Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục bằng hình ảnh trong dạy học “bài thơ số 28” của r ta go

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.93 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

TRƯỜNG THPT NGA SƠN
----------***----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP GỢI MỞ QUA CÁCH ĐẶT
ĐỀ MỤC BẰNG HÌNH ẢNH TRONG DẠY HỌC “BÀI
THƠ SỐ 28” CỦA R.TA- GO

Họ và tên : Mai Thị Tâm
Chức vụ : Giáo viên - TTCM
SKKN thuộc môn: Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
1. Mở đầu……………………………………………………………………….1
1.1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………..1
1.2. Mục đích……………………………………………………………...2
1.3. Đối tượng nghiên cứu………………………………………………...2
1.4. Phương pháp nghiên cứu……………………………………………..2
2. Nội dung……………………………………………………………………...2
2.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………2
2.1.1. Phương pháp gợi mở…………………………………….............2
2.1.2. Đề mục……………………………………………………………..2
2.1.3. Tác phẩm thơ trữ tình và cách nói bằng hình ảnh trong văn
học…………………………………………………………………………………………4
2.2. Thực trạng……………………………………………………………5


2.2.1. Thuận lợi…………………………………………………………...5
2.2.2. Khó khăn…………………………………………………………...6
2.3. Cách đặt đề mục trong dạy học thi phẩm trữ tình “Bài thơ số 28”…..7
2.3.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của đề mục………………...7
2.3.2. Đề mục khái quát và cụ thể……………………………………...8
2.3.3. Cấu trúc và ý nghĩa của đề mục……………………………….13
2.3.4. Hệ thống đề mục và sơ đồ tư duy (SĐTD)……………….......13
2.4. Hiệu quả của SKKN………………………………………………...13
3. Kết luận, kiến nghị…………………………………………………………14


Tài liệu tham khảo
Phụ lục
Danh mục đề tài SKKN


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Kích thích tư duy và sự chủ động của học sinh trong quá trình học tập nói
chung và tìm hiểu môn Ngữ văn nói riêng là mục đích mà giáo dục đã và đang
hướng tới. Có như vậy học sinh mới trở thành trung tâm trong việc chiếm lĩnh,
tiếp nhận và làm chủ tri thức.
Đôi khi giáo viên còn có những sai lầm trong quan niệm lấy học sinh làm
trung tâm của hoạt động giáo dục. Cho nên thường hiểu rằng cần phải tạo ra
những việc “to tát”, “lớn lao” thì mới có thể đưa học sinh lên vị trí trung tâm. Vì
thế vô tình đã tạo nên rào cản của quá trình giáo dục tích cực này.
Mặt khác sức ép về mặt thời gian, dạy- học phải bám sát, kịp tiến độ so
với PPCT và mức độ, khả năng tiếp thu kiến thức ở các em học sinh là khác
nhau cũng không phải là điều kiện thuận lợi để tiến hành dạy và học theo hướng
mở. Đặc biệt xu hướng lựa chọn các môn học tự nhiên là chủ yếu khiến cho tâm

lí, thái độ của học sinh khi học các môn xã hội trong đó có bộ môn Ngữ văn khá
thờ ơ, thiếu quan tâm, thiếu tinh thần trách nhiệm.
Nhận thức rõ được thực tế trên, người viết quan niệm rằng muốn đạt được
mục đích lớn thì phải thực hiện từng mục tiêu nhỏ, ngay ở từng bài học, từng
phần, từng mục. Do vậy bản thân đã mạnh dạn vận dụng phương pháp gợi mở,
“gợi” để “mở” qua việc lưu ý đến cách đặt đề mục trong dạy học, nhất là dạy
học tác phẩm thơ trữ tình nhằm gây ấn tượng, tác động trực tiếp đến giác quan
và sau đó là đến nhận thức của học sinh, từ đó các em sẽ chú ý và tự giác hơn
với việc tìm hiểu bài học Ngữ văn.
Khi “thử nghiệm” sáng kiến này, người viết đã nhận được những phản hồi
tích cực từ đồng nghiệp và học sinh. Cũng từ đó bản thân có ý thức tìm hiểu về
vấn đề đặt đề mục trong dạy học môn Ngữ văn nhưng hiện tại vẫn chưa tìm thấy
tài liệu nào đi sâu nghiên cứu vấn đề. Đây vừa là thử thách nhưng cũng là cơ
hội, là động lực để người viết chuyển thành đề tài SKKN với hy vọng chia sẻ và
nhận được những góp ý khách quan, ý nghĩa.
1


