Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Khuôn khổ tài chính trung hạn được đề cập ở Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.BTHK được 9 điểm môn TC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

1


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hoạt động của NSNN cũng như cơ chế quản lý, điều hành NSNN theo cơ
chế cũ còn bộc lộ nhiều hạn chế như: quy định cân đối ngân sách từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới chưa hợp lý, mất cân đối thu - chi, căn cứ xây
dựng dự toán NSNN hàng năm chưa có sự liên kết chặt chẽ với kế hoạch tài
chính - NSNN trung hạn, làm hạn tính dự báo, tính lựa chọn ưu tiên và hiệu quả
phân bổ NSNN, việc thực hiện dự toán, quyết toán chưa minh bạch,... Từ những
hạn chế đó, dẫn tới yêu cầu phải sửa đổi Luật NSNN, áp dụng cơ chế quản lý
điều hành mới để đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, cải cách hành chính và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Và để đáp ứng nhu cầu cấp thiết đó, khắc phục hạn chế đang tồn tại, nhận biết
được ưu điểm trong việc quản lý, chi tiêu tài chính công hiệu quả của kế hoạch
tài chính trung hạn Luật NSNN năm 2015 đã lần đầu tiên bổ sung và đề cập tới
khuôn khổ tài chính trung hạn. Để đi sâu nghiên cứu và làm rõ hơn về vấn đề
này, em sẽ đi sâu nghiên cứu đề tài số 03:
“Trong quản lý tài chính công, lần đầu tiên tại Luật Ngân sách nhà
nước năm 2015 đã đề cập đến khuôn khổ tài chính trung hạn. Hãy nghiên
cứu những vấn đề sau:
1)

Theo quan niệm của quốc tế thì Khuôn khổ tài chính trung hạn là gì?
Có ý nghĩa như thế nào đối với quản lý tài chính công của mỗi quốc

2)

gia


Khuôn khổ tài chính trung hạn được thể hiện trong Luật Ngân sách
năm 2015 ở những quy định nào? Phân tích nội dung của những quy
định đó.”

2


GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Tổng quan về khuôn khổ tài chính trung hạn
1. Giới thiệu khái quát về khuôn khổ tài chính trung hạn
Vì vậy, từ những năm 1970 của thế kỷ 20, nhiều nước công nghiệp phát
triển trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu và áp dụng cách tiếp cận lập kế hoạch
chi ngân sách nhiều năm nhằm khắc phục sự mất cân đối giữa các mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội - mô hình này được gọi chung là khuôn khổ trung hạn
được chia thành 03 cấp độ từ đơn giản đến phức tạp là: Khuôn khổ tài khóa
trung hạn (MTFF); Khuôn khổ ngân sách trung hạn (MTBF); Khuôn khổ
chi tiêu trung hạn (MTEF) là bước phát triển cao nhất. Trong 03 loại mô hình
trên thì MTEF được xem là trọn vẹn và được nhiều nước trong đó có Việt Nam
vận dụng.
Như vậy, có thể thấy, không có một thuật ngữ chính xác về “Khuôn khổ tài
chính trung hạn” mà chỉ có khuôn khổ trung hạn với mô hình khuôn khổ chi tiêu
trung hạn (MTEF) là khuôn khổ chính sách và chi tiêu chiến lược quan trọng
nhất của khuôn khổ trung hạn, được hầu hết các quốc gia sử dụng kế hoạch trung
hạn hướng tới áp dụng nên có thể gọi đây là phương pháp đặc trưng nhất của
khuôn khổ trung hạn, phản ánh bản chất của khuôn khổ trung hạn sâu sắc, rõ nét
nhất; nghiên cứu về khuôn khổ trung hạn là nghiên cứu về MTEF. Bởi vậy, trong
phạm vi bài viết, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về khuôn khổ chi tiêu trung hạn
(MTEF)
2. Khái niệm MTEF theo quan niệm quốc tế
Nếu xét về phương diện thuật ngữ thì khái niệm MTEF lần đầu tiên được

đưa ra bởi Ngân hàng Thế giới và được giới thiệu đến các quốc gia không thuộc
khối OECD đầu tiên. Úc được xem là nước đầu tiên đề cập tới MTEF vào những
3


năm 1980. Tuy nhiên, New Zealand, Đức, Hà Lan, Na Uy là bốn quốc gia thuộc
OECD và được xem là đầu tiên trong việc giới thiệu, áp dụng mô hình này trên
thế giới.
Ngân hàng Thế giới (WB, 2008) đã đưa ra khái niệm về khuôn khổ MTEF
cho các quốc gia tham khảo để có sự vận dụng, MTEF là “một khung chính sách
và chính sách chiến lước toàn chính phủ trong đó có các bộ trưởng và các bộ
chủ quản được giao trách nhiệm cao hơn cho các quyết định phân bổ nguồn lực
và sử dụng tài nguyên”. Tổ chức này cho rằng khuôn khổ chi tiêu trung hạn
chính là một quá trình hình thành ngân sách và lập kế hoạch có tính minh bạch
cao trong phạm vi các bộ, sở, ngành hay cơ quan thuộc trung ương, địa phương
nhằm thiết lập một bản nội dung phân bổ rõ ràng đối với các nguồn lực công
theo thứ tự ưu tiên mang tính chiến lược của những đơn vị đó. Cách đánh giá “từ
dưới lên” bắt đầu bằng cách xem xét kỹ lưỡng các chính sách và hoạt động tối
ưu hóa phân bổ nội ngành (Hoierou & Talieercio, 2002)
MTEF cũng được định nghĩa là “ một kết hoạch chi tiêu công nhiều năm
được lập để đặt ra các yêu cầu ngân sách trong tương lai cho các công việc hiện
có và để đánh giá ý nghĩa tài nguyên tương lai thay đổi chính sách và bất kỳ
chương trình mới nào” (Pearson, 2002)
Và theo Ủy ban kinh tế châu Phi, MTEF được định nghĩa là “ngân sách
cuộn bao gồm năm ngân sách hiện tại và năm tiếp theo hai năm ngân sách. Nó
chứa một khung kinh tế vĩ mô với dự báo doanh thu và chi tiêu trong trung hạn,
một chương trình ngành nhiều năm với dự toán, chiến lược khung chi tiêu, kế
hoạch phân bổ nguồn lực giữa các ngành và ngân sách ngành chi tiết.”
Ngoài ra, MTEF được Andrew Graham là “một kế hoạch tài chính khuôn
khổ nhấn mạnh các yếu tố chính nhất định của quá trình lập kế hoạch để bảo đảm


