Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phán quyết của trọng tài thương mại quốc tế về cách thức kiểm tra chất lượng hàng hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.51 KB, 5 trang )

PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
TRANH CHẤP VỀ CÁCH THỨC KIỂM TRA
CHẤT LƯỢNG HÀNG HOÁ
Các bên:
Nguyên đơn : Người bán Thuỵ Sỹ
Bị đơn : Người mua Hà Lan
Các vấn đề được đề cập:


Huỷ hợp đồng



Các tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất hàng hoá khác nhau



Hậu quả của việc hiểu nhầm
Tóm tắt vụ việc:

Nguyên đơn và Bị đơn đã đồng ý ký ba hợp đồng bán cùng một loại hàng hoá với
các quy cách phẩm chất đã được quy định chi tiết.
Hàng được gửi đi từ một công ty Canađa và được giao theo điều kiện C.I.F cảng
Rotterdam. Cả ba hợp đồng được lập bằng tiếng Pháp với những điều kiện giống hệt
nhau, loại trừ điều khoản về số lượng. Điều khoản trọng tài quy định rằng tranh chấp sẽ
được giải quyết theo Quy tắc trọng tài của Phòng Thương Mại Quốc tế. Tuy nhiên chỉ có
hai hợp đồng đầu tiên được ký và thực hiện, hợp đồng thứ ba vẫn chưa được ký và trước
khi hàng được gửi đi từ Canađa, Bị đơn đã huỷ hợp đồng với lý do hàng được giao theo
hai hợp đồng đầu không đúng với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng.
Nhà máy ở Canađa đã gửi một kỹ sư sang Hà Lan để kiểm tra mẫu hàng trong một
phòng thí nghiệm độc lập. Kết quả kiểm tra gây ra nhiều tranh cãi: khi tiến hành phân


tích theo phương pháp của Bắc Mỹ thì mẫu hàng được kiểm tra hoàn toàn phù hợp với
những quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, nhưng khi tiến hành theo phương
pháp của Châu Âu thì lại không phù hợp.
Các bên đã kiện ra trọng tài theo đó:




Nguyên đơn yêu cầu được bồi thường 55.000 USD (bao gồm cả 37.000 USD
trả cho nhà máy ở Canađa) đối với việc huỷ hợp đồng thứ ba.
Bị đơn khiếu nại đòi 181.645 florins Hà Lan cho những thiệt hại liên quan tới
hai hợp đồng ban đầu.

Phán quyết của trọng tài:
Trong vụ kiện này có rất nhiều tranh chấp được nêu ra như về thẩm quyền của


trọng tài, luật áp dụng đối với hợp đồng, vai trò của người kỹ sư được nhà máy ở Canađa
cử sang tiến hành phân tích hàng hoá… Tuy nhiên, ở đây có ba vấn đề cần xem xét:






Thứ nhất, liệu người mua có mặc nhiên được quyền huỷ một hợp đồng khi phỏng đoán
rằng hàng được giao theo hợp đồng thứ ba có thể sẽ không phù hợp với các quy cách
phẩm chất quy định trong hợp đồng hay không?
Thứ hai, quyền được thông tin và nghĩa vụ phải tìm hiểu thông tin (về phương pháp kiểm
tra chất lượng hàng hoá) một cách đầy đủ của các bên trước khi tiến hành ký hợp đồng

được hiểu và áp dụng như thế nào?
Thứ ba, việc hiểu không rõ về tiêu chuẩn đánh giá phẩm chất của hàng hoá dẫn tới hậu
quả là hàng giao không đúng như người mua nghĩ và trông đợi có cho phép người mua
được quyền đòi bồi thường về lô hàng đó hay không?

1. Về quyền đơn phương huỷ hợp đồng của Bị đơn:
Theo quan điểm của Uỷ ban trọng tài, đây là một trường hợp liên quan đến một
nhóm hợp đồng thương mại và do đó, nếu kết luận cuối cùng là hàng hoá được giao theo
hai hợp đồng đầu không phù hợp với quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng, và
nếu Bị đơn tin chắc rằng hàng hoá theo hợp đồng thứ ba sẽ có phẩm chất y như số hàng
đã được giao theo hai hợp đồng trước đó, thì Bị đơn sẽ có quyền từ chối hợp đồng thứ ba.
Theo Điều 48 của Luật thống nhất về Mua bán Hàng động sản Quốc tế, người mua
có thể áp dụng quyền được huỷ hợp đồng thậm chí trước cả thời gian được ấn định cho
việc giao hàng nếu có bằng chứng rõ ràng rằng hàng hoá được giao sẽ không phù hợp với
các quy cách phẩm chất quy định trong hợp đồng. Theo luật Thuỵ Sỹ, nếu mọi bằng
chứng đều cho thấy là hàng hoá sẽ bị hư hỏng tại thời điểm giao hàng, người mua không
được phép đợi tới lúc đó mới tiến hành các thủ tục pháp lý để từ chối nhận hàng.
Trong trường hợp cụ thể này, Bị đơn đã tuyên bố rằng họ sẽ không tiếp tục nhận
hàng hoá trừ khi số hàng này có quy cách phẩm chất phù hợp với phương pháp đánh giá
do Bị đơn đưa ra. Tuy nhiên Nguyên đơn và nhà cung cấp (nhà máy ở Canađa) hiện đang
sử dụng phương pháp của Bắc Mỹ, đã không chấp nhận điều kiện này. Như vậy, nếu giả
thiết về sự không phù hợp của hàng hoá được chứng minh, Bị đơn có quyền từ chối hợp
đồng thứ ba.

