
- Trước khi tiến hành TN giáo viên phải chỉ rõ mục đích TN, vai trò của các
dụng cụ thí nghiệm [1]
- Thí nghiệm phải đơn giản, dễ tiến hành, vừa sức với học sinh, tránh nhừng thí
nghiệm phức tạp [1].

- Số lượng thí nghiệm, thời gian thí nghiệm phải hợp lí, hạn chế kéo dài thí
nghiệm quá thời lượng cho phép của một tiết học [1].
- Sau khi tiến hành TN phải tổ chức cho học sinh thảo luận dựa trên kết quả
quan sát và các câu hỏi đã nêu ra từ trước. Những kết luận của học sinh phải
được giáo viên bổ sung và chính xác hóa [1].
1.2. Thí nghiệm thực hành
1.2.1. Khái niệm thí nghiệm thực hành

3


Thí nghiệm thực hành là thí nghiệm do học sinh tự tiến hành theo hướng dẫn
của giáo viên, có thể sử dụng để hình thành kiến thức mới hoặc củng cố hoàn
thiện tri thức, rèn luyện kĩ năng cho học sinh. [3]
Thí nghiệm thực hành có 2 loại:
- Thí nghiệm thực hành nghiên cứu
- Thí nghiệm thực hành củng cố
1.2.2. Vai trò của thí nghiệm thực hành
- TN thực hành là phương pháp nghiên cứu đối tượng và hiện tượng trong điều
kiện nhân tạo nhằm tìm hiểu ảnh hưởng của một hay một vài yếu tố xác định
nhằm theo dõi một vài quá trình sinh học nhất định [1] [9] .
- TN thực hành cho phép học sinh đi sâu tìm hiểu bản chất của vấn đề cần
được nghiên cứu. Vì vậy, có tác dụng giúp học sinh nắm vững và khắc sâu kiến
thức [2].
- Trong khi tiến hành TN học sinh phải trực tiếp tác động vào đối tượng TN,
chủ động thay đổi các điều kiện TN, lắp ráp dụng cụ TN và tự tiến hành tất cả
các thao thác của TN. Vì vậy, ngoài tác dụng về mặt trí dục, TN thực hành còn
có tác dụng rèn luyện một số kĩ năng, kĩ xảo như: kĩ năng lựa chọn đối tượng
TN, kĩ năng lắp ráp dụng cụ TN, kĩ năng thao tác thực hành trên đối tượng
nghiên cứu [2].

1.2.3. Yêu cầu của phương pháp thực hành thí nghiệm
- Để TN thu được kết quả tốt, giáo viên cần xác định rõ mục đích yêu cầu,
hướng dẫn cách thức tiến hành, theo dõi, thu thập số liệu, phân tích kết quả.
Giáo viên nên có phiếu chỉ dẫn in sẵn hoặc viết lên bảng để học sinh có định
hướng trong quá trình thí nghiệm [9].
- Sau khi tiến hành xong TN, giáo viên cần tổ chức cho học sinh thảo luận, giải
thích, thiết lập mối quan hệ nhân quả giữa các hiện tượng sinh học. Trên cơ sở
đó học sinh vạch ra bản chất bên trong của các sự vật, hiện tượng đang nghiên
cứu. Yêu cầu học sinh viết bài tường trình về bài thực hành để đánh giá mức độ
lĩnh hội tri thức của các em [8].
2. Thực trạng của việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học ở trường
THPT
2.1.Thực trạng về cơ sở vật chất
Trong tiến trình đổi mới PPDH theo hướng phát triển năng lực của học sinh,
thiết bị dạy học đã được trang bị tương đối đầy đủ, phần nào đáp ứng các yêu
cầu của các trường THPT. Tuy vậy, thực trạng thiết bị dạy học vẫn còn rất nhiều
hạn chế, thể hiện:
- Thiết bị dạy học vẫn thiếu nhiều do quy mô, hệ thống trường THPT rộng lớn
và yêu cầu của chương trình SGK hiện hành. Do đó, tình trạng "Dạy chay - học
chay" còn đang phổ biến ở nhiều địa phương, nhiều vùng miền.
- Có sự chênh lệch trong việc trang bị và sử dụng thiết bị dạy học giữa các
thành phố, thị xã, với các vùng nông thôn và miền núi.
- Chất lượng thiết bị dạy học còn nhiều hạn chế: Nhiều thiết bị dạy học không
đảm bảo chất lượng, không đạt những yêu cầu tối thiểu về tính khoa học và tính
4


thẩm mĩ, có nhiều thiết bị dạy học mua về mà không được sử dụng. Mặt khác,
nhiều thiết bị dạy học ở các trường THPT quá cũ nên khi tiến hành TN cho kết
quả thiếu chính xác [5].