1.2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài “Vận dụng phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong
dạy học tác phẩm trữ tình “Bài thơ số 28” của R. Ta- go”, người viết mong
muốn nâng cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng; góp phần truyền cảm hứng học
Văn cùng phương pháp tư duy chủ động, khoa học cho học sinh; chia sẻ kinh
nghiệm với đồng nghiệp trong quá trình dạy học bộ môn Ngữ văn ngày càng
không dễ dàng ở hoàn cảnh xã hội cụ thể hiện nay.
Mục đích của đề tài hướng tới những đối tượng có liên quan trực tiếp
cùng các mối quan hệ mật thiết: giáo viên- học sinh- người nghiên cứu… nhằm
cùng thực hiện mục tiêu cuối cùng của giáo dục, lấy học sinh làm trung tâm, tạo
dựng nền tảng cho nhận thức và ý thức tự giác, tự chủ của các em trong học tập
và cũng như trong cuộc sống sau này.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu xuất phất từ việc vận dụng phương pháp gợi mở
qua cách thức cụ thể của phương pháp là đặt đề mục trong quá trình dạy học tác
phẩm thơ trữ tình, ở đề tài khoa học này là “Bài thơ số 28” của R. Ta- go. Nghĩa
là một tác phẩm văn học và con đường để tìm hiểu, khám phá nó đã trở thành
đối tượng nghiên cứu chủ yếu của SKKN.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, người viết đã vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp
nghiên cứu nhằm phát huy hiệu quả tổng hợp từ ưu thế của từng phương pháp:
phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết, phương pháp điều tra khảo
sát thực tế, thu thập thông tin, phương pháp tâm lý, phương pháp so sánh và một
số thao tác có liên quan.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Phương pháp gợi mở
Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng- người rất quan tâm đến nền giáo dục nước
nhà đã từng khẳng định “Dạy học phải chăng trước hết là dạy suy nghĩ, tìm tòi,
2


sáng tạo”. Trên thế giới, các nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, nhà giáo dục cũng
có những ý kiến tương đồng nhằm thúc đẩy hiệu quả tích cực của phương pháp
gợi mở. Giáo sư, tiến sỹ I.A.Rez đã nhận thấy ở phương pháp này có những khả
năng mà phương pháp khác không thể có: “Sự chiếm lĩnh và phân tích tác phẩm
thường gắn liền với việc giải quyết các vấn đề về nghệ thuật, đặc điểm xã hội
hoặc triết học do nhà văn đặt ra. Nhiệm vụ của giáo viên là giúp học sinh phát
hiện ra các vấn đề đó, tìm thấy con đường giải quyết chúng trong văn bản nghệ
thuật dạy các em phân tích tác phẩm, dạy các em suy luận, phát biểu những suy
nghĩ của mình bằng một ngôn ngữ nói hoặc viết trôi chảy, nhất quán, có sức
thuyết phục. Phương pháp gợi tìm sẽ giúp làm việc đó”.

Phát triển các quan điểm trên, tiến sỹ Nguyễn Văn Đường khẳng định:
“Phương pháp gợi mở là phương pháp chủ công, cốt lõi và hữu hiệu của đổi
mới phương pháp dạy học từ cải cách giáo dục”.
Đi sâu vào các biện pháp của phương pháp này, chúng ta có kỹ năng đàm
thoại với hệ thống câu hỏi “biết hỏi là biết dạy”, các bài làm độc lập (bài tập)…
Tuy vậy cho đến nay, việc vận dụng phương pháp này vẫn chưa đồng bộ
và hiệu quả vì gần như chúng ta vẫn đang ở trong quá trình tìm đường cho nền
giáo dục nói chung, dạy học bộ môn Ngữ văn nói riêng, ở đây là giới hạn trong
phạm vi tìm hiểu tác phẩm thơ trữ tình. Với cách thức, biện pháp đặt đề mục
trong bài học cụ thể, người viết mong muốn góp phần làm sáng rõ, gần gũi, hiệu
quả hơn cho phương pháp gợi mở vốn vẫn “khiêm tốn” ẩn mình trên lý thuyết
mà chưa được vận dụng sâu rộng trong thực tế dạy- học.
2.1.2. Đề mục
Cần phân biệt rõ khái niệm tiêu đề, đề mục để tránh nhầm lẫn. “Tiêu đề”
là lời đề ở đầu một tác phẩm, nêu nội dung chủ yếu; cũng có thể là phần in sẵn ở
bên trên các giấy tờ hành chính, giấy tờ giao dịch thương mại, ghi tên cơ quan,
thường có kèm địa chỉ. “Đề mục” là tên gọi từng phần lớn trong một bài viết,
một công trình nghiên cứu.

