Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯỚC

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHƯỚC

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS.TS TRỊNH TIẾN VIỆT

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả

Nguyễn Phước


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH

HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC

TRONG LUẬT HÌNH SỰ ........................................................................................6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam ...............................................6
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng tháng 8 năm
1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ........................................14
1.3. Quy định tương tự của Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ............................19
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ

Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM ....................................................................................26
2.1. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác ........................................................................26
2.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác với một số tội phạm khác..................................................................................44
2.3. Thực tiễn xét xử về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ....................................47
2.4. Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân cơ bản ...............................................52
CHƯƠNG 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH
SỰ NĂM 2015 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP
DỤNG .......................................................................................................................61
3.1. Yêu cầu về việc tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .........61


3.2. Nội dung hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ...................................66
3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan .....................................................69
3.4. Các giải pháp bảo đảm áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác .......................71
KẾT LUẬN ..............................................................................................................79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt


STT

Nghĩa đầy đủ

1

BLHS

Bộ luật hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3

CQĐT

Cơ quan điều tra

4

CSHS

Chính sách hình sự

5


LHS

Luật hình sự

6

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

7

TNHS

TNHS

8

THTT

Tiến hành tố tụng

9

VAHS

Vụ án hình sự

10


VKS

Viện kiểm sát

11

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

12

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
2.1


cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai đoạn

48

2013-2018
Số vụ án và số bị cáo về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại
2.2

cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam đã được Tòa án thụ lý, giải quyết trong giai

49

đoạn 2013-2018
Nhân thân các bị cáo đã bị Tòa án thị xã Điện Bàn xét xử về cố
2.3

ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác
giai đoạn 2013-2018

50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm. Có thể nói,
quyền con người mang những giá trị cao quý chung của toàn nhân loại, có tính
phổ biến [23, tr.5]. Chính vì vậy, hầu hết pháp luật các nước đều có quy định ghi
nhận và bảo đảm cho quyền con người.

Quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những quyền cơ bản và
quan trọng trong quyền con người, được quy định cụ thể trong Tuyên ngôn quốc tế
về nhân quyền 1948. Trong đó, Điều 3 của Tuyên ngôn khẳng định: “Mọi người đều
có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân” [14, tr.48]. Theo đó, không ai bị
xâm phạm bất hợp pháp đến tính mạng, sức khỏe, danh dự. Mọi người đều có quyền
được pháp luật bảo vệ chống lại những xâm phạm. Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể được coi trọng và quy định trong đạo luật có giá trị pháp lý cao
nhất. Điều 20 Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm” [21, tr.19]. Như vậy,
có thể nói quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận và bảo vệ.
Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án đã tích cực
đấu tranh ngăn chặn và xử lý các hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và các hành vi cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác nói riêng, góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm [25, tr.6]. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác cho
thấy, còn có nhiều bất cập, vướng mắc, nhiều vụ án việc định tội còn gặp mâu
thuẫn, dễ dẫn đến xét xử oan người vô tội, bỏ lọt tội phạm, trong đó có địa bàn thị

1


xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngoài ra, quy định của BLHS năm 2015 đã có
những sửa đổi, bổ sung hoàn thiện về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức
khỏe của người khác, tuy nhiên, việc áp dụng vẫn còn chưa thống nhất, chưa phù
hợp với thực tiễn đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết.

Từ những lẽ trên, việc nghiên cứu sâu sắc một số vấn đề lý luận các tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử tội
phạm này không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn
là vấn đề mang tính cấp thiết, đặc biệt là gắn với một địa bàn cụ thể. Đây cũng là lý
do luận chứng cho việc tác giả chọn đề tài “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn
thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, cho đến nay đã có một số công trình nghiên cứu về các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người nói chung và “Tội cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” nói riêng. Đầu
tiên, đó là công trình nghiên cứu của ThS. Đinh Văn Quế: TNHS đối với hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người, Nxb Công an nhân dân, năm 1994.
Tiếp đến là công trình TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị quốc gia, năm 1997 (tái bản năm
1999). Công trình luận văn thạc sỹ của Lê Đình Tĩnh, Các tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam, Khoa luật, Đại
học quốc gia Hà Nội, năm 2014. Gần đây, có luận án tiến sĩ luật học: “Các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy
Hữu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tuy nhiên, tác giả làm cả nhóm
tội phạm xâm phạm sức khỏe của người khác và mang tính tổng thể, đánh giá địa
bàn cả nước về nhóm tội phạm này, qua đó, cũng là tư liệu để học viên tiếp tục
nghiên cứu vấn đề này.
Như vậy, các nghiên cứu trên đây của các tác giả cho thấy các công trình này
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con