Ở Thanh Hóa, tiến trình đổi mới đổi mới PPDH đã được quan tâm đầu tư
vài năm trở lại đây, từng bước được triển khai ở các trường THPT. Chính vì vậy,
việc sử dụng TN và các phương tiện trực quan trong dạy học đang được quan
tâm. Tuy nhiên, so với số lượng học sinh thì mức độ đầu tư thiết bị dạy học còn
thiếu và gặp nhiều khó khăn.
Ở trường THPT Lê Hoàn chúng tôi, tình trạng chung là cơ sở vật chất cho
tiết thực hành còn nhiều hạn chế như:
+ Không có phòng thực hành riêng cho các bộ môn đặc thù như : môn sinh
học, hóa học, vật lí…
+ Các dụng cụ và hóa chất TN không đầy đủ, không đảm bảo chất lượng cho
tiết thực hành, nhiều hóa chất quá hạn sử dụng, thiết bị cũ, hỏng cho kết quả
không chính xác.
+ Thiếu giáo viên phụ trách các thiết bị, dụng cụ cho từng bộ môn,…
+ Nhiều giáo viên còn có tâm lí ngại dạy các tiết thực hành vì có nhiều bất cập
Với thực trạng về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học như trên. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài, tôi giới thiệu và đổi mới một số điều kiện TN, dụng cụ,
hóa chất, đưa ra các phương án TN đơn giản, dễ làm giúp học sinh thực hiện TN
đạt hiệu quả cao.
2.2. Thực trạng sử dụng thí nghiệm trong dạy học sinh học ở trường
THPT
Mặc dù TN có vai trò quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học sinh
học nói riêng, nhưng trên thực tế TN vẫn chưa mang lại hiệu quả mong muốn.
Trên thực tế, nhiều bài thực hành TN được tiến hành nhưng chưa đạt mục tiêu đề
ra, các phương tiện TN, các dụng cụ TN hiện đại còn rất hạn chế, đặc biệt là sự
thiếu thốn các dụng cụ, hóa chất TN ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu,
vùng xa. Sự đơn điệu của các TN có sẵn dẫn đến tình trạng ''dạy chay - học
chay", gò ép học sinh công nhận kiến thức. Mặt khác ta thấy, các giáo viên dạy
khoa học tự nhiên nói chung và giáo viên sinh học nói riêng không muốn tiến
hành TN vì dụng cụ, hóa chất TN không đầy đủ, không đảm bảo cho tiết thực
hành, tốn thời gian, kĩ năng thực hành kém…

Tôi nhận thấy rằng việc sử dụng TN trong dạy học sinh học ở các trường
THPT trong huyện Thọ Xuân như trường THPT Lê Hoàn, THPT 4 Thọ Xuân,
THPT Lê Lợi, THPT Thọ Xuân 5, THPT Lam Kinh … còn chưa có hiệu quả vì
thiếu thốn các cơ sở vật chất để tiến hành TN như tôi đã đề cập ở trên, gây ra
nhiều khó khăn cho giáo viên trong quá trình dạy học. Từ những khó khăn trên,
tôi đã mạnh dạn nghiên cứu và đổi mới một số thí nghiệm về các nội dung sau:
+ Thay thế một số nguyên liệu phù hớp với từng địa phương, từng vùng miền,
từng mùa và với từng thời điểm thí nghiệm.
+ Thay thế một số hóa chất, dụng cụ thực hành dễ kiếm, rẻ tiền hoặc có thể tận
dụng các vật dụng xung quanh đời sống chúng ta
5


+ Xây dựng các phương án TN đơn giản, thao tác dễ tiến hành giúp giáo viên
và học sinh dễ dàng tiến hành thí nghiệm mà vẫn đảm bảo mục tiêu bài thực
hành, đồng thời khắc phục một phần những bất cập nêu trên.
Chương 2: ĐỔI MỚI MỘT SỐ THÍ NGHIỆM TRONG CHƯƠNG TRÌNH
SINH HỌC 10 (NÂNG CAO)
1.Thí nghiệm đơn giản
1.1. Khái niệm:
Thí nghiệm đơn giản là thí nghiệm được tiến hành với các vật liệu, dụng cụ
thông thường, dễ kiếm, rẻ tiền, được giáo viên và học sinh sưu tầm, thiết kế và
sử dụng các hiện tượng đơn giản thuộc phạm vi chương trình phổ thông, đảm
bảo thời lượng tiết học và mục tiêu bài học [6].
Thí nghiệm đơn giản có đặc điểm: đơn giản, dễ làm, tiện lợi, phù hợp vì thế
nên tính khả thi cao. TN được tiến hành với nguyên liệu gần gũi, dụng cụ cải
tiến, dễ kiếm, không tốn kém phù hợp với các trường dụng cụ, thiết bị TN còn
hạn chế. Hoặc có thể thay thế những hóa chất phù hợp, không độc, dễ kiếm,
nhanh cho kết quả, song vẫn đảm bảo được mục tiêu TN. Do đó, TN đơn giản
góp phần đáng kể trong việc tăng cường tính trực quan trong dạy học sinh học ở