3


Linh hoạt vận dụng khái niệm “đề mục” vào bài học Ngữ văn thì đề mục
chính là tên gọi từng phần của nội dung bài học, ở đây chủ yếu là ở phần đọc
hiểu văn bản. Nếu tích hợp tri thức từ phân môn Làm văn, chúng ta hoàn toàn có
quyền coi đề mục là các luận điểm, luận cứ hay ý lớn, ý nhỏ trong bài học. Quan
sát nhanh các đề mục này sẽ kịp thời nắm được nội dung cơ bản của bài học.
Như vậy đề mục có vai trò khá quan trọng trong việc gợi mở, thể hiện và chuyển
tải ý tưởng của bài học.
2.1.3. Tác phẩm thơ trữ tình và cách nói bằng hình ảnh trong văn học

Tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện tư tưởng, tình cảm, nhưng tác phẩm
loại trữ tình lại bộc lộ, biểu hiện tình cảm theo cách riêng. Khi nói đến tác phẩm
trữ tình thì không phải chỉ có thơ trữ tình, còn có tùy bút, thơ văn xuôi… Nhưng
trong đề tài này người viết muốn nhấn mạnh thơ trữ tình- trữ tình tâm tình như
một thể loại tiêu biểu nhất của phương thức sáng tác trữ tình. Mọi sự phân loại
chỉ mang tính tương đối và đôi khi có sự chồng chéo. Do vậy cần căn cứ vào tác
phẩm cụ thể để có cách thức tìm hiểu phù hợp, đảm bảo đặc thù bộ môn với tư
duy hình tượng.
Thơ trữ tình tâm tình bắt nguồn từ tình cảm qua các mối quan hệ của con
người trong cuộc sống hằng ngày: tình yêu trai gái, tình cảm vợ chồng, tình cha
con, bè bạn… Giá trị của loại trữ tình tâm tình giúp cho người đọc ý thức sâu
sắc hơn những tình cảm gần gũi, thông thường.
Đặc điểm cơ bản của tác phẩm trữ tình là sự thổ lộ ý nghĩ, cảm xúc trước
thế giới, trong đó tình cảm là mạch phát triển then chốt của tác phẩm. Mà tình
cảm, cảm xúc không phải là yếu tố đơn giản, dễ dàng để gọi tên theo kiểu “vật
chất hóa”. Như vậy phải có phương pháp gợi mở hợp lí bắt nguồn từ nhận thức
đúng đắn của chúng ta về đặc trưng thể loại tác phẩm văn học.
Cơ sở của phương pháp này xuất phát từ đặc trưng của văn học mà không
một bộ môn khoa học nào cần có, là vấn đề nói bằng hình ảnh, mô tả, diễn đạt,
minh họa và cả lí luận nữa, cũng phải bằng hình ảnh. Đúng như giáo sư Vũ
Ngọc Khánh từng khẳng định: “Không có hình ảnh là không có văn chương”.
4


Chúng ta có thể lấy dẫn chứng về cách diễn đạt bằng hình ảnh của nhà thơ Tố
Hữu trong bài thơ Việt Bắc:
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.