4


sự ổn định của nó, liên kết các yếu tố đầu vào để dự đoán kết quả, cơ quan lập
pháp phải có tính minh bạch, thống nhất và năng lực để có kết quả tốt nhất.
Nói tóm lại, MTEF là một phần không thể thiếu của chu kỳ ngân sách hàng
năm và thường bao gồm: (1) hoạch định nguồn lực từ trên xuống phù hợp với
sự ổn định kinh tế vĩ mô và các ưu tiên chính sách rộng lớn; (2) một ước tính từ
dưới lên về chi phí hiện tại và trung hạn của các chương trình và hoạt động hiện
có; và (03) một quy trình lặp đi lặp lại của việc ra quyết định, phù hợp với chi
phí và ý tưởng chính sách mới có sẵn tài chính trong khoảng thời gian 03-05
năm.
Qua đó, có thể hiểu được MTEF sẽ hướng đến 6 mục tiêu cụ thể đối với
ngân sách của khu vực công như sau:
• Tăng

cường kỷ luật tài chính bằng việc ước tính số dư thực chất hơn

đối với kinh tế vĩ mô.
• Tích hợp thứ tự ưu tiên chính sách khác nhau vào ngân sách năm để
đảm bảo tính thích hợp.
• Giúp phân bổ nguồn lực giữa các ngành khác nhau và giữa các đơn
vị trong cùng ngành.
• Tiên đoán ngân sách dài hơi hơn từng ngành bằng việc cung cấp
tầm nhìn từ 03 đến 05 năm.
• Thúc đẩy hiệu quả cho quá trình hoạt động và làm cho chất lượng
tăng cùng chi phi giảm.
• Nhấn mạnh đến trách nhiệm giải trình đối với các khoản chi tiêu
công


Có thể định nghĩa khuôn khổ tài chính trung hạn là một mô hình soạn lập và
xây dựng kế hoạch tài chính minh bạch, trong đó đề ra giới hạn nguồn lực trung
hạn được phân bổ từ trên xuống nhằm đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng thể và đòi
5


hỏi việc xây dựng dự toán chi phí thực hiện chính sách từ dưới lên, thống nhất
với chính sách chi tiêu theo ưu tiên chiến lược 1
3. Đặc điểm của MTEF2
Thông qua các khái niệm đã đưa ra và trình bày, vấn đề liên quan đến mô
hình MTEF gắn liền với nhiều nội dung khác nhau (Pongpan, 2010). Mỗi nhà
khoa học hay mỗi quốc gia đều có những quan điểm khác nhau về MTEF. Xét
một cách tổng quát, có thể rút ra một số điểm chính cần chú ý trong những nội
dung mà các tổ chức khác nhau đã đưa ra về mô hình MTEF. Cụ thể bao gồm:
● Khuôn khổ MTEF là một mô hình mang tính khả thi cao. Nó được xây
dựng dựa trên khuôn khổ của nền kinh tế vĩ mô và có sự phối hợp chặt chẽ với
các bộ, ngành hay các cấp tương đương. Các quốc gia, đặc biệt là những nước có
mức phát triển thấp, không phải chi tiêu những gì họ cần mà phải hướng đến chi
tiêu những gì họ có thể đảm nhận. Vì thế, khi Chính phủ đưa vào tất cả nguồn
ngân sách để xem xét thì việc chi tiêu công cần phải duy trì và nhất quán với tính
ổn định của kinh tế vĩ mô.
● Khuôn khổ MTEF là một bản nội dung có chu kỳ thời gian thường mang
tính trung hạn, hay nói cách khác là phạm vi cung cấp một cái nhìn từ 03 đến 05
năm. Số liệu năm thứ nhất của MTEF thường sẽ chính là mức ngân sách hàng
năm. Vì thế, cả mô hình MTEF và mức ngân sách năm nên được phát triển thông
qua cùng một quy trình thống nhất và được chấp thuận bởi cơ quan quản lý quỹ.
Còn đối với những năm sau đó, khi lập ngân sách, các cơ quan phụ trách cần kết

1 Tạp


chi Tài chính kỳ 1 số tháng 11 -2015, tr.56

2 TS.

Phạm Quang Huy, ThS. Vũ Kiến Phúc, Giới thiệu khuôn khổ chi tiêu trung hạn - một
công cụ đảm bảo nền tài chính quốc gia bền vững và định hướng cho Việt Nam, Kỷ yếu hội
thảo khoa học quốc gia, Kinh tế Việt Nam 2018 và triển vọng năm 2019, tr.173-174
6