trường THPT[12].
1.2. Vai trò của thí nghiệm đơn giản
- Tránh được tính chất giáo điều, hình thành logic bài giảng chặt chẽ, phát huy
vai trò tự tìm tòi khám phá của học sinh.
- Kích thích hứng thú học tập của học sinh, từ những dụng cụ hóa chất đơn giản
dễ tìm học sinh có thể tự tiến hành ở nhà hoặc tiến hành các phương án thí
nghiệm khác nhau để khắc sâu kiến thức.
- Thông qua tiến hành thí nghiệm giúp học sinh hình thành các khái niệm, quá
trình hay quy luật sinh học, giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức khoa học.
1.3. Yêu cầu của việc xây dựng và sử dụng thí nghiệm đơn giản
- Thí nghiệm phải đảm bảo tính trực quan cao, số lượng dụng cụ phải đủ, dụng
cụ thí nghiệm đủ lớn để quan sát rõ các hiện tượng thí nghiệm. Như vậy các thí
nghiệm phải được bố trí hợp lí, khoa học, dễ quan sát [2] [12].
- Thí nghiệm phải gắn với kiến thức bài giảng, phải là thí nghiệm cần thiết của
chương trình sách giáo khoa và hợp logic lập luận của giáo viên [3].
- Thí nghiệm phải ngắn gọn vì thời lượng của một tiết học có hạn (45 phút). Nếu
thí nghiệm có thể làm trước ở nhà và đem lên lớp để quan sát, khi đó giáo viên
phải hướng dẫn học sinh thực hiện trước để đảm bảo chất lượng bài thực hành
[3].
- Thí nghiệm phải đảm bảo thành công, các lần thí nghiệm phải cho kết quả như
nhau hoặc gần như nhau, phù hợp với thực tiễn, đảm bảo uy tín của giáo viên và
tạo niềm tin vào khoa học cho học sinh [12].
6


- Thí nghiệm phải có sức thuyết phục, các hiện tượng xảy ra phải đặc trưng thể
hiện đặc tính cụ thể của sinh vật, TN phải đảm bảo tính khoa học, đúng đắn,
không áp đặt kết quả. Nếu có sử dụng hóa chất phải đảm bảo an toàn khi sử
dụng [12].
2. Đổi mới và xây dựng các phương án thí nghiệm đơn giản.

2.1. Thí nghiệm nhận biết một số thành phần hóa học của tế bào
Thí nghiệm 1: Nhận biết tinh bột
* Phương án 1:
a. Nguyên liệu: Khoai lang, khoai tây, sắn, củ từ, nước vo gạo (hay dung dịch
hồ tinh bột gạo)…
b. Dụng cụ, hóa chất:
- Dụng cụ: Ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm
- Hóa chất: Dung dịch lugol (2g KI + 1g I2/300 ml H2O)
c. Cách tiến hành [11]:
- Khoai lang cắt thành mẫu nhỏ cho vào cối sứ nghiễn nhuyễn
- Cho thêm 5ml H2O và lọc lấy dịch tinh bột cho vào ống nghiệm (hay cho 5ml
nước vo gạo vào ống nghiệm).
- Sau đó nhỏ vào giọt lugol vào ống nghiệm
- Quan sát hiện tượng và giải thích
d. Kết quả: Dung dịch trong ống nghiệm chuyển sang màu xanh tím
Hình 2.1: Dịch tinh bột khoai lang bắt màu xanh tím
e. Kết luận: Trong dung dịch có tinh bột
*Phương án 2:
a. Nguyên liệu: Khoai lang, khoai tây, sắn, ngô hạt, củ cải, củ từ, cà rốt…
b. Dụng cụ và hóa chất:
-Dụng cụ: Dao, đĩa đựng ( đĩa sứ hoặc đĩa petri)
- Hóa chất: Dung dịch lugol (2g KI + 1g I2/300 ml H2O)
c. Cách tiến hành [7]:
- Dùng dao cắt củ khoai lang thành từng khúc có độ dày 0,5-1cm
- Nhỏ vài giọt lugol lên bề mặt lát cắt
- Quan sát hiện tượng và giải thích
d. Kết quả: Trên bề mặt lát cắt dần dần chuyển thành màu xanh tím
a)Trên lát khoai lang
Hình 2.2: Nhận biết tinh bột
e. Kết luận: Trong thành phần củ khoai lang và khoai tây có tinh bột

7


* Phương án 3:
a. Nguyên liệu: - Bột mì, bột lọc, bột khoai lang, bột gạo…
- Củ khoai lang, củ khoai tây, củ sắn, củ từ, củ đậu,…
b. Dụng cụ và hóa chất:
- Dụng cụ: Kính hiển vi, lam kính, lamen, dao, đèn cồn, thìa nhỏ (thìa cà phê)
- Hóa chất: Nước (H2O)
c. Cách tiến hành [7]:
- Cắt một lát khoai lang, sau đó dùng thìa nạo lấy một ít bột (có thể hòa một ít
bột mì với nước)
- Lấy một ít bột đó lên lam kính với 1 giọt nước đậy lamen lại
- Quan sát dưới kính hiển vi
d. Kết quả: Quan sát thấy: Hạt tinh bột có nhiều hình dạng khác nhau như: hình
tròn, bầu dục,hình khối đa diện, …Các hạt tinh bột có màu sáng
Hình 2.3: Nhận biết hạt tinh bột khoai lang dưới kính hiển vi (X10, X40)
e. Kết luận: Tế bào thực vật có các hạt tinh bột với nhiều hình dạng khác nhau
*Phương án 4:
a. Nguyên liệu: Các loại lá cây như: lá rau cải, lúa, ngô, sắn, khoai lang, …
b. Dụng cụ và hóa chất:- Dụng cụ: đèn cồn, ống nghiệm, kẹp ống nghiệm
- Hóa chất: Cồn 960, dd KI (hay dd lugol)
c. Cách tiến hành [7]:
- Cho lá cây khoai lang vào ống nghiệm, cho tiếp cồn vào ngập lá.
- Đun sôi ống nghiệm trên ngọn lửa đèn cồn để rút hết diệp lục ra ngoài và làm
tinh bột chuyển thành hồ tinh bột.
- Lấy lá ra ngoài và nhúng vào dung lịch KI loãng (hay dung dịch lugol)
- Quan sát hiện tượng và giải thích.
d. Kết quả: Mô lá chuyển sang màu xanh tím
Hình 2.4: Nhận biết tinh bột ở lá khoai lang