Trong bốn câu thơ trên, có hai chữ thật là quan trọng: chữ “về” và chữ
“lên”. Chữ “về” gợi ra chiều dài trong không gian. Chữ “lên”, lại gợi ra một
chiều cao: từ đáy thung lũng hay đáy biển sâu lên đến những đỉnh núi ngất
thiêng của đất nước. “Trông về” là cái thế đứng của người từ xa, xuyên suốt
đường muôn dặm dài theo đất nước. “Nhìn lên” lại là cái thế đứng của những
người ở dưới đáy, vươn lên đến những tầm cao bay bổng tuyệt vời. Câu thơ đã
bao quát cả không gian, có bề rộng, bề sâu, chiều dài, chiều sâu. Đó mới là cái
lớn lao, cái sâu sắc của hình tượng Việt Bắc trong tấm lòng người dân Việt Nam
ở khắp mọi miền. Còn “u ám quân thù” là quang cảnh hiện hữu, “đau đớn
giống nòi” lại là một hình ảnh sâu lắng, thấm thía cả một nỗi niềm. Chỉ bằng
một số hình ảnh, nhà thơ đã đưa ta vào cả một thế giới vừa bao la, vừa sâu rộng,
có cả cuộc sống bên ngoài và cuộc sống bên trong. Cần nhận thức được sự thật:
sức mạnh kì diệu của thơ thuộc về hình ảnh thơ mà không phân biệt đó là thơ
xưa hay thơ nay, thơ Việt Nam hay thơ thế giới.
2.2. Thực trạng vấn đề
2.2.1. Thuận lợi
Mặc dù theo xu hướng hiện nay, đa số học sinh muốn hoặc bị bắt buộc
theo ý muốn của cha mẹ và đã lựa chọn học các môn tự nhiên là chủ yếu nhưng
vẫn còn có những học sinh yêu thích và học tốt môn Ngữ văn với những phát
hiện độc đáo, thông minh, tinh tế; với những bài kiểm tra xuất sắc; với những
bài thi học sinh giỏi khiến cho thầy cô phải khâm phục, ngưỡng mộ, tự hào.
Chừng ấy thôi cũng đủ lí do để chúng tôi vẫn quan tâm đến văn học, đến thơ trữ
tình.
5


Ngoài ra Ngữ văn cũng là một trong ba môn thi bắt buộc trong kì thi
THPT Quốc gia cho nên dù ít hay nhiều học sinh không thể bỏ qua để chạy theo
thời thế một cách thực dụng.
Văn học, trong đó có thơ trữ tình mang lại cho học sinh và cả giáo viên,

những bạn đồng nghiệp dự giờ không ít giây phút thoải mái, sống có cảm xúc
với cả những nhận thức mới mẻ, thú vị. Do đó mà Ngữ văn là bộ môn giúp cho
mọi người có được sự cân bằng trong tri thức và ý thức; trong học tập và cuộc
sống.
Phương pháp gợi mở đã tạo cơ hội thực sự cho học sinh được đàm thoại,
được hỏi, được trả lời, được thể hiện mình và là chính mình. Điều này đã kích
thích niềm hứng khởi, nguồn năng lượng tích cực ở mỗi học sinh trong giờ học
môn Ngữ văn.
2.2.2. Khó khăn
Sức ép về thời gian của một tiết học, mức độ tiếp nhận không đồng đều
của học sinh, quan niệm sai lầm về vai trò môn học, tâm lí khi học, phương pháp
chưa phù hợp… là những khó khăn có thực, đã và đang tồn tại trong môi trường
giáo dục.
Khi tìm ra phương pháp phù hợp thì việc vận dụng còn nửa vời, chưa có
“sức bền”. Bên cạnh đó áp lực cuộc sống cũng tác động không nhỏ tới thời gian
và tâm huyết mà giáo viên dành cho một dung lượng kiến thức, bài học, tiết học,
môn học.
Theo CTGD, thi phẩm “Bài thơ số 28” là một bài thuộc tiết đọc thêm, là
thơ nước ngoài. Ngay cả giáo viên chứ chưa nói đến học sinh vẫn thường cho
rằng bài đọc thêm không quan trọng nên không chú ý, lại là thơ nước ngoài nên
lại “ngại” tìm hiểu. Vì thế dạy và học đôi khi còn sơ sài theo kiểu “cưỡi ngựa
xem hoa”. Riêng “Bài thơ số 28” về hình thức thuộc thể thơ tự do- mà những gì
được coi là “tự do” thì khó nắm bắt. Khi cái “tự do” ấy lại được kết hợp với tính
triết lý sâu sắc, thâm thúy thì dường như thi phẩm đã vượt qua ngoài tầm kiểm
soát của người dạy và người học.
6


Tất cả những khó khăn đó là trở ngại không nhỏ khiến cho giáo viên Ngữ
văn nói chung và bản thân người viết nói riêng chưa thành công thực sự trong