hợp với những kế hoạch và mục tiêu tài chính của tất cả các chính sách hay
chương trình mới mà bộ phận đó dự kiến đưa vào trong tầm nhìn của nhiều năm.
● Khuôn khổ MTEF là một chương trình có tính chất quay vòng và cần
được cập nhật liên tục trên cơ sở kết quả hàng năm. Mức ngân sách mỗi năm sẽ
được cố định và được gọi là độ ràng buộc ngân sách (hard budget constraint). Số
liệu này sẽ được điều chỉnh cho những năm sau đó bởi một nguyên nhân rằng bất
kỳ hệ thống ngân sách nào cũng cần phải có sự linh hoạt để đáp ứng với sự thay
đổi các ưu tiên trong suốt năm ngân sách.
● Khuôn khổ MTEF mang tính chất toàn diện và đa dạng. Bản ngân sách
này sẽ bao trùm toàn bộ các khoản doanh thu và chi tiêu công từ tất cả các nguồn
có được và từ tất cả các nơi cung cấp trong, ngoài đơn vị. Để thiết lập được nội
dung theo hướng dẫn cách lập của mô hình này, cần có sự tham gia của tất cả các
ngành, các lĩnh vực. Việc phân bổ các đối tượng phải có sự tham chiếu các quyết
định trong cùng ngành và kể cả giữa các ngành đó.
● Khuôn khổ MTEF trình bày một cách chi tiết và đầy đủ. Mô hình này
giúp cung cấp cơ sở tin cậy trong việc đưa ra các đánh giá, qua đó giúp xác định
dự toán ngân sách của các nguồn lực sẽ phân bổ cùng tính nhất quán với các
chính sách quốc gia đã công bố theo văn bản pháp luật.
● Khuôn khổ MTEF hướng đến tính trách nhiệm giải trình và tính trách

nhiệm. Bản kế hoạch này cần có sự phê duyệt và chấp thuận của các bộ, ngành
và được công bố để nâng cao tính tin cậy cho dân chúng, qua đó giúp họ kiểm tra
ngược lại những công việc sẽ xảy ra trong tương lai. Quy trình chính của MTEF
chính là nó bao gồm một tiến trình phân bổ nguồn lực từ trên xuống và một ước
tính từ dưới lên của các khoản chi phí trung hạn của các chính sách hiện tại nhằm
xác định không gian tài chính, đảm bảo sự an toàn trong toàn bộ nền tài chính,

7


tránh xảy ra những biến động lớn có thể ảnh hưởng đến dòng tiền chung của một
quốc gia.
Có thể mô tả mô hình khuôn khổ tài chính trung hạn thông qua sơ đồ
sau

3

Khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF)

Thiết lập các mục tiêu tài chính

Cập nhập tình
hình tài chính
công và kinh tế

Các bộ, ngành
trung ương

Phân bổ nguồn lực cho các ưu tiên trong
chiến lược quốc gia


Báo cáo khuôn
khổ về tài chính

Báo cáo chính
sách về ngân
sách nhà nước

Nội bộ trong Chính phủ

Kế hoạch tổ chức

Bộ trường

4. Ý nghĩa của việc áp dụng MTEF đối với quản lý tài chính công của
mỗi quốc gia
- MTEF phân bổ hiệu quả các nguồn lực công. MTEF xem xét, đánh giá
các quyết định ngân sách trong một khoảng thời gian dài hơn, thường là 03 đến
05 năm. Công cụ MTEF đòi hỏi các bộ, ngành phải có tầm nhìn dài hạn mỗi khi
đưa ra một quyết định liên quan đến ngân sách; ngoài ra, các bộ, ngành phải xem
xét tổng thể các nhiệm vụ, chương trình để lựa chọn lĩnh vực cần ưu tiên khi
phân bổ ngân sách. MTEF có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa chính
sách của Chính phủ với các nhiệm vụ chi tiêu trong trung hạn (03 năm đến 05
3 Ths.

Phạm Quang Huy, Mô hình khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong kế toán công tại một số
quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phát triển và hội nhập, số 19 (29) - Tháng 1112/2014, tr.77
8



năm). Nếu không có khuôn khổ trung hạn có thể sẽ có những điều chỉnh nhanh
về chi tiêu diễn ra ngoài kế hoạch dẫn đến không cân đối được giữa nguồn lực và
các khoản chi tiêu. Nếu những điều chỉnh về chi tiêu không dựa trên chính sách
thì những điều chỉnh này không được chấp nhận.
- MTEF tăng cường kỷ luật tài khóa bằng việc cung cấp "liên kết khuôn
khổ" cho phép các khoản chi tiêu được “thúc đẩy” bởi các chính sách ưu tiên và
kỷ luật ngân sách. Nếu việc xây dựng chính sách, lập kế hoạch và lập ngân sách
không có sự liên kết thì MTEF được xem như là một giải pháp tiềm năng. Sự
mất liên kết giữa việc hoạch định chính sách, lập kế hoạch, và quy trình ngân
sách là một tình trạng phổ biến của việc phát triển quản trị công. Vì vậy, MTEF
ngày càng được coi là một yếu tố trung tâm của chương trình cải cách quản lý
chi tiêu công.
- MTEF tập trung vào các vấn đề xây dựng ngân sách – vấn đề cơ bản của
cải cách chi tiêu công trong một khuôn khổ tài chính và kinh tế vĩ mô nhiều năm.
MTEF không giải quyết các vấn đề về thực hiện ngân sách hoặc báo cáo; cũng
không bao gồm tất cả các vấn đề liên quan xây dựng ngân sách như vấn đề ngân
sách toàn diện. Cách tiếp cận MTEF như sắp xếp lại các khái niệm về dự toán
ngân sách thông qua ba cấp độ của quản lý chi tiêu công. Hơn nữa, cách tiếp cận
MTEF trong việc quản lý ngân sách và môi trường ra quyết định rộng hơn, trong
một trung hạn (ví dụ như nhiều năm). Theo nghĩa này, MTEF đại diện cho một
gói cải cách chi tiêu công theo một cách mới. Các mục tiêu của MTEF là:
• Cải thiện cân đối kinh tế vĩ mô được, đặc biệt là
• Phân bổ nguồn lực liên và nội bộ ngành tốt hơn
• Tăng cường khả năng dự báo ngân sách lớn
• Sử dụng hiệu quả hơn các khoản tiền công
• Kết

kỷ luật tài chính

hơn cho các Bộ, ngành


quả chi tiêu công gắn với trách nhiệm chính trị cao hơn thông

qua các quá trình ra quyết định hợp pháp hơn
• Việc ra quyết định ngân sách đạt tín nhiệm cao hơn
9