e. Kết luận: - Trong lá cây có tinh bột,
- Tinh bột tác dụng với iốt tạo hợp chất màu xanh tím
► Nhận xét các phương án thí nghiệm:
Các phương án thí nghiệm chúng tôi đề xuất ở trên cơ bản là khác sgk
song vẫn đảm bảo được mục đích và nội dung của thí nghiệm nhận biết tinh bột.
- Các phương án thí nghiệm trên đưa ra nhiều nguyên liệu ở dạng lá, củ, bột…
rất đa dạng, đó là những nguyên liệu chế biến sẵn như bột mì, bột gạo… ,các
loại lá cây trong tự nhiên dùng trong đời sống hằng ngày như các loại lá cây, hay
8


trong thực phẩm của con người (nước vo gạo, nước cơm…). Đây đều là những
nguyên liệu phổ biến trong đời sống hằng ngày và mùa nào cũng có, địa phương
nào cũng có. Các phương án thí nghiệm trên đã tạo nên tính tiện lợi để tiến hành
thí nghiệm, tạo nên sự linh hoạt khi sử dụng các phương án thí nghiệm phù hợp
với từng trường, từng địa phương.
- Các phương án thí nghiệm hầu như cũng sử dụng các dụng cụ mà tối thiểu ở
các phòng thí nghiệm đều có.
- Các phương án thí nghiệm trên hóa chất được sử dụng rất linh hoạt. Ví dụ:
cùng sử dụng một dạng nguyên liệu như nhau nhưng có thể nhận biết bởi nhiều
hóa chất khác nhau, hay cùng một loại hóa chất có thể sử dụng cho nhiều
phương án thí nghiệm khác nhau…
- Ở những trường có đầy đủ các thiết bị và dụng cụ thí nghiệm, có thể tiến hành
nhận biết các tinh thể (hạt) tinh bột dưới kính hiển vi như đã nêu ở phương án 3,
còn các địa phương khác còn hạn chế về trang thiết bị dạy học thì có thể sử dụng
các phương án cơ bản đã nêu ở trên.
Thí nghiệm 3: Nhận biết prôtêin
* Phương án 1:
a.Nguyên liệu: Lòng trắng trứng (prôtêin trứng)
b.Dụng cụ và hóa chất:

- Dụng cụ: Ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm, giấy thấm
- Hóa chất: Tinh thể muối ăn (NaCl)
c. Cách tiến hành [11]:
- Cho vào ống nghiệm 3ml prôtêin trứng
- Cho tiếp NaCl vào cho đến khi đạt nồng độ bão hòa (tức là khi NaCl không tan
thêm được nữa).
- Để khoảng 5 phút. Quan sát hiện tượng và giải thích.
d. Kết quả: Trong ống nghiệm xuất hiện kết tủa đó là prôtêin
Hình 2.5: Prôtêin trứng kết tủa trong NaCl bão hòa
e.Kết luận: Có prôtêin trong lòng trắng trứng, đây là loại prôtêin không tan
trong các muối bão hòa.
*Phương án 2:
a.Nguyên liệu:- Lòng trắng trứng (prôtêin trứng)
- Dung dịch lá cây tươi, đậu nành (hay các loại hạt giàu prôtêin)
b. Dụng cụ và hóa chất:
- Dụng cụ: Ống nghiệm, giá đựng ống nghiệm, cối chày sứ, đèn cồn
- Hóa chất: + Dung dịch NaOH 10%,
+ Dung dịch CuSO4 0,2%,

9


+ Tinh thể urê -CO (NH2)2
c. Cách tiến hành [11]:
- Cho vào ống nghiệm 1 vài tinh thể urê, cho thêm 2ml H 2O vào để hòa tan urê.
Thêm 1ml dung dịch NaOH 10% vào ống nghiệm, sau đó thêm 1 giọt CuSO 4
0,2%. Quan sát hiện tượng.
- Cho 1ml dung dịch prôtêin trứng vào ống nghiệm 2 (hay có thể thay thế bằng
lá cây tươi hay đậu nành nghiền nhuyễn cho thêm nước vào và lọc lấy dịch).
Thêm 2ml dung dịch NaOH 10% vào ống nghiệm 2, sau đó thêm tiếp 1 giọt

dung dịch CuSO4 0,2%. Quan sát hiện tượng.
d. Kết quả:
- Ống nghiệm 1 xuất hiện màu xanh tím đặc trưng của phản ứng biurê.
- Ống nghiệm 2 xuất hiện màu xanh tím đặc trung của phản ứng biurê.
a)Urê 5%