nhiều bài giảng. Nhưng những trở ngại đó, cũng chính là động lực thúc đẩy mỗi
người cầm phấn cần cố gắng hơn nữa để chinh phục tri thức, vượt qua chính
mình, đem đến cho học sinh cảm hứng, tình yêu dành cho văn học. Khi đã yêu
thì sẽ tìm cách để hiểu, nghĩa là các em chủ động khám phá.
2.3. Cách đặt đề mục trong thi phẩm trữ tình “Bài thơ số 28”
2.3.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của đề mục
* Văn học cũng là một bộ môn khoa học nghiên cứu về thế giới tinh thần,
cảm xúc, tư tưởng, tình cảm, tâm lí bên trong con người với tất cả sự bí ẩn, phức
tạp. Vậy phương pháp, cách thức tìm hiểu về nó cũng phải khoa học, phù hợp,
chính xác. Tính khoa học được thể hiện qua tri thức được truyền tải (nội dung),
qua cấu trúc câu ở đề mục.
Nhưng văn học trong đó có thơ trữ tình cũng là một loại hình nghệ thuật
với những đặc thù riêng như cảm xúc- tình cảm, tư duy hình tượng, tính thẩm
mỹ trong câu từ, hình ảnh…
Riêng với thơ trữ tình, trước tiên giáo viên phải gợi mở để học sinh xác
định được nhân vật trữ tình- nhân vật trong thơ trữ tình trong tác phẩm sau khi
đã chỉ ra cảm xúc chủ đạo của thi phẩm.
Kết hợp cơ sở khoa học và nghệ thuật, chúng ta xác định được trong “Bài
thơ số 28” những “từ khóa” quan trọng được thống kê ở bảng dưới đây:
Từ khóa
Cảm xúc chủ đạo
Nhân vật trữ tình- nhân vật trong
thơ trữ tình
Hình ảnh biểu trưng
Tính chất hình ảnh

Nội dung
Cảm nhận, suy nghĩ, quan niệm về tình
yêu
“Anh” và “Em”

Đôi mắt em và trái tim anh
- Đôi mắt – băn khoăn- buồn
- Trái tim- vô biên- trường cửu- ở gần
7


* Khi đã tìm được từ khóa quan trọng, chúng ta phải phát hiện và chỉ ra
mối quan hệ giữa chúng cũng như mối quan hệ tồn tại bên trong, tức là tìm ra
các tiểu đề mục (ý nhỏ).
Mối quan hệ lớn

Mối quan hệ nhỏ
- Đời- trái tim

Em và anh hay đôi mắt và trái tim

- Trái tim- tình yêu
- Tình yêu- anh

* Cuối cùng chúng ta có hệ thống đề mục tương đối hoàn chỉnh, mang
tính khoa học và nghệ thuật, vừa thể hiện được đầy đủ các mối quan hệ, vừa tạo
nên sợi dây liên kết giữa các đề mục trong toàn bài, kích thích và khơi gợi sự tò
mò, hứng thú của học sinh.
2.3.2. Đề mục khái quát và cụ thể
BÀI THƠ SỐ 28
Hoạt động của GV và HS

Nội dung
1. Tiểu dẫn
2. Đọc hiểu văn bản

2.1. Từ đôi mắt em…
2.2. … Đến trái tim anh
2.2.1. Đời anh là gì?
2.2.2. Có gì trong trái tim anh?
2.2.3. Thế nào là tình yêu?
3. Tổng kết

Sơ đồ đề mục khái quát
Hoạt động CỦA GV VÀ
NỘI DUNG CẦN ĐẠT
HS
HS phỏng vấn và trả lời

1. Tiểu dẫn

phỏng vấn những nét khái

1.1. Tác giả

quát về tác giả, tác phẩm.

- Nhà văn, nhà văn hóa lớn của Ấn Độ
- Sáng tác ở nhiều lĩnh vực và thể loại
8


- Người châu Á đầu tiên nhận giải thưởng Nô
ben văn học
1.2. Tập thơ “Người làm vườn”
- Thi nhân là người hát ca, chăm sóc, vun xới

cho vườn hoa cuộc đời
- Tiêu biểu cho giọng thơ trữ tình- triết lí; thể
hiện tâm hồn Ấn Độ và tinh thần nhân loại.
1.3. Bài thơ số 28
- Xuất xứ: Người làm vườn
- Nhan đề: Đánh số- 28
- Vị trí: Là một trong những bài thơ tình hay
nhất
2. Đọc- hiểu văn bản
* Cảm xúc chủ đạo: Cảm nhận và suy nghĩ
về tình yêu
Sao anh tin lời nói

* Bố cục: Hai phần

Mà không nhìn mắt em?

2.1. Từ đôi mắt em… (em nhìn anh)

Qua hình ảnh đôi mắt và NT - Hình ảnh đôi mắt: băn khoăn, buồn, muốn
so sánh, tác giả muốn thể
hiện điều gì?

nhìn sâu và cách so sánh: trăng- biển
 Khao khát tìm hiểu, khám phá về tình

Tại sao không phải là người
con trai băn khoăn?

yêu, về người yêu của người con gái.