- MTEF tạo điều kiện cho một số kết quả quan trọng: sự cân bằng kinh tế vĩ
mô lớn hơn; cải thiện phân bổ nguồn lực giữa và nội bộ ngành; khả năng dự báo
ngân sách lớn hơn cho các Bộ, ngành; và sử dụng hiệu quả hơn các khoản tiền
công cộng (World Bank, 1998). MTEF nhằm cải thiện, phân bổ nguồn lực giữa
và nội bộ ngành bằng cách ưu tiên có hiệu quả tất cả các chi phí trên cơ sở
chương trình kinh tế-xã hội của chính phủ. Một mục tiêu nữa của MTEF là khả
năng dự báo ngân sách lớn hơn, kết quả là cam kết đáng tin cậy hơn trần ngân
sách ngành.
- MTEF góp phần tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong quản lý và sử dụng NSNN.
II. Các quy định của Luật ngân sách nhà nước năm 2015 thể hiện
khuôn khổ tài chính trung hạn
1. Luật ngân sách nhà nước năm 2015 là đạo luật đầu tiên ở Việt Nam đề
cập đến khuôn khổ tài chính trung hạn trong quản lý tài chính công
Nền tài khóa chỉ bền vững khi kiểm soát được các nguồn thu chi, hướng tới
nguồn ngân sách cân bằng và ổn định. Ðể quản lý một cách hiệu quả, tiết kiệm
nguồn lực, mỗi quốc gia đều phải sử dụng những cách thức nhất định để soạn lập
kế hoạch ngân sách sát với khả năng thu, từ đó cân đối mức độ chi và phân bổ
ngân sách vào những mục tiêu nhất định. Nhiều quốc gia trên thế giới đã sử dụng
kế hoạch ngân sách trung hạn, nhờ đó góp phần bảo vệ ngân sách nhà nước
(NSNN) trước các cú sốc kinh tế.
Tại Việt Nam, thực tế cho thấy, việc lập dự toán NSNN hàng năm đã phát

sinh nhiều bất cập trong quản lý, điều hành ngân sách. Dự toán NSNN hàng năm
có ưu điểm nổi bật là tính chính xác cao so với các kế hoạch tài chính trung hạn
do thời gian dự báo ngắn, dễ làm, dễ thực hiện, nhưng lại thiếu tính linh hoạt,
chủ động trước các biến động lớn về kinh tế, xã hội, môi trường... Việc lập dự
10


toán NSNN hàng năm đã không lường trước được các rủi ro sẽ xảy ra 03- 05
năm sau đó, do đó không có giải pháp phù hợp để hạn chế bội chi, kiểm soát nợ
công vào những năm kinh tế phát triển thuận lợi, dành dư địa cho những năm
khó khăn. Vì vậy, khi tăng trưởng nền kinh tế có xu hướng giảm sút, nguồn thu
NSNN gặp khó khăn thì cả bội chi ngân sách và dư nợ công đều có xu hướng
tăng mạnh, bội chi NSNN trong một số năm qua đã có lúc vượt ngưỡng cho
phép.
Trước thực trạng đó, nhiều chuyên gia, nhà quản lý thống nhất cho rằng,
việc lập kế hoạch tài chính trung hạn là cần thiết. Dẫn chứng cụ thể hơn về vấn
đề này, có thể thấy, giai đoạn 2004 - 2009, Bộ Tài chính đã tổ chức thực hiện thí
điểm lập kế hoạch tài chính và chi tiêu trung hạn 03 năm ở 4 Bộ: Giáo dục và
đào tạo, Y tế, Giao thông, Nông nghiệp Phát triển nông thôn và 003 địa phương:
Hà Nội, Vĩnh Long, Bình Dương. Kết quả thí điểm cho thấy, việc lập kế hoạch
tài chính và chi tiêu trung hạn bước đầu đã tạo ra những chuyển biến tích cực đối
với công tác quản lý tài chính - NSNN và quản lý nợ trên phạm vi cả nước và thu
hút được sự quan tâm của hơn 20 bộ, cơ quan trung ương và khoảng 30 địa
phương. Qua đó, góp phần nâng cao chất lượng công tác dự báo các chỉ tiêu kinh
tế - xã hội và tài chính - NSNN trong trung hạn và hàng năm; nâng cao hiệu quả
phân bổ, quản lý và sử dụng ngân sách.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, để khắc phục những tồn tại của
Luật NSNN và đáp ứng các yêu cầu mới đặt ra trong quá trình tiếp tục đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế; thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X và lần thứ XI của

Đảng Luật NSNN năm 2015 được ban hành và để quản lý NSNN trong trung hạn
và phù hợp với Luật Đầu tư công thì khuôn khổ tài chính trung hạn lần đầu tiên

11


được đề cập và ghi nhận với kế hoạch tài chính 05 năm (Điều 17); kế hoạch tài
chính 03 năm (Điều 43).
2. Các quy định cụ thể của Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 về
khuôn khổ tài chính trung hạn
Ở Việt Nam, Luật NSNN không có định nghĩa pháp lý về khuôn khổ tài
chính trung hạn. khi sửa đổi luật NSNN năm 2002, Luật Ngân sách số 83/QH 13
năm 2015 đã đưa ra hai khái niệm: (i) Kế hoạch tài chính 05 năm, (ii) Kế hoạch
tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm. Về nội dung, hai khái niệm này có thể
hiểu tương đồng với khái niệm khuôn khổ tài chính trung hạn theo thông lệ của
quốc tế đã nêu ở trên. Kế hoạch tài chính 05 năm sẽ là khuôn khổ ngân sách
trung hạn (MTBF), còn kế hoạch tài chính – NSNN 03 năm là một hình thức của
MTEF.
2.1. Kế hoạch tài chính 05 năm
Theo quy định, kế hoạch tài chính 05 năm là kế hoạch tài chính để thực
hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia, địa phương trong giai đoạn 5 năm kế hoạch; đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu cơ
bản về tài chính - ngân sách nhà nước trong thời gian 05 năm kế hoạch; giữ vai
trò định hướng cho kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm và dự toán
ngân sách nhà nước hằng năm.
- Nội dung của kế hoạch tài chính 05 năm được quy định tại Khoản 1 Điều
17 Luật ngân sách nhà nước 2015 với nội dung cụ thể tại Điều 8 Nghị định
45/2017/NĐ - CP quy định chi tiết lập kế hoạch tài chính 05 năm và kế hoạch tài
chính - ngân sách nhà nước 03 năm. Theo đó, kế hoạch tài chính 05 năm xác
định mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể về tài chính – ngân sách nhà nước; các