b) Prôtêin trứng
c) Prôtêin lá cây
Hình 2.6: Phản ứng biurê nhận biết prôtêin
►Nhận xét về các phương án thí nghiệm:
- Ở Thí nghiệm nhận biết prôtêin chúng tôi đã lựa chọn và bổ sung thêm 2
phương án thí nghiệm để nhận biết prôtêin trong thành phần tế bào. Việc sử
dụng lòng trắng trứng và lá cây tươi như lá khoai lang, rau cải bẹ (hay một số
loại hạt giàu prôtêin như hạt đậu nành) cũng rất hợp lí vì chúng ta có thể tiến
hành trên 2 đối tượng điển hình là thực vật và động vật.
- Việc chuẩn bị các nguyên liệu như các loại lá cây tươi (lá cây họ đậu…) giáo
viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị trước ở nhà (chia theo tổ). Mỗi phương án
thí nghiệm đều thể hiện cách thức để nhận biết prôtêin khác nhau và đều có tính
thiết thực, khả thi. Đặc biệt là ở phương án 1 chúng tôi sử dụng các nguyên liệu,
dụng cụ, hóa chất và cách tiến hành rất đơn giản nên học sinh có thể tự làm ở
nhà hay làm tại lớp một cách nhanh chóng và dễ dàng, nhưng vẫn đảm bảo mục
đích, nội dung và kết quả thí nghiệm.
2.2. Thí nghiệm quan sát tế bào dưới kính hiển vi
*Phương án 1:
a. Nguyên liệu: các loại quả như đu đủ chín, ớt đỏ, cà chua chín, quả hồng, cà
rốt, xoài chín…
b. Dụng cụ: Dao lam, kính hiển vi, lam kính, lamen, kim mũi mác
c. Cách tiến hành [11]:
- Dùng dao lam lấy một mẫu nhỏ phần thịt quả cà chua chín (hay thịt quả đu đủ
chín, quả hồng… )

- Đặt lên lam kính, đậy lamen, sau đó dùng tay miết nhẹ trên lamen để dàn đều
tế bào.

10


- Đưa tiêu bản lên kính hiển vi quan sát, ban đầu quan sát tế bào ở độ bội giác
X10, sau khi định vị được vị trí của tế bào thì chuyển sang độ bội giác X40
- Quan sát và vẽ hình dạng tế bào quan sát được
d. Kết quả:
Thấy các tế bào cà chua chín có màu hồng nhạt, hình bầu dục hoặc hình tròn.
a)Tế bào thịt quả cà chua
b) Tế bào thịt quả xoài
Hình 2.7: Hình dạng tế bào dưới kính hiển vi (X40)
e. Kết luận: Các tế bào thực vật có vách xenllulôzơ, có nhiều hình dạng khác
nhau
* Phương án 2:
a. Nguyên liệu: - Gan động vật sống (gà, lợn, vịt, ngỗng…)
- Máu động vật
b. Dụng cụ: Kính hiển vi, lam kính, lamen, dao, cối chày sứ
c. Cách tiến hành :
- Gan loại bỏ lớp màng ngoài, cắt một miếng nhỏ cho vào cối sứ nghiền nhuyễn,
thêm nước vào và lọc lấy dịch lọc (có thể sử dụng máu động vật hòa loãng)
- Nhỏ 1 giọt dịch lọc lên lam kính đậy lamen lại.
- Quan sát các tế bào lần lượt ở độ bội giác X10 và X40
d. Kết quả: - Các tế bào gan sắp xếp thành một tập hợp mô.
- Các tế bào máu các tế bào hồng cầu có hình đĩa dẹp màu hồng
Hình 2.8: Hình dạng tế bào gan
e. Kết luận: Các tế bào động vật không có vách xenllulôzơ
►Nhận xét về các phương án thí nghiệm:

Ở các phương án thí nghiệm, chúng tôi đã tìm hiểu và lựa chọn thêm một số
đối tượng có kích thước tế bào lớn, có màu sắc dễ quan sát nhằm làm phong phú
thêm nguồn nguyên vật liệu thí nghiệm. Mặt khác còn giúp giúp học sinh nhận
biết và so sánh sự khác nhau giữa tế bào động vật và tế bào thực vật.
- Trong tiết thực hành giáo viên có thể cho học sinh tiến hành thí nghiệm trên cả
đối tượng tế bào thực vật và tế bào động vật. thí nghiệm này không yêu cầu thao
tác thí nghiệm phức tạp nên học sinh có thể tiến hành thí nghiệm một cách
nhanh chóng, thời gian quan sát lâu hơn, kĩ hơn về các đối tượng thí nghiệm.
Thời lượng thực hành đảm bảo chỉ thực hiện trong một tiết học.
2.3. Thí nghiệm về sự thẩm thấu và tính thấm của tế bào
Thí nghiệm 1: Sự thẩm thấu của tế bào.
a. Nguyên liệu: Khoai lang, cà rốt su su, củ từ…
b. Dụng cụ và hóa chất:
11


- Dụng cụ: đĩa sứ hoặc chén sứ, đèn cồn (đèn dầu, bếp ga mini…), cốc thủy tinh
hoặc nồi nhôm, dao.
- Hóa chất: đường kính trắng
c. Cách tiến hành [4], [13]:
- Khoai lang để nguyên vỏ luộc chín, để nguội, cắt thành hình chiếc cốc ( như
hình) (Cốc A)
- Lấy khoai lang sống cắt thành 2 cốc (cốc B và C)
- Đặt 3 cốc khoai lang vào 3 đĩa sứ, đổ nước vào 3 đĩa, tiếp đến là cho đường
tinh thể vào cốc A và cốc B, còn cốc C không bỏ đường
- Quan sát hiện tượng xảy ra sau các thời điểm 10 phút, 20 phút, 30 phút
d. Kết quả: Qua các thời điểm khác nhau ta thấy:
Cốc A: nước không vào; Cốc B: nước đi vào cốc; Cốc C: nước không đi vào cốc
a)Sau 10 phút
b) sau 20 phút