- Nhân vật trữ tình là người tinh tế, biết quan

Hiểu dược điều đó chứng tỏ tâm, biết yêu; có khao khát được giãi bày, chia
“anh”- NVTT là người ntn? sẻ “trần trụi”, “không giấu”.
Anh đã làm gì để giải tỏa

 Xảy ra nghịch lí “em không biết gì”. Và

nỗi băn khoăn?

nghịch lí chính là vẻ đẹp và quy luật của

Chỉ có thể giải thích bản

tình yêu.

chất, ý nghĩa của nghịch lí 2.2. … Đến trái tim anh (anh nhìn vào chính
qua việc tìm hiểu bản chất mình)
9


cuộc sống- trái tim- tình a. Đời anh là gì?
yêu. Hành trình khám phá - Lối cấu trúc đặc biệt: A không chỉ là B mà lại
tình yêu cũng chính là hành là C (Giả định- phủ định- khẳng định):
trình khám phá chính mình.
Giả định để làm gì?

ĐỜI ANH- NGỌC, HOA- TRÁI TIM
?


?

?

?

 Giả định là một cách để chỉ ra vẻ đẹp, sự
quý giá của tình yêu
 Giả định là cách khẳng định đặc biệt ước
Thực tế đã làm được chưa?

muốn, khát khao của NVTT: dâng hiến,
hy sinh cho tình yêu, làm đẹp cho người
yêu.
- Nhưng khát vọng tình yêu không dễ dàng hiện
hữu để anh dễ dàng bày tỏ lòng mình; mà nó là

Người ta chỉ thực sự quan những gì sâu kín nhất, bí ẩn nhất (trái tim).
tâm đến trái tim mình khi

 Khó cảm nhận (với em) và khó giãi bày

nào?

(với anh)

Làm sao hiểu được trái tim b. Trái tim anh có gì?
của anh?
- Có em- nữ hoàng (chủ nhân)-> Khẳng định
Cần biết trong trái tim anh tình yêu của anh

có gì?

- Tiếp tục sử dụng cấu trúc giả định:
TRÁI TIM- LẠC THÚ, KHỔ ĐAU- TÌNH
YÊU
 Trái tim có nhiều cung bậc cảm xúc: tức
thì- vĩnh cửu
 Phức tạp, khó hiểu
- Trái tim là tình yêu, có tình yêu, vì tình yêu.
c. Thế nào là tình yêu?

Có ai định nghĩa được đầy
10


đủ, trọn vẹn về tình yêu - Từ ngữ chỉ sự vĩnh viễn, không giới hạn: Vô
chưa? Vấn đề đặt ra có vẻ biên, trường cửu
vô lí.

 Tình yêu là thế giới không có biên giới
với nhiều cung bậc, mâu thuẫn, với
những khát khao khám phá và dâng hiến.
- Nghịch lí: ở gần- chẳng bao giờ biết trọn
 Tình yêu- trái tim chỉ là chính nó khi nó

Sóng- Xuân Quỳnh

mang những điều phi lí, bất thường, bí ẩn
thôi thúc người đang yêu khám phá,
kiếm tìm.

3. Tổng kết

Sử dụng SĐTD hệ thống 3.1. Nội dung
hóa ND và NT bài thơ?

- Quan niệm về tình yêu:
+ Là tình cảm chân thành
+ Mang vẻ đẹp bí ẩn, tế vi
+ Chứa đựng khát khao khám phá- dâng hiến
hướng tới sự hòa hợp thấu hiểu của hai tâm hồn
nhằm đạt đến cái vĩnh hằng, duy nhất, tuyệt
đối.

Nguyễn Bính; Pus- kin

+ Làm cho con người trở nên đẹp hơn và đáng
sống hơn.
- Ta- go là thi nhân, tình nhân và triết nhân
3.2. Nghệ thuật
- Hình ảnh đẹp, đầy sức gợi; mang tính biểu
tượng: đôi mắt, viên ngọc, đóa hoa, đời, trái
tim…
- Cách nói giàu chất triết lí: nếu… nhưng
- Cách bày tỏ tình yêu kín đáo, sâu sắc, mãnh
liệt
11