2


người nói chung, mà chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể, sâu kỹ và độc lập về

tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong BLHS hiện
hành. Mặt khác, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào tổng kết đánh giá thực tiễn
áp dụng tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó chỉ ra các tồn tại, vướng mắc,
đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, nên rõ ràng vấn đề này có tính
thời sự cao. Tuy vậy, các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan
trọng đối với tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sâu sắc hơn về mặt lý luận quy
định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong
BLHS Việt Nam hiện hành và việc áp dụng quy định này trong thực tiễn tại thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, từ đó xác định những bất cập để đề xuất hoàn thiện quy
định của BLHS về tội phạm này và đưa ra các giải pháp bảo đảm áp dụng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Xây dựng khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của
người khác, từ đó làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội
phạm này trong BLHS năm 2015.
- Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy định BLHS năm 2015 về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đồng thời phân tích các tồn tại, vướng mắc, chỉ ra
nguyên nhân.
- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận, quy định BLHS
và thực tiễn áp dụng quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe
của người khác tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.


3


4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện dưới góc độ khoa học luật hình sự, thuộc chuyên
ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự, mã số: 8.38.01.04
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác trong Điều 134 BLHS năm 2015 và quy định
BLHS một số nước, cũng như một số vấn đề lý luận về tội phạm này.
Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn thị
xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
Phạm vi về thời gian: Các số liệu thực tiễn phục vụ nghiên cứu đề tài được
thu thập trong thời gian từ 2013 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, về quyền bất khả xâm phạm về thân thể, “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác” trong BLHS và những quy định
pháp luật có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê; v.v... của khoa học luật hình sự để luận chứng và làm
sáng tỏ các vấn đề tương ứng.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã khảo sát thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhân dân thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu hồ sơ các vụ án làm cơ sở thực tiễn cho
việc nghiên cứu, đồng thời đã đưa ra các giải pháp cụ thể bảo đảm áp dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả của luận văn góp phần làm sâu sắc hơn lý luận về tội cố ý gây

4


thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, từ đó, kiến nghị các nội
dung tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác và một số quy định có liên quan, đồng thời nó có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học
pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở khía
cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Một số vấn đề chung về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự;
Chương 2: Quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và thực tiễn xét xử trên địa bàn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện quy định của BLHS năm 2015 về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và các giải pháp bảo đảm
áp dụng.

5



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
TRONG LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác
Quyền được bảo vệ về sức khỏe là một trong những quyền cơ bản của con
người. Sức khỏe được hiểu “là trạng thái không có bệnh tật, cảm thấy thoải mái về
thể chất, thư thái về tinh thần” [29, tr.878-879]. Như vậy, hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe đã tác động làm mất đi sự “thoải mái về thể chất,
thư thái về tinh thần” của người khác. Tuy nhiên, sự tác động này có tính chất, mức
độ nguy hiểm cao thì mới bị coi là tội phạm. Việc đánh giá tính nguy hiểm hành vi
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được cụ thể hóa
bằng các quy định của BLHS. Ở đó cho phép chúng ta nhận diện đâu là tội phạm và
đâu không phải là tội phạm.
Tội phạm là khái niệm được quan tâm nghiên cứu trọng tâm trong khoa học
pháp lý hình sự và đã có nhiều quan điểm, định nghĩa về tội phạm. Trên cơ sở kế
thừa những quy định trước đó, Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 đưa ra khái niệm:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực TNHS hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”
[22]. Quy định trên đã thể hiện tập trung nhất quán quan điểm của Nhà nước ta về