c) sau 30 phút
Hình 2.9: Thí nghiệm sự thẩm thấu của tế bào (cốc khoai lang)
e. Kết luận:
- Cốc A ( khoai lang chín có đường): nước không vào do tế bào đã bị chết khi bị
luộc chín → do đó mất đi khả năng thẩm thấu ( chúng trở nên thấm tự do)
- Cốc B (khoai lang sống có đường): Nước vào trong cốc do sự chênh lệch áp
suất thẩm thấu vì các tế bào còn sống nên màng tế bào có tính thấm chọn lọc.
- Cốc C: (khoai lang sống không đường): nước không đi vào trong cốc → sự
thẩm thấu không xảy ra khi không có sự chênh lệch nồng độ
→ Như vậy, chúng ta thấy rằng sự thẩm thấu chỉ xảy ra ở tế bào sống khi có sự
chệnh lệch áp suất thẩm thấu.
►Nhận xét về các phương án thí nghiệm:
- Chúng tôi đã tiến hành thí nghiệm trên nhiều đối tượng, tiến hành nhiều lần và
nhận thấy rằng để thí nghiệm thành công cần lưu ý: các loại củ thí nghiệm nên
để nguyên vỏ luộc chín, sau đó cắt thành cốc
- Ta có thể tận dụng được các dụng cụ thường ngày như đĩa sứ, bếp ga, đèn dầu,
nồi…Như vậy, việc sử dụng linh hoạt các đối tượng và dụng cụ thí nghiệm thì
giáo viên sẽ dễ dàng có một tiết thực hành hiệu quả bất cứ khi nào và luôn đảm
bảo nội dung chương trình.
Thí nghiệm 2: Tính thấm của tế bào sống và tế bào chết
a.Nguyên liệu: Giá đỗ tươi, rễ phong lan, rễ si…
b. Dụng cụ và hóa chất: Dụng cụ: KHV, lam kính, lamen, đèn cồn,dao lam
Hóa chất: Xanh mêtilen hoặc đỏ fucsin (hay mực xanh thiên long)
c. Cách tiến hành [10], [13]: Dùng dao lam tách ra 10 rễ phong lan (hoặc rễ giá
đỗ) dài khoảng 2 -3 mm chia thành 2 phần:

12


+ Phần 1: để sống đem ngâm trong xanh mêtilen

+ Phần 2: cho vào ống nghiệm đun sôi cách thủy trong 5 phút để giết chết tế
bào. Để nguội sau đó đem ngâm trong xanh mêtilen.
- Ngâm sau 5-7 phút lấy 2 phần ra rửa sạch bằng nước. Ở mỗi phần lấy một
mẫu, dùng dao lam cắt thành lát cắt mỏng đưa lên lam kính với giọt nước, đậy
lamen. Quan sát hiện tượng và giải thích.
d. Kết quả: - Tiêu bản chóp rễ sống (phần 1) không bắt màu thuốc nhuộm
- Tiêu bản chóp rễ chết (phần 2) bắt màu xanh của mêtilen
a)Rễ phong lan sống
b) Rễ giá đỗ sống
Hình 2.10: Tính
thấm của tế bào giá đỗ và phong lan
e. Kết luận: Các tế bào sống có khả năng thấm chọn lọc ngăn cản các chất độc
hại xâm nhập vào trong tế bào ( như xanh mêtilen, đỏ fucsin, mực xanh…) nên
các tế bào không bị nhuộm màu.
Các tế bào chết mất khả năng thấm chọn lọc nên thuốc nhuộm xâm nhập vào tế
bào chất.
►Nhận xét về các phương án thí nghiệm:
Nếu thí nghiệm này tiến hành như sgk thì không khả thi vì: Cần chuẩn bị
trước phôi nảy nầm vài ngày, thời gian ngâm mẫu quá lâu (2 giờ) không đảm
bảo trong 1 tiết thực hành.
Trên cơ sở đó , chúng tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu thêm một số đối tượng để
khắc phục những bất cập trên, song vẫn đảm bảo được mục đích và nội dung
TN. Mặt khác, nhờ nguồn nguyên liệu phong phú mà GV và HS hoàn toàn có
thể chủ động cho tiết thực hành. Cách tiến hành đơn giản và mang lại hiệu quả
cao, đồng thời khai thác và phát triển năng lực thực hành, tự tìm tòi, tự học của
HS.
Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
1. Mục đích thực nghiệm
- Tìm hiểu kĩ năng, thái độ, phản ứng của học sinh trước các bài thực hành có sử
dụng thí nghiệm đơn giản.