- Biện pháp đối lập qua các nghịch lí; so sánh
 NT mang đậm chất phương Đông


Đề mục và giáo án cụ thể
Trước khi xây dựng được hệ thống đề mục theo phương pháp gợi mở, bản
thân người thực hiện sáng kiến đã từng lúng túng khi dạy thi phẩm “Bài thơ số
28”. Sau mỗi lần kết thúc bài, cảm giác không thỏa mãn vẫn chi phối tâm lí, cho
đến khi người viết nhìn thấy mối quan hệ giữa tính khoa học và tính nghệ thuật
của văn học cũng như đặc trưng cảm xúc, tình cảm của thơ trữ tình; nét đặc sắc
trong phong cách nghệ thuật của Ta- go được thể hiện trong áng thơ tình nổi
tiếng này.
Mặt khác tập thơ “Người làm vườn” trong đó có “Bài thơ số 28” rất tiêu
biểu cho giọng thơ giàu chất trữ tình và chất triết lý của Ta- go, vừa thể hiện tâm
hồn Ấn Độ, vừa bao quát tinh thần nhân loại. Văn hóa phương Đông với vẻ đẹp
tiềm ẩn, kín đáo, sâu sắc, với lối “nói vòng” bằng hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng, với chiều sâu hướng nội trong tư duy, cảm xúc, tình cảm khiến người viết
sáng kiến cũng phải cố gắng nỗ lực để tìm ra hình thức biểu đạt phù hợp mang
màu sắc văn hóa Đông phương. Dấu chấm hỏi (?) và dấu ba chấm (…) được sử
dụng và phát huy tối đa ưu thế, vừa là thách thức vừa là gợi ý để học sinh suy
nghĩ. Dấu ba chấm ở cuối đề mục 2.1. Từ đôi mắt em… đến đầu đề mục … 2.2.
Đến trái tim anh là một sự kết nối tinh tế giữa các cặp quan hệ cũng là tạo nên
tính lôgic chặt chẽ của hệ thống ý trong bài học.
Mục 2.2. Có gì trong trái tim anh? cũng khiến người viết phải băn khoăn
lựa chọn với cách diễn đạt Trái tim anh có gì? Nếu để Trái tim anh có gì? thì sẽ
đúng về mặt cấu trúc ngữ pháp, có sự hài hòa tương ứng với mục 2.1. Đời anh
là gì? nhưng sẽ đánh mất đi sự tế nhị, kín đáo thay vào đó là cảm giác khó chịu,
12


thậm chí thô thiển khi phải trả lời rõ ràng cho một câu hỏi, cho một biểu tương
vốn rất thiêng liêng, “rất tinh thần”, đặc biệt là rất “thơ” trong tình yêu: trái tim.
Do đó cách lựa chọn của người viết là “tối ưu” trong trường hợp này.

2.3.4. Hệ thống đề mục và sơ đồ tư duy (SĐTD)
Hoàn toàn có thể sử dụng SĐTD để triển khai nội dung bài học hay hệ
thống lại kiến thức sau phần tổng kết nhằm tạo nên sự khoa học, sinh động, hấp
dẫn, nhanh chóng cho việc dạy và học Ngữ văn trong hoàn cảnh hiện nay. Điều
này cho thấy sức mạnh linh hoạt, đa năng, hiện đại của loại sơ đồ đặc biệt này.
Nó hoàn toàn không mâu thuẫn với đặc trưng trữ tình, giàu cảm xúc của thơ trữ
tình như “Bài thơ số 28” của Ta- go.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Với “Phương pháp gợi mở qua cách đặt đề mục trong dạy học tác phẩm
thơ trữ tình”, rõ ràng người thực hiện sáng kiến đã tự tháo gỡ khó khăn, vượt
qua cảm giác “ngại” dạy bài đọc thêm, nhất là khi nó lại thuộc thể loại trữ tình.
Trừ khi chia tác phẩm theo bố cục, không gọi tên đề mục thì với trường hợp như
“Bài thơ số 28” của Ta-go, đặt đề mục là một việc làm cần thiết để gợi mở cho
học sinh hướng tiếp cận tác phẩm. Đúng như Nguyễn An Ninh đã khẳng định
“Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ
để nói ra”.
Khi đã có đề mục, người dạy hoàn toàn chủ động với định hướng nhằm
triển khai vấn đề cũng như dẫn dắt cho học sinh giải đáp từng khúc mắc nhỏ
nhất. Để rồi các em sẽ hiểu được, trong cuộc đời này mọi thứ đều có thể lí giải
theo cách riêng của nó. Với tình yêu, dù bí ẩn, phức tạp đến đâu chăng nữa
nhưng nếu mỗi người biết chấp nhận “chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu” thì
tâm hồn bỗng trở nên nhẹ nhàng, thanh thản dẫu khát khao khám phá, kiếm tìm
vẫn luôn luôn thôi thúc.
Học sinh THPT đang ở trong độ tuổi tò mò, ưa những gì mới mẻ “bắt
mắt”. Khi chúng ta “lạ hóa” kiến thức hay chính xác hơn là “làm mới” cách thể
hiện kiến thức qua hình thức tạo đề mục (ngữ pháp, dùng từ, diễn đạt, dấu
13