định hướng lớn về tài chính, ngân sách nhà nước; số thu và cơ cấu thu nội địa,
thu dầu thô, thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; số chi và cơ cấu chi
12


đầu tư phát triển, chi trả nợ, chi thường xuyên; hướng về bội chi ngân sách; giới
hạn nợ nước ngoài của quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; các giải pháp chủ yếu
để thực hiện kế hoạch.
- Mục tiêu của kế hoạch tài chính 05 năm được quy định tại Khoản 2 Điều
17, theo đó mục tiêu xây dựng kế hoạch tài chính 05 năm nhằm để:
Thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, ngành, lĩnh
vực và địa phương; cân đối, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính công và
ngân sách nhà nước trong trung hạn; thúc đẩy việc công khai, minh bạch ngân
sách nhà nước.
Làm cơ sở để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định kế hoạch đầu tư trung
hạn nguồn ngân sách nhà nước;
Định hướng công tác lập dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, kế hoạch
tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm.
- Như vậy, các mục tiêu luật định được đặt ra sẽ đảm bảo cho kế hoạch tài
chính 05 năm được soạn lập và xây dựng theo một quy trình minh bạch, trong đó
đề ra giới hạn nguồn lực trung hạn được phân bổ từ trên xuống nhằm đảm bảo kỷ
luật tài khóa tổng thể và xây dựng dự toán chi phí thực hiện chính sách từ dưới
lên, thống nhất với chính sách chi tiêu theo ưu tiên chiến lược. Để thực hiện
được các mục tiêu trên, thì việc lập kế hoạch tài chính 05 năm phải đáp ứng các
yêu cầu4 sau:
Thứ nhất, việc lập kế hoạch tài chính 05 năm phải phù hợp với các mục
tiêu phát triển của các chiến lược quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội, tài
chính, nợ công, cải cách hệ thống thuế; mục tiêu và những chỉ tiêu định hướng
4 Điều


7 Nghị định 45/2017/NĐ-CP quy định chi tiết lập kế hoạch tài chính 05 năm và kế
hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 003 năm
13


phát triển kinh tế - xã hội 05 năm giai đoạn sau của cả nước, lĩnh vực, địa
phương; các quy hoạch đã được phê duyệt;
Thứ hai, phải phù hợp với các nguyên tắc về: cân đối ngân sách nhà nước,
quản lý ngân sách nhà nước, quản lý an toàn nợ công, phân cấp quản lý nguồn
thu, nhiệm vụ chi và quan hệ giữa các cấp ngân sách;
Thứ ba, lập kế hoạch tài chính 05 năm phải ưu tiên bố trí ngân sách nhà
nước để thực hiện các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước trong
từng thời kỳ cụ thể nhằm đầu tư có trọng điểm, tránh dàn trải, tập trung nguồn
lực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược, bền vững;
Thứ tư, kế hoạch tài chính 05 năm phải đề cao Công khai, minh bạch, hiệu
quả. Tránh việc để quá trình lập kế hoạch chịu sự chi phối của những Bộ, ngành,
địa phương có nhiều ảnh hưởng hoặc tình trạng tùy tiện trong việc điều chỉnh
ngân sách của các cơ quan chức năng trung ương. Điều này sẽ giúp tăng tính tiên
liệu của ngân sách hàng năm được xây dựng trên cơ sở kế hoạch tài chính 05
năm và kế hoạch tài chính 03 năm.
- Các quy định của luật ngân sách nhà nước 2015 đã nêu mối quan hệ giữa
kế hoạch tài chính 05 năm, kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 003 năm và
dự toán ngân sách nhà nước hằng năm, thể hiện tại Khoản 1, Khoản 2c Điều 17,
khoản 6 Điều 41, Khoản 1 Điều 43.
Cụ thể như sau:
Một là, về kế hoạch tài chính 05 năm là kế hoạch tài chính để thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa
phương trong giai đoạn 05 năm kế hoạch; đưa ra các mục tiêu, chỉ tiêu cơ bản về
tài chính - ngân sách nhà nước trong thời gian 05 năm kế hoạch; giữ vai trò định


14


hướng cho kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 003 năm và dự toán ngân
sách nhà nước hằng năm.
Hai là, kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 003 năm được lập hằng
năm để triển khai kế hoạch tài chính 05 năm, thể hiện những nội dung lớn về
khung cân đối ngân sách nhà nước và trần chi ngân sách cho các bộ, cơ quan,
đơn vị và địa phương trong thời gian 003 năm, có tính đến diễn biến tình hình
kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách hiện tại và cập nhật dự báo trong thời
gian 003 năm kế hoạch, làm cơ sở cho việc lập, xem xét, quyết định dự toán
ngân sách nhà nước hằng năm.
Ba là, dự toán ngân sách nhà nước hằng năm cụ thể hóa định hướng chiến
lược của kế hoạch tài chính 05 năm, mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch tài chính
- ngân sách nhà nước 003 năm, có các chỉ tiêu cơ bản trùng với chỉ tiêu năm thứ
nhất của kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 003 năm.
Là cơ quan soạn thảo xây dựng Nghị định, Bộ Tài chính cho biết, Kế hoạch
tài chính 05 năm giữ vai trò định hướng cho công tác lập kế hoạch tài chính NSNN 03 năm và dự toán NSNN hàng năm. Ngược lại, kế hoạch tài chính NSNN 03 năm được lập hàng năm để triển khai kế hoạch tài chính 5 năm, thể
hiện những nội dung lớn về khung cân đối NSNN và trần chi ngân sách cho các
bộ, cơ quan, đơn vị và địa phương trong thời gian 03 năm. Kế hoạch này có tính
đến diễn biến tình hình kinh tế - xã hội và tài chính - ngân sách hiện tại, cập nhật
dự báo trong thời gian 03 năm kế hoạch làm cơ sở cho việc lập, xem xét, quyết
định dự toán NSNN hàng năm. Đồng thời, kế hoạch còn quy định việc triển khai
có lộ trình, phù hợp với các quy định về phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, phân
cấp quản lý về NSNN và trình độ quản lý tài chính - ngân sách hiện nay.5
5 Nguyễn Thị