- Kiểm chứng hiệu quả, tính khả thi của việc sử dụng TN đơn giản đã khai thác
trong quá trình nghiên cứu nhằm phát triển năng lực thực hành cho học sinh
trong chương trình sinh học 10 (nâng cao).
2. Nội dung thực nghiệm
- Nội dung thực nghiệm được tiến hành trong học kì I năm học 2018-2019 tại
trường THPT Lê Hoàn- Thọ Xuân - Thanh Hóa.
- Ở các tiết thực hành tại các lớp, giáo viên sử dụng giáo án do tôi soạn để
hướng dẫn và theo dõi học sinh tiến hành các thao tác thí nghiệm.
- Các bài dạy thực nghiệm là:
13


+ Bài 12: Thực hành: Thí nghiệm nhận biết một số thành phần của tế bào
+ Bài 20: Thực hành: Thí nghiệm sự thẩm thấu và tính thấm của tế bào
3. Phương pháp thực nghiệm:
3.1. Chọn đối tượng thực nghiệm.
- Sau khi trao đổi với giáo viên sinh học dạy các lớp khối 10 (ban cơ bản A),
Tôi đã chọn 4 lớp 10 gồm 2 lớp đối chứng và 2 lớp thực nghiệm. Trong đó:
Lớp đối chứng:
Lớp 10A2 (n = 41); lớp 10A4 (n = 43)
Lớp thực nghiệm: Lớp 10A1 (n = 42); lớp 10A3 ( n = 44)
Các lớp đối chứng và thực nghiệm có sĩ số ngang nhau, kết quả học tập tương
đương nhau, điều kiện tổ chức dạy học tương đối đồng đều.
3.2. Tiến hành thực nghiệm.
- Ở các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng đều do một giáo viên dạy
- Lớp thực nghiệm giáo viên dạy theo giáo án do tôi soạn
- Lớp đối chứng giáo viên dạy theo giáo án của giáo viên đứng lớp soạn.
- Tôi trực tiếp dự giờ tất cả các buổi thực hành của các lớp đối chứng và thực
nghiệm. Quan sát và ghi chép các hoạt động dạy học của giáo viên và học sinh
để đánh giá kết quả thực nghiệm sư phạm qua các mặt:

+ Về chất lượng: Kiểm tra các thao tác kĩ thuật thục hành, chất lượng bài thu
hoạch, số câu trả lời đúng.
+ Về thái độ: Tạo không khí sôi nổi trong tiết thực hành thông qua các hoạt động
nhóm, thảo luận và trao đổi ý kiến, nhận xét kết quả thí nghiệm.
+ Bài kiểm tra: Sau bài thực hành giáo viên cho học sinh làm bài kiểm tra 15
phút để đánh giá kết quả.
Qua đó, GV đánh giá mức độ tiếp thu kiến thức và sử dụng các đối tượng,
dụng cụ, hóa chất và các phương án TN. Từ đó đánh giá tính khả thi của đề tài.
4. Kết quả thực nghiệm sư phạm
4.1. Xử lí số liệu bằng thống kê toán học
- Sư dụng một số công thức toán thống kê để xử lí số liệu, thống kê, đánh giá kết
quả thực nghiệm.
- Sử dụng các dạng đồ thị, biểu đồ hình chữ nhật, biểu đồ đường gấp khúc.. để
so sánh kết quả thực nghiệm.
- Lập bảng thống kê và vẽ đồ thị
- Các tham số đặc trưng:
i n

+ Giá trị trung bình cộng ( X ):

X =


i 1

ni . X i
n

Trong đó: n là số học sinh tham gia kiểm tra
ni là số học sinh đạt điểm Xi

Xi là điểm số trong thang điểm 10
2

+ Phương sai (S ) :



n.X  X
S = i i
n 1
i 1
2

i n



2

14


+ Độ lệch chuẩn (S):
+ Hệ số biến thiên (Cv):



S =  ni X i  X
n 1
i 1

S
Cv = .100%
X
i n



2

Trong đó: Cv = 0 - 10% : độ dao động thấp- độ tin cậy cao
Cv = 10 - 30% : độ dao động trung bình- đáng tin cậy.
Cv = 30 - 100% : độ dao động cao- độ tin cậy thấp
+ Sai số trung bình cộng (m):

m=

S
n

4.2. Đánh giá kết quả:
- Tôi tiến hành kiểm tra đánh giá chính thức 2 bài thực hành với 170 học sinh
tham gia gồm lớp 10A1 (45 HS); 10A2 (44 HS); 10A3 (44 HS); 10A4 (45 HS).
- Tổng số bài thực hành là 178 bài trong đó lần 1 (89 bài), lần 2 (89 bài).
Bài 12: Thực hành : Nhận biết một số thành phần của tế bào
- Lớp đối chứng (ĐC): Lớp 10A2(n= 44)
- Lớp thực nghiệm (TN): Lớp 10A1(n= 45)
* Bảng phân phối thực nghiệm:
phương
xi 0
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
án
ni
ĐC
44
0
0
0
2
5
8
12 9
4
3
1
TN
45
0
0
0
0
1

4
8
13
10
6
3
* Bảng phân phối tần suất (w%)
phương xi 0 1 2 3
4
5
6
7
8
9
10
án
ni
ĐC
44 0 0 0 4,5 13,36 18,18 27,27 20,4 9,09 6,82 2,27
5
5
TN
45 0 0 0 0
2,22 8,89 17,78 28,89 22,20 13,33 6,67
* Bảng các tham số đặc trưng:
Tham số X ± m
S
Cv (%)