6


tội phạm và trên cơ sở đó, nhà làm luật có thể xác định các dấu hiệu căn bản để
phân biệt tội phạm với các hành vi vi phạm pháp luật khác dựa trên các yếu tố sau:
tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và tính phải chịu
hình phạt; đồng thời, các nhà nghiên cứu có thể tự xây dựng khái niệm đối với các
tội phạm cụ thể trên cơ sở các dấu hiệu căn bản được nên trong khái niệm tội phạm.
Trong BLHS, các nhà làm luật lại chia các hành vi được coi là tội phạm thành
các nhóm, loại tội phạm khác nhau. Để phân biệt giữa chúng, bên cạnh các dấu hiệu
chung của tội phạm, người ta đưa một hoặc một số dấu hiệu pháp lý đặc trưng riêng
có của tội phạm đó. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác cũng dựa vào nguyên lý đó mà hình thành.
Trước hết, theo quan điểm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, “Các tội xâm
phạm sức khỏe là những hành vi (hành động hoặc không hành động) có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) xâm phạm quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của người khác” [4,
tr.127].
Quan điểm trên đã bao quát toàn bộ đặc điểm các hành vi cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khái niệm này cho thấy phạm vi
các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là rất
rộng. Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được quy định tại Điều
134 BLHS năm 2015 nhưng theo khái niệm của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa thì
ngoài tội phạm được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015 còn có các tội phạm
khác. Cụ thể, đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
(Điều 136). Có thể nói, các tội này là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong các trường hợp đặc biệt và gắn với chúng là các dấu

hiệu đặc biệt.
Quan điểm của PGS.TS. Trần Văn Luyện lại có chút khác biệt, theo đó, tội

7


cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác “là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sống,
quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người” [30, tr.60].
Xét một cách toàn diện, quan điểm trên chứa đựng nhiều hạt nhân hợp lý khi
phân tích tương đối bao quát các hành vi như thế nào được coi là cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu,
khái niệm này chưa phân tích mức độ thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe là bao
nhiêu thì đủ dấu hiệu cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác. Có thể thấy, trong nhiều trường hợp, người thực hiện hành vi
dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác tác động lên cơ thể của người khác gây tổn hại cho
sức khỏe của người đó nhưng chưa đến mức tội phạm. Cụ thể hơn, khi mức độ
thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không lớn, dưới 11% và không thuộc các
trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 134 BLHS năm 2015 thì không coi là
tội phạm.
Bên cạnh đó, tại Phần các tội phạm Giáo trình luật hình sự Việt Nam của
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, TS. Phạm Mạnh Hùng đưa ra khái niệm tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác được hiểu là “hành
vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể từ 11% trở lên hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường
hợp sau: Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở
lên; dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; gây cố tật nhẹ cho nạn nhân; phạm
tội 02 lần trở lên; phạm tội đối với 02 người trở lên; đối với người dưới 16 tuổi,
phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả

năng tự vệ; đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo
của mình; có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội trong thời gian đang
bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp
đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt
buộc; thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc

8


gây tổn hại sức khỏe do được thuê; có tính chất côn đồ; tái phạm nguy hiểm; đối
với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân” [12, tr.146].
Tóm lại, các quan điểm trên đã khái quát nhiều mặt các dấu hiệu đặc trưng
cơ bản để cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác. Tuy nhiên, việc mô tả quá chi tiết các dấu hiệu của tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác sẽ làm hẹp cách hiểu về tội này.
Mặt khác, đó là các dấu hiệu có tính định lượng nên việc thay đổi sẽ là tất yếu. Vì
vậy, theo tác giả, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm đang nghiên cứu
được định nghĩa như sau:
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS
thực hiện một cách có lỗi, xâm hại đến sức khỏe của người khác đến mức bị coi là
là tội phạm trong BLHS.
1.1.2. Ý nghĩa của việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác tại Điều 134 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 góp phần hoàn
thiện hệ thống các chế định về tội danh trong BLHS trên cơ sở kế thừa và phát huy
các BLHS trước đó.
Nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý cơ bản

của tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các phương hướng, cách thức, phương pháp tiến
hành các hoạt động điều tra nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết VAHS liên quan
đến tội phạm này. Cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng trong hoạt
động điều tra VAHS. Bởi lẽ, các dấu hiệp pháp lý đặc trưng cơ bản trong cấu thành
tội phạm mang tính chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, cho phép người áp dụng
pháp luật phân biệt tội phạm này với tội phạm khác cũng như giúp họ xác định được
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Trên cơ sở cấu thành
tội phạm của một tội danh cụ thể, người áp dụng pháp luật xác định chính xác

9


TNHS và định tội danh đối với hành vi phạm tội theo đúng pháp luật cũng như xác
định được các vấn đề: Hành vi phạm tội đó thuộc loại tội phạm nào? Người thực
hiện hành vi phạm tội có phải chịu TNHS hay không?...
Bên cạnh đó, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc định tội danh và
quyết định hình phạt, góp phần vào công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm,
tránh bỏ lọt tội phạm. Ngay phần Lời nói đầu của BLHS Việt Nam đã khẳng định
pháp luật hình sự là một trong những công cụ hữu hiệu để đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm. Đồng thời, luật hình sự góp phần tích cực loại bỏ những yếu tố
gây cản trở cho tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Từ quy định của BLHS, có thể thấy, sự cần thiết phải quy định các tội xâm
phạm sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam xuất phát từ các chức năng của
nó, mà luật hình sự có chức năng trước hết và cơ bản là chức năng bảo vệ cho sự
phát triển bình thường của các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động Việt Nam. “Là một trong những bộ phận quan trọng của
hệ thống tư pháp hình sự, luật hình sự được coi là công cụ tự vệ của xã hội chống
lại tội phạm - những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho Nhà nước, cho con người.

Vì vậy, nhiệm vụ đầu tiên của LHS là nhiệm vụ bảo vệ. Ở thời đại nào và quốc gia
nào, luật hình sự cũng có nhiệm vụ ấy...” [28, tr.90]. Trong các quan hệ xã hội mà
luật hình sự bảo vệ có quan hệ xã hội liên quan đến quyền được bảo vệ về sức khỏe
của con người. Do đó, sự cần thiết quy định các tội xâm phạm sức khỏe của người
khác trong LHS Việt Nam được thể hiện như sau:
Một là, xuất phát từ vị trí của quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của con
người trong hệ thống các quyền con người theo pháp luật quốc tế
Nghiên cứu đặc tính cơ bản của quyền con người, ngoài các đặc tính như tính
phổ biến, tính không thể tước đoạt, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau… thì một đặc
tính quan trọng của quyền con người là tính không thể phân chia [23, tr.31]. Nhưng
điều này không có nghĩa là các quyền cụ thể của con người có vị trí, vai trò như

10


nhau. Có những quyền có mức độ gắn bó thiết thân với sự tồn tại của con người, thể
hiện sự tôn trọng nhân phẩm cá nhân nên phải được xem là quan trọng hơn, cần
được ưu tiên hơn so với các quyền khác. Trong số các quyền đó có quyền được tôn
trọng, bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tự do thân thể của con
người. Nói khác đi, đó chính là “quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân” [30, tr.49].
Như vậy, con người cần được bảo đảm về quyền sống, quyền tự do và an
ninh cá nhân. Ngay từ Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của
LHQ, con người đã khẳng định những quyền cơ bản của mình tại Điều 3, Điều 4,
Điều 5 và Điều 9 của văn bản này, cũng như nhiều quyền khác, đó là:
Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (Điều 3);
Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc cưỡng bức làm việc như nô lệ; mọi hình thức nô lệ
và buôn bán nô lệ đều bị cấm (Điều 4); Không ai bị tra tấn hay bị đối xử, xử phạt
một cách tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; Không ai bị bắt, giam giữ
hay lưu đày một cách tùy tiện (Điều 9) [15, tr.49-50].
Tiếp đến, Công ước Quốc tế của Liên Hợp quốc về các quyền kinh tế, xã hội