Hải Anh, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng kế hoạch tài chính 5 năm, kế
hoạch tài chính 03 năm của NSĐP tỉnh Lào Cai, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
2018, tr.16

15


- Phân loại kế hoạch tài chính 05 năm, theo Khoản 3 Điều 17, kế hoạch tài
chính 05 năm bao gồm kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia và kế hoạch tài
chính 05 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, có thể thấy quy
định này là tương thích với quy định của luật này về hệ thống ngân sách nhà
nước Việt Nam, cụ thể ngân sách nhà nước bao gồm hai cấp ngân sách trung
ương và ngân sách địa phương (ngân sách địa phương gồm ngân sách của các
cấp chính quyền địa phương). Kế hoạch tài chính 05 năm cũng được lập ở hai
cấp, nhưng vì kế hoạch 05 năm nhằm mục đích quản lí tài chính vi mô, mang
tính chiến lược nên ở cấp địa phương chỉ được lập ở cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và không được lập ở cấp dưới. Điều này hoàn toàn phù hợp,
bởi lẽ nó sẽ đảm bảo cho Chính quyền địa phương ở cấp tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
- Khoản 4 Điều 17 quy định về đối tượng lập kế hoạch tài chính 05 năm, cụ
thể như sau:
- Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các bộ, cơ
quan trung ương có liên quan lập kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia báo cáo
Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định;
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở
Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan có liên quan khác ở địa phương xây dựng kế
hoạch tài chính 05 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
 Kế hoạch tài chính 05 năm là “kim chỉ nam”, kế hoạch tài chính 05 năm
nắm giữ vai trò định hướng cho công tác lập kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm
và dự toán ngân sách nhà nước hàng năm.

16



2.2 Kế hoạch tài chính 03 năm - ngân sách nhà nước 03 năm
Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm theo quy định tại Khoản 1
Điều 43 Luật ngân sách nhà nước năm 2015 được hiểu là kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước được lập hằng năm theo phương thức cuốn chiếu cho thời
gian 03 năm, kể từ năm dự toán ngân sách và 2 năm tiếp theo. Kế hoạch này
được lập cùng với thời điểm lập dự toán ngân sách hàng năm.
- Mục đích của Kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm theo quy
định tại Khoản 1 Điều 43 Luật ngân sách nhà nước năm 2015 là nhằm định
hướng cho công tác lập dự toán ngân sách hàng năm; định hướng thứ tự ưu tiên
phân bổ nguồn cho từng lĩnh vực và từng nhiệm vụ, hoạt động, chế độ, chính
sách cho từng lĩnh vực trong trung hạn.
- Việc lập kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm được nêu trong Nghị định đã
yêu cầu rất rõ là phải phù hợp với tình hình thực tế thực hiện tài chính 05 năm và
hàng năm, phản ánh đầy đủ các khoản thu NSNN và các khoản thu khác theo
quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, chi ngân sách phải được lập theo cơ cấu
lĩnh vực và các khoản chi lớn, trong phạm vi trần chi ngân sách do cơ quan có
thẩm quyền thông báo và đảm bảo các nguyên tắc về cân đối, quản lý, phân cấp
ngân sách, quản lý nợ công... Đồng thời, phải lập theo phương thức cuốn chiếu
cho thời gian 03 năm6, trong đó năm thứ nhất được sử dụng để tham khảo lập,
6 Điều 14. Yêu cầu lập kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 03 năm
1. Phù hợp với tình hình thực tế thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã
hội và tài chính 05 năm và hằng năm; dự báo trong thời gian 03 năm kế hoạch.
2. Phản ánh đầy đủ các khoản thu ngân sách nhà nước và các khoản thu khác theo quy định
của pháp luật; chi ngân sách được lập theo cơ cấu lĩnh vực và các khoản chi lớn, trong phạm
vi trần chi ngân sách do cơ quan có thẩm quyền thông báo.
03. Đảm bảo các nguyên tắc về cân đối, quản lý, phân cấp ngân sách, quản lý nợ công theo
quy định của Luật ngân sách nhà nước, Luật quản lý nợ công.
17