Lớp

ĐC
6,14±0,24
1,62
26,38
3,48
TN
7,27 ±0,21
1,44
19,81
* Biểu đồ: ni

15


Xi
Hình 3.1: Biểu đồ tần suất kết quả tổng hợp của bài thực nghiệm số 1
► Nhận xét: Căn cứ vào kết qủa thực nghiệm :
- Điểm trung bình của các lớp TN (7,27) cao hơn các lớp ĐC (6,14)
- Hệ số biến thiên của lớp TN (19,81) thấp hơn lớp ĐC (26,38). Chứng tỏ độ
phân tán của lớp TN giảm so với lớp ĐC. Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi tăng
lên rõ rệt ở các lớp TN, đồng thời số học sinh điểm yếu và trung bình của lớp
TN cũng giảm
- Để khẳng định kết quả trên là do ngẫu nhiên hay áp dụng TN, tôi đã tiến
hành tính toán đại lượng kiểm định td = 3,18 và tα = 1,96 (với α = 0,05 theo bảng
phân phối student) và bậc tự do f = 45 + 43 - 2 = 86, t d > tα chứng tỏ sự sai khác
giữa X TN và X ĐC có ý nghĩa thống kê.
Bài 20: Thực hành: Thí nghiệm sự thẩm thấu và tính thấm của tế bào
Lớp đối chứng: 10A4 (n = 45)
Lớp thực nghiệm: 10A3 (n = 44)
* Bảng phân phối thực nghiệm

phương
xi 0
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
án
ni
ĐC
45
0
0
0
2
5
10 10 9
4
3
2
TN
44
0
0
0

0
1
5
8
10
9
7
4
* Bảng phân phối tần suất (w%)
phương xi 0 1 2 3
4
5
6
7
8
9
10
án
ni
ĐC
45 0 0 0 4,44 11,11 22,22 22,22 20,00 8,89 6,67 4,44
TN
44 0 0 0 0
2,27 11,36 18,18 22,73 20,4 15,91 9,09
5
* Bảng các tham số đặc trưng:
Tham số X ± m
S
Cv (%)


Lớp
ĐC
6,18 ± 0,26
1,72
27,83
3,28
TN
7,32 ± 0,24
1,56
21,31
* Biểu đồ:
ni

16


Xi
Hình 3.2: Biểu đồ tần suất kết quả tổng hợp của bài thực nghiệm số 2
► Nhận xét: Căn cứ vào kết qủa thực nghiệm :
- Điểm trung bình của các lớp TN (7,32) cao hơn các lớp ĐC (6,18)
- Hệ số biến thiên của lớp TN (21,31) thấp hơn lớp ĐC (27,83). Chứng tỏ độ
phân tán của lớp TN giảm so với lớp ĐC. Tỉ lệ học sinh đạt điểm khá, giỏi tăng
lên rõ rệt ở các lớp TN, đồng thời số học sinh điểm yếu và trung bình của lớp
TN cũng giảm rõ rệt.
- Để khẳng định kết quả trên là do ngẫu nhiên hay áp dụng TN, tôi đã tiến
hành tính toán đại lượng kiểm định td = 3,04 và tα = 1,96 (với α = 0,05 theo bảng
phân phối student) và bậc tự do f = 45 + 43 - 2 = 86, t d > tα chứng tỏ sự sai khác
giữa X TN và X ĐC có ý nghĩa thống kê.
Tóm lại, việc sử dụng thí nghiệm đơn giản trong dạy học giúp cho giáo viên
và học sinh chủ động trong tiết thực hành, vừa giảm trở ngại cho giáo viên, vừa

tăng hứng thú học tập cho học sinh, phát triển năng lực thực hành cho học sinh,
góp phần quan trong vào tiến trình đổi mới phương pháp dạy học.
Phần 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sau một thời gian nghiên cứu, thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài đặt
ra ban đầu. Tôi nhận thấy đề tài đã đạt được một số kết quả sau:
1. Bổ sung cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu, xây dụng thí
nghiệm đơn giản trong dạy học sinh học theo hướng phát triển năng
lực thực hành cho học sinh.
2. Đề xuất một số phương án thí nghiệm đơn giản trong các bài thực
hành thuộc chương trình sinh học 10 (nâng cao)
3. Thiết kế được 2 giáo án có sử dụng các phương án thí nghiệm đơn
giản.
4. Nhận thấy được học sinh phát huy được khả năng tái hiện, củng cố
kiến thức, phát triển kĩ năng và thao tác thực hành, góp phần nâng
cao chất lượng mũi nhọn cho HS học chương trình sinh học 10
(nâng cao)
17


5. Thực nghiệm sư phạm cho thấy việc sử dụng thí nghiệm đơn giản
đã đem lại hiệu quả cao và có tính khả thi, có thể áp dụng linh hoạt
trong dạy học sinh học ở trường THPT.
2. Kiến nghị
Qua quá trình nghiên cứu đề tài tôi có một số kiến nghị sau:
- Đổi mới và ứng dụng các thí nghiệm đơn giản để dạy các bài lí thuyết nhằm
thấy rõ tính hiệu quả của các phương án thí nghiệm đơn giản trong dạy học.
- Khuyến khích các giáo viên khai thác và sử dụng các thí nghiệm đơn giản
phù hợp với điều kiện từng địa phương, từng vùng miền, từng trường nâng cao
chất lượng theo hướng phát triển năng lực thực hành cho học sinh góp phần hiện

thực hóa phương châm giáo dục “học đi đôi với hành, lí thuyết gắn liền với thực
tiễn” . Qua đó, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh.
Tôi xin trân thành cảm ơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Thanh hóa, ngày 28 tháng 05 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Luyến

18



×