2. Về việc hiểu lầm:
Thực chất, cả hai bên đều đã hết sức thiện chí trong việc giải quyết tranh chấp giữa
họ. Về phần mình, Nguyên đơn đã ngay lập tức tuyên bố sẵn sàng gửi mẫu do hai bên
cùng lấy tới kiểm tra tại một phòng thí nghiệm độc lập do hai bên cùng lựa chọn và sẽ
chấp nhận việc huỷ hợp đồng thứ ba nếu những phân tích này cho thấy rằng những lý do
mà Bị đơn đưa ra là có cơ sở. Nguyên đơn cũng đã ngay lập tức thông báo về những vấn

đề về phẩm chất và gửi mẫu cho nhà máy ở Canađa, đồng thời yêu cầu nhà máy cử đến
một kỹ sư.


Như thế có thể thấy nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tranh chấp trên là sự hiểu
lầm.
"Theo kết luận chính của kỹ sư sau chuyến công tác tại Hà Lan, hàng được gửi đi
không phải là hàng mà người mua Hà Lan nghĩ rằng mình đã mua". Đó là do khi chào
hàng người bán Thuỵ Sỹ đã không hề đề cập tới phương pháp phân tích phẩm chất còn
người mua Hà Lan thì lại cho rằng, vì hàng được một công ty Châu Âu chào bán nên
phương pháp phân tích của Châu Âu sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Nguyên đơn lập luận
rằng "Từ trước tới nay, phương pháp được áp dụng để phân tích là phương pháp của
nước xuất xứ hàng hoá hoặc phương pháp được toàn thế giới công nhận, như phương
pháp của Bắc Mỹ chẳng hạn”.
Sự khác biệt cơ bản giữa phương pháp Bắc Mỹ và phương pháp Châu Âu là ở cách
biểu thị độ hoà tan của bột bằng số (chỉ số hoà tan) mà tranh chấp chủ yếu của hợp đồng
này là về độ hoà tan của bột (đối tượng của hợp đồng). Chính bởi vậy phương pháp phân
tích cần phải được xác định rõ để có thể xác định được độ hoà tan của bột.
Tuy nhiên chỉ mãi tới khi Bị đơn khiếu nại về phẩm chất của hàng thì mâu thuẫn
về phương pháp sử dụng để phân tích chất lượng hàng hoá mới phát sinh. Và cũng chỉ tới
khi đó, người bán mới thông báo về phương pháp kiểm tra mà theo họ đã được quốc tế
công nhận, đó là phương pháp Bắc Mỹ.
Nhà máy tại Canađa đã đồng ý cử kỹ sư sang Hà Lan với điều kiện là các bên phải
thống nhất về phương pháp kiểm tra. Trên thực tế, nếu sử dụng phương pháp Bắc Mỹ để
kiểm tra thì hàng hoá giao theo hai hợp đồng đầu tiên có chất lượng hoàn toàn phù hợp
với miêu tả chất lượng trong hợp đồng. Tuy nhiên nếu sử dụng phương pháp Châu Âu thì
hàng đã giao không đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng theo thoả thuận.
Nguyên đơn lẽ ra đã phải biết rằng việc hiểu lầm trong việc miêu tả hàng hóa hoàn
toàn có thể xảy ra trên thị trường Châu Âu. Thực tế, người bán Thụy Sỹ và người mua Hà
Lan chưa hề có một thoả thuận nào về phương pháp Bắc Mỹ cả. Người bán, tức Nguyên

đơn, lẽ ra phải nêu rõ là những miêu tả về hàng hoá trong hợp đồng phải được hiểu theo
phương pháp Bắc Mỹ như người cung cấp Canađa đã nêu rất rõ điều này trong hợp đồng
ký với Người bán. Về phần mình, Bị đơn cũng đã biết rất rõ rằng hàng có xuất xứ từ
Canađa vì họ đã từng liên hệ với nguời cung cấp, nhà máy ở Canađa. Vì vậy, việc hiều
lầm này cũng có nguyên nhân một phần từ sự cẩu thả của Bị đơn vì lẽ ra Bị đơn đã phải
hỏi rõ về những chỉ số được sử dụng để miêu tả bột.
Mối quan hệ qua lại giữa quyền được cung cấp đủ thông tin và nghĩa vụ phải tự
hỏi thông tin một cách cụ thể chính là vấn đề cơ bản của tranh chấp này.
Xét cho cùng, Bị đơn và Nguyên đơn cùng phải chia sẻ trách nhiệm về hậu quả do
lỗi cẩu thả gây nên. Tuy nhiên xét vì phương pháp Bắc Mỹ được sử dụng rộng rãi hơn so
với những phương pháp khác nên lỗi do cẩu thả trong việc cung cấp thông tin của