trình, quyết định dự toán NSNN hàng năm và quy trình lập, báo cáo, tổng hợp và
trình lồng ghép với quy trình dự toán NSNN hàng năm.
- Nội dung kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm cho từng cấp kế hoạch sẽ
nhấn mạnh vào các nội dung về đánh giá xu hướng phát triển của nền kinh tế
trong giai đoạn 05 năm cũng như tình hình thực hiện dự toán NSNN năm hiện
hành; xác định số thu, chi và cơ cấu thu, chi NSNN năm dự toán ngân sách và 2
năm tiếp theo. Trong đó, dự toán thu NSNN được tổng hợp theo từng khoản thu
và cơ cấu thu nội địa, thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, thu viện
trợ; dự toán chi NSNN được tổng hợp theo từng lĩnh vực chi và cơ cấu chi đầu tư
phát triển, chi thường xuyên, chi dự trữ quốc gia, chi viện trợ; dự toán bội chi
hoặc bội thu NSNN, dự báo về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc
gia và các chỉ số an toàn nợ; dự kiến tổng mức vay của NSNN bao gồm vay bù
đắp bội chi NSNN và vay để trả nợ gốc của NSNN; trần chi ngân sách...
- Tương tự kế hoạch tài chính 05 năm kế hoạch tài chính 03 năm cũng được
phân thành kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm quốc gia và kế
hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương.
Đặc biệt, đối với kế hoạch tài chính - NSNN 03 năm của các bộ, sẽ tập
trung về tình hình thực hiện thu, chi ngân sách của bộ và dự báo các nguồn lực
tài chính, trong đó dự báo về số thu được giao quản lý, yêu cầu về chi ngân sách
để thực hiện của bộ, cơ quan, đơn vị năm dự toán ngân sách và 2 năm tiếp theo.
Nhất là dự kiến việc phân bổ ngân sách trong mức trần chi ngân sách được thông
4. Lập theo phương thức cuốn chiếu cho thời gian 03 năm, trong đó năm thứ nhất được sử
dụng để tham khảo lập, trình, quyết định dự toán ngân sách nhà nước hằng năm.
5. Quy trình lập, báo cáo, tổng hợp và trình lồng ghép với quy trình dự toán ngân sách nhà
nước hằng năm.
18



báo khớp đúng cả về tổng mức và cơ cấu chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên,
phân theo từng lĩnh vực theo thứ tự ưu tiên, chi tiết theo chi tiêu cơ sở, chi tiêu
mới..
Những nội dung được đặt ra sẽ giúp kiểm soát chặt chẽ nguồn thu chi của ngân sách nhà nước, tránh việc sử dụng ngân sách nhà nước không
hiệu quả, chi không ưu tiên, mất cân đối thu - chi.
- Kế hoạch tài chính – ngân sách nhà nước 03 năm (Khoản 2 Điều 43) thể
hiện những nội dung lớn về khung cân đối ngân sách nhà nước và trần chi ngân
sách cho các bộ, cơ quan, đơn vị và địa phương trong thời gian 03 năm, có tính
đến diễn biến tình hình kinh tế - xã hội và tài chính – ngân sách hiện tại và cập
nhật dự báo trong thời gian 03 năm kế hoạch. Các đối tượng lập kế hoạch tài
chính – ngân sách nhà nước 03 năm được quy định tại các Khoản 03, Khoản 4,
Khoản 5 Điều 43 Luật ngân sách nhà nước năm 2015. Theo đó, các chủ thể có
trách nhiệm bao gồm: Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư;
Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và đầu tư
3. Đánh giá kế hoạch việc thực hiện kế hoạch tài chính trung hạn 03
năm và 05 năm
Nhằm thực hiện có hiệu quả ngân sách nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về kế hoạch tài chính 05 năm quốc
gia giai đoạn 2016-2020. Kế hoạch tài chính 05 năm quốc gia đã được thực hiện
đến năm thứ tư và có những kết quả ban đầu đáng ghi nhận 7 là minh chứng rõ

7 Báo cáo thẩm tra về sơ kết 03 năm thực hiện Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia 2016-2020
tại phiên họp của Quốc hội chiều ngày 22/10/2018, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách
Nguyễn Đức Hải cho rằng, việc xây dựng và thực hiện Kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia đã
thu được những kết quả bước đầu quan trọng.

19


nhất cho hiệu quả của kế hoạch tài chính trung hạn trong việc sử dụng ngân sách
nhà nước. Cụ thể như sau:

Tại báo cáo thẩm tra sơ kết 03 năm thực hiện KHTC 05 năm quốc gia (năm
2018), Ủy ban tài chính - ngân sách (UBTCNS) đánh giá việc thực hiện KHTC
05 năm đã thu được một số kết quả bước đầu quan trọng:
- Tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN) 03 năm 2016-2018 ước đạt 54,68%
kế hoạch 05 năm. Chi NSNN trong 03 năm 2016-2018 ước đạt 54,4% kế hoạch
05 năm; Tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, đạt mục tiêu 25-26%; Tỷ trọng chi
thường xuyên năm sau giảm hơn so với năm trước. Cơ cấu chi NSNN có chuyển
dịch theo hướng giảm tỷ trọng chi thường xuyên, tăng tỷ trọng chi đầu tư trong
tổng chi NSNN; Tỷ lệ bội chi và nợ công/GDP giảm dần.
- Việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và lập ngân sách hàng năm đã
có sự liên kết chặt chẽ cùng hướng tới mục tiêu chung, tạo sự kết nối giữa chi
tiêu các ngành và địa phương
- Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành NSNN được siết chặt, từng
bước gắn kết giữa chi thường xuyên và chi đầu tư.
- Thủ tục hành chính được cải cách, quản lý thu, chi NSNN được hiện đại
hoá.
- Công tác kế toán, kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, quản lý tài sản công được
đẩy mạnh, có hiệu quả, công khai, minh bạch ngân sách có chuyển biến tích cực.
Việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng được chú trọng và
tăng cường hơn.
Qua 03 năm, bước đầu tạo tính chủ động cho các bộ, ngành trong việc dự
báo khả năng thu ngân sách và nhu cầu chi tiêu để thực hiện các nhiệm vụ được