câu…) ấn tượng, sinh động sẽ khiến các em chú ý, thích thú. Bước đầu như vậy

có thể coi là thành công góp phần thúc đẩy cho diễn tiến rất tự nhiên của tiết
học.
Tìm cách hướng dẫn học sinh đặt đề mục sẽ buộc giáo viên phải suy nghĩ,
tìm tòi, không ngừng nâng cao tinh thần tự học, tự bồi dưỡng để đào sâu, mở
rộng kiến thức; là một cách “làm mới mình” trước khi đủ điều kiện “làm mới”
bài học, cách học, nhận thức của học sinh.
Chất văn hay chất thơ thực sự đang ngày càng khó tìm thấy trong những
bài dạy- học Ngữ văn sẽ vì thế mà “hữu hình”, đáng quý hơn ngay từ đề mục
“Từ đôi mắt em… đến trái tim anh” trong “Bài thơ số 28”. Bởi vậy mà đồng
nghiệp cùng bộ môn hay khác bộ môn mỗi khi đi dự giờ thao giảng vẫn cảm
thấy đọc văn, nghe thơ thật dễ chịu và như thế nghĩa là thơ văn luôn đồng hành
với cuộc sống, với nghề, với nghiệp của chúng ta.
3. Kết luận, kiến nghị
Mỗi hệ thống đề mục trong một bài dạy học Ngữ văn đều là một sự tái tạo
và sáng tạo của người dạy và người học. Nó có thể trở thành một tiêu chí để
đánh giá tinh thần tự học, trách nhiệm với bài giảng và mức độ vận dụng
phương pháp gợi mở trong quá trình hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài học.
Không nhất thiết và cũng không thể ở bài dạy học Ngữ văn nào của phân
môn Văn học cũng nên và cũng có thể đặt đề mục. Cần căn cứ vào dạng- thể loại
tác phẩm cụ thể để có cách lựa chọn sáng suốt, phù hợp. Dù sao đặt đề mục cũng
là một biện pháp nhằm hiện thực hóa hiệu quả, ý nghĩa của phương pháp gợi mở
bên cạnh việc kết hợp với các biện pháp khác như đàm thoại, đặt câu hỏi…
Dạy và học tốt Ngữ văn không nằm ở những mục đích xa vời. Nó luôn
thuộc về những việc làm, thao tác rất cụ thể, gần gũi, thiết thực. Vấn đề là ở chỗ
mỗi người chúng ta có đủ kiên nhẫn và tinh tế để phát hiện ra điều đó hay không
mà thôi.

14



XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 19 tháng 5 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Mai Thị Tâm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đai học quốc gia Hà Nội, 2004.
2. Bộ GD và ĐT, SGK Ngữ văn 11 tập 1- 2, Nxb Giáo dục, 2015.
3. Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2001.

15


PHỤ LỤC
Một số cụm từ viết tắt: Chương trình giáo dục (CTGD); Sáng kiến kinh nghiệm
(SKKN); Sơ đồ tư duy (SĐTD)

16


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
NGÀNH GIÁO DỤC ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C
TRỞ LÊN


Họ và tên tác giả: Mai Thị Tâm
Chức vụ và đơn vị công tác: Tổ trưởng chuyên môn tổ Ngữ văn- Trường THPT
Nga Sơn
TT

Tên đề tài SKKN

1.

Sử dụng sơ đồ tư duy
trong dạy học một số bài
Ngữ văn 10
Cách viết đoạn văn nghị
luận xã hội theo cấu trúc
đề thi THPT quốc gia
môn Ngữ văn

2.

Cấp đánh giá
xếp loại

Kết quả
đánh giá xếp
loại

Năm học
đánh giá
xếp loại


Sở GD và ĐT

C

2012

Sở GD và ĐT

C

2017




×