Nguyên đơn được xét nhẹ hơn so với Bị đơn.
Theo luật Thuỵ Sỹ, bên có lỗi có quyền được yêu cầu huỷ hợp đồng ngay cả khi
lỗi đó là do sự cẩu thả mà mình gây ra. Lỗi của một (các) bên trong hợp đồng sẽ được coi
là nghiêm trọng khi nó dẫn đến nhầm lẫn cơ bản về phẩm chất khiến hàng hoá thuộc hẳn
về một loại khác của hàng hoá đó. Trong trường hợp đang xét, cách đo độ hoà tan của bột
có thể dẫn tới hậu quả là hàng hoá được giao là một loại khác so với loại hàng hoá mà Bị
đơn muốn mua.
Bên có lỗi có thể yêu cầu huỷ hợp đồng với điều kiện phải trả tiền bồi thường.
Trách nhiệm này được đặt ra với giả định trước là lỗi phát sinh từ chính sự cẩu thả của
bên đó, trong trường hợp cụ thể này, lỗi của người mua là đã không hỏi đầy đủ thông tin
về hàng hoá. Còn lối của người bán là đã không cung cấp đầy đủ thông tin về hàng hoá.
Về mặt nguyên tắc, luật Thuỵ Sỹ quy định rằng bên có lỗi không phải bồi thường
cho bên đối tác của mình nếu như đối tác này đã biết về lỗi trên. Tuy nhiên những án lệ
trước đó có xét đến việc giảm bồi thường trong trường hợp hai bên cùng có lỗi. Xét lỗi
riêng của từng bên trong vụ kiện này, Uỷ ban trọng tài đã quyết định rằng số tiền bồi
thường sẽ được chia làm 5 phần, Bị đơn chịu 3/5 về lỗi hiểu nhầm và Nguyên đơn chịu
2/5.


3. Về đơn kiện lại của Bị đơn yêu cầu được bồi thưòng thiệt hại do sự không phù
hợp của hàng hoá được giao theo hai hợp đồng trước:
Theo Uỷ ban trọng tài, hai hợp đồng ban đầu không thể được coi là vô hiệu nữa vì
chúng đã được xác nhận và việc thanh toán cũng đã được thực hiện sau khi lỗi được phát
hiện, hơn nữa không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng hai bên đã có những thương lượng
về vấn đề này. Do đó đơn kiện lại của Bị đơn là không có cơ sở.
Uỷ ban trọng tài kết luận:






Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn một khoản tiền bồi thường trị giá
37.000 USD (trong tổng số 55.000 USD mà Nguyên đơn yêu cầu) cho việc huỷ
hợp đồng thứ ba.
Bác khiếu nại đòi bồi thường của Bị đơn về sự không phù hợp của hàng hoá
được giao theo hai hợp đồng trước.
Nguyên đơn phải trả 2/5 và Bị đơn trả 3/5 phí trọng tài.

Bình luận và lưu ý:
Trong thực tế kinh doanh, việc các bên gặp gỡ trực tiếp để tiến hành đàm phán và
ký hợp đồng không phải lúc nào cũng thực hiện được. Để ký kết một hợp đồng hoặc thực
hiện một thương vụ, các bên thường chỉ trao đổi rất nhanh thông tin dưới hình thức văn
bản (đơn chào hàng, đơn đặt hàng, hợp đồng, tài liệu kỹ thuật...) qua Telex, Fax, thư tín
hoặc thậm chí có trường hợp không có văn bản đầy đủ. Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ thì


không có vấn đề gì đáng nêu ra, tuy nhiên nếu có bất cứ một khó khăn nào phát sinh thì

những thiếu sót, lỗi lầm hoặc sơ hở dù nhỏ mấy cũng có hậu quả nghiêm trọng khó
lường. Chính bởi vậy, trước khi tiến hành ký kết bất cứ hợp đồng nào, việc soạn thảo chặt
chẽ các văn bản hoặc hợp đồng mua bán, những phụ lục kèm theo như tài liệu kỹ thuật
hay miêu tả về hàng hoá... phải được đặc biệt coi trọng. Mọi chi tiết chưa rõ ràng cần
phải được làm sáng tỏ ngay để tránh những thiệt hại đáng tiếc không nên có như chúng ta
đã thấy qua ví dụ nêu trên.



×