và văn hóa năm 1966 lại nhấn mạnh hơn: Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc
trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm; không ai có thể bị sử dụng
để làm thí nghiệm y học hay khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người
đó (Điều 7). [15, tr.220]
Như vậy, việc ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người,
trong đó có quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác được Hiến pháp
và LHS Việt Nam quy định là xuất phát từ vị trí của quyền đó trong hệ thống các
quyền con người. Việc trật tự hóa quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người
khác trong BLHS năm 2015 dựa theo các tiêu chí về quyền con người của luật pháp
quốc tế. Nó đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải trên cơ sở những tiêu chí đó mà cụ
thể hóa vào hệ thống pháp luật, cũng như chính sách hình sự của Nhà nước những
quy định thiết thực, khả thi nhất. Điều này đúng như PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí đã
khẳng định: “Với chính sách hình sự hướng tới việc bảo vệ quyền con người thì quá
trình này đòi hỏi, một mặt phải xác định yêu cầu cần thiết phải hình sự hóa, tội

11


phạm hóa những hành vi xâm hại đến quyền con người, mặt khác phải rà soát, loại
bỏ những tội phạm mà cấu thành của nó hạn chế quyền con người…” [5, tr.37].
Tựu trung lại, với vị trí quan trọng như vậy, quyền được bảo vệ về sức khỏe
được coi là khách thể bảo vệ quan trọng của LHS các nước và cũng như của Việt
Nam. Do đó, LHS Việt Nam có nhiệm vụ phải ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền này bằng cách quy định những hành vi xâm phạm đến sức khỏe của con
người, trong đó có hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác là tội phạm và đi liền với đó là các hình phạt tương xứng với mức độ,
tính chất của hành vi phạm tội. Hiện nay, thế giới ngày càng coi trọng quyền con
người nói chung và quyền được bảo vệ về sức khỏe nói riêng, thì việc thể chế hóa
luật pháp quốc tế và hình sự hóa các hành vi nguy hiểm xâm hại đến sức khỏe con
người ở Việt Nam cần phải được chú trọng, tập trung hơn nữa.

Hai là, xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm và việc bảo vệ
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác trong BLHS Việt Nam
Nhìn nhận một cách khách quan, sức khỏe gắn liền với tính mạng con người
là thứ vô cùng trân quý. Không có sức khỏe thì sự sống của thực thể dường như
không tồn tại. Một con người mất đi sức khỏe cố nhiên sẽ rơi vào trạng thái thực
vật. Vì lẽ đó, họ không thể tham gia vào các quan hệ xã hội mà mình mong muốn và
bị phụ thuộc vào người khác. Quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe luôn gắn bó
chặt chẽ với quyền sống của con người. Chính vì vậy, ranh giới giữa quyền được
bảo vệ về sức khỏe và quyền sống là vô cùng mong manh.
Với tính cách là một quyền quan trọng trong hệ thống quyền con người,
quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe được Nhà nước ghi nhận, tôn trọng và bảo
đảm. Nói khác đi, “đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, bảo vệ quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khỏi sự xâm hại của hành vi phạm
tội là một trong các chức năng của Nhà nước và trách nhiệm quan trọng của các cơ
quan tiến hành tố tụng…” [5, tr.37]. Quy định việc bảo vệ quyền bất khả xâm phạm
về sức khỏe trong BLHS Việt Nam xuất phát từ cơ sở nhận thức sâu sắc về tầm quan
trọng của quyền này. Nhưng hơn hết, các quy định đó bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn về