20


giao. An ninh tài chính quốc gia được đảm bảo, đáp ứng nguồn lực để thực hiện
tốt nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển…
Bên cạnh đó, UBTCNS cũng nêu ý kiến về một số vấn đề như việc điều
chỉnh chính sách thu, công cụ điều tiết các khoản thu chậm đổi mới nên kết quả

thu NSNN chưa được như mong muốn. Chính sách thu chưa được điều chỉnh
theo hướng mở rộng cơ sở thuế, điều chỉnh phạm vi, đối tượng, vẫn còn tình
trạng lồng ghép nhiều chính sách xã hội trong các luật về thuế.
Như vậy, có thể nhận xét rằng, tuy còn một số khó khăn, cần khắc phục
trong quá trình thực hiện kế hoạch tài chính trung hạn nhưng nhìn chung, kế
hoạch tài chính trung hạn là kế hoạch tài chính hiện đại, mang tính đột phá, giúp
khắc phục những hạn chế của ngân sách hàng năm. Theo ông Marc Christoph
Schumacher, Trưởng nhóm Dự án hiện đại hóa nền tài chính công (EU-PFMO)
của Liên minh châu Âu EU và sự hợp tác của Tổ chức Hợp tác phát triển Đức
GIZ, “kế hoạch tài chính trung hạn đưa ra một hướng tiếp cận tới công tác quản
lý tài chính công và lập ngân sách, nhằm giải quyết các hạn chế thường thấy
trong ngân sách hàng năm, thông qua áp dụng một phương án tiếp cận chiến lược
hiện đại đưa ra các ưu tiên và phân bổ nguồn lực giúp xác định các mức độ và
thành phần chi tiêu công phù hợp với nhu cầu mới”. Tuy nhiên, cũng theo ông
Marc, sự thành công của việc triển khai kế hoạch tài chính trung hạn và các tác
động đối với quản lý ngân sách và hoạt động tài khóa ở các nước là khác nhau 8
và được quyết định bởi nhiều điều kiện khác nhau. Nhưng nhìn chung, khuôn
trung hạn vẫn giúp đạt được 3 mục tiêu lớn của quản lý chi tiêu công đó là: tính
tuân thủ tài khóa, hiệu suất phân bố và hiệu suất kỹ thuật.

8 Theo

báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế năm 2011 và Ngân hàng Thế giới năm 20103, thì
vào cuối năm 2008 đã có khoảng 2/3 quốc gia và vùng lãnh thổ triển khai khung tài
chính ngân sách trung hạn
21


KẾT LUẬN
Quản lý tài chính công hiệu quả không chỉ là mối quan tâm của Việt Nam

mà cũng là vấn đề quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, các
nước phát triển và đang phát triển đã và đang thực hiện những cải cách tài chính
công tập trung vào ngân sách dựa trên hiệu suất và khung chi tiêu trung hạn để
giúp chính phủ quản lý, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước có hiệu quả, phù
hợp với các ưu tiên chính sách.
Việc áp dụng khuôn khổ trung hạn xuất hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, đặc biệt là mô hình quản lý chi tiêu trung hạn (MTEF) đã thể hiện sự tiến
bộ, ưu việt trong quan lý công hiện đại. Để cải cách hiệu quả tài chính công quốc
gia, Kế hoạch chi tiêu trung hạn được ghi nhận với kế hoạch tài chính 05 năm và
kế hoạch tài chính - ngân sách 03 năm được xây dựng trên khuôn khổ tài chính
trung hạn đã thực sự tạo ra những kết quả đáng mong đợi. Các kế hoạch chi tiêu
trung hạn đã tạo ra cơ chế đảm bảo kỷ luật tài khóa, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý NSNN, tạo động lực phát triển các nguồn lực, phân bổ ngân sách tập
trung, hợp lý, bảo đảm công bằng, phục vụ mục tiêu phát triển KT-XH, bảo đảm
an ninh, quốc phòng của đất nước; ổn định và phát triển nền tài chính quốc gia,
tăng trưởng kinh tế bền vững, thực hiện xóa đói giảm nghèo.
Trên cơ sở đó, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện những kế
hoạch tài chính trung hạn và cần thiết phải đánh giá thường xuyên, giải quyết
những khó khăn, bất cập còn tồn tại về mặt pháp lý, tháo gỡ những khó khăn trên
thực tế để phát huy hiệu quả của kế hoạch tài chính, đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ
chế quản lý kinh tế, phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

22


23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
2.
3.

Luật NSNN năm 2002;
Luật NSNN năm 2015;
Nghị định 45/2017/NĐ-CP quy định chi tiết lập kế hoạch tài chính 05 năm và

4.

kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 003 năm;
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật ngân sách nhà nước, Nxb. Công

5.

an nhân dân, Hà Nội, 2015;
Nguyễn Thị Hải Anh, Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng kế hoạch tài chính
5 năm, kế hoạch tài chính 03 năm của NSĐP tỉnh Lào Cai, Trường Đại học

6.

Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2018;
TS. Phạm Quang Huy, ThS. Vũ Kiến Phúc, Giới thiệu khuôn khổ chi tiêu
trung hạn - một công cụ đảm bảo nền tài chính quốc gia bền vững và định
hướng cho Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia, Kinh tế Việt Nam

7.

2018 và triển vọng năm 2019;
Ths. Phạm Quang Huy, Mô hình khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong kế toán

công tại một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Phát triển và

8.

hội nhập, số 19 (29) - Tháng 11-12/2014;
Nguyen Thi Ngoc Lan, The Application of Medium-Term Expenditure
Framework for Budgeting in Sonla Province of Vietnam, university of

9.

tampere Master Programme in Public Finance Management, Hà Nội, 2012;
Tài liệu Kế hoạch hành động trong giai đoạn 2014-2016 của ngành Tài chính

triển khai thực hiện Chiến lược Tài chính đến năm 2020, mof.gov.vn;
10. Kế hoạch chi tiêu trung hạn và yêu cầu đặt ra đối với xây dựng hệ thống
thông tin quản lý tài chính Chính phủ, mof.gov.vn;
11. />12. />dID=93892&dDocName=MOFUCM090980&_adf.ctrlstate=tqemeiyyq_4&_afrLoop=83404503164411692;
24


13.

/>
cuc-cua-ke-hoach-tai-chinh-5-nam-quoc-gia-2016---2020;
14. />15. />16. />%C3%B4ng;
17. />%E1%BB%99i%20th%E1%BA%A3o/qu%E1%BB%91c%20gia/Ky%20yeu
%20KTVN%202018/14.TS.%20Ph%E1%BA%A1m%20Quang%20Huy
%20-%20ThS.%20V%C5%A9%20Ki%E1%BA%BFn%20Ph
%C3%BAc.pdf;
18. />

25


×