12


đấu tranh phòng, chống tội phạm xâm phạm đến sức khỏe của người khác.
Mặt khác, giữa quyền bất khả xâm phạm đến sức khỏe của người khác và
quyền sống có mối quan hệ hữu cơ, do đó, muốn bảo vệ quyền sống trước hết phải
bảo đảm được quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Thực tiễn cho thấy, khi người
nào có hành vi dùng bạo lực hoặc các thủ đoạn khác tác động lên thân thể của người
khác thực sự khó kiểm soát mức độ xâm phạm của mình. Có thể, ý định ban đầu chỉ
muốn xâm phạm đến sức khỏe nhưng trong thực tế lại có trường hợp xâm phạm đến
quyền sống của người khác. Vì vậy, việc quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác trong LHS Việt Nam là cơ sở để xử lý người

phạm tội trong nhiều trường hợp xảy ra trên thực tiễn, đảm bảo được sự công minh
của pháp luật và công bằng xã hội.
Không phải ngẫu nhiên mà trong BLHS Việt Nam cũng như BLHS một số
nước trên thế giới, các nhà lập pháp lại quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm trong cùng một chương hay thường đặt chương này lên
vị trí là chương đầu tiên của BLHS hoặc chương đầu tiên Phần các tội phạm, trong
đó đề cập đến các tội phạm này.
Như vậy, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác (trong đó có tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác) là một trong những
nhóm khách thể quan trọng cần LHS Việt Nam bảo vệ. Bên cạnh đó, qua việc quy
định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khỏe của người khác trong
BLHS, đã bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và thân thể của người khác trái pháp luật.
Ba là, xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề bảo vệ sức khỏe của con người đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam [13, tr.62]
Trong tồn tại xã hội, sức khỏe nói chung và sức lao động nói riêng chính là
nền tảng tạo ra vật chất, tinh thần cho sinh hoạt xã hội. Khi có sức khỏe, con người
có thể thực hiện đầy đủ và tối ưu các hoạt động cá nhân cũng như hoạt động xã hội.
Từ đó, sức khỏe giúp cho sự mỗi người tự khẳng định vị trí mình trong xã hội. Tiếp
cận trên phương diện xã hội, có thể thấy rằng sức khỏe của mỗi cá nhân có ảnh

13


hưởng sâu sắc đến đời sống chung của cả cộng đồng. Cá nhân không khỏe thì cộng
đồng mất đi một thành viên tích cực. Mặt khác, nếu cá nhân đó rơi vào trạng thái
ốm đau, bệnh tật, thì Nhà nước, xã hội cũng phải đầu tư nhiều nguồn lực cho việc
chăm sóc y tế, trợ giúp cho cá nhân đó. Lúc này, vấn đề sức khỏe đã vượt ra ngoài
phạm vi của mỗi cá nhân mà nó thực sự trở thành đối tượng phải chăm lo chung của
cả cộng đồng. Cũng vì lẽ đó, Nhà nước ta đề ra Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc

và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong
đó xác định rõ: “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là bổn phận của
mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ, ngành, các
cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức
xã hội nghề nghiệp” [32].
Nhìn nhận được tầm quan trọng của vấn đề sức khỏe của nhân dân với ý
nghĩa là nguồn lực quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nhà
nước ta đã xây dựng cơ sở pháp lý để bảo đảm, bảo vệ sức khỏe của con người, mà
trước hết là quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe. Vì vậy, khi sức khỏe con người
bị tác động bởi hành vi nguy hiểm của xã hội thì với chức năng của mình, LHS phải
tạo ra các quy định, chế tài phù hợp để xử lý tội phạm xâm hại đến sức khỏe người
khác, đảm bảo sự công bằng của xã hội. Từ đó, các quy định này cũng góp phần
phòng ngừa tội phạm, giáo dục và nâng cao ý thức tuân theo pháp luật cho mọi
người, xây dựng ý thức tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của mình cũng như của người
khác cho mọi cá nhân.
1.2. Khái quát lịch sử luật hình sự Việt Nam quy định về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ Sau Cách mạng
tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
1.2.1. Giai đoạn từ Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1985
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ nước ta bị thực dân Pháp đô hộ.
Vì vậy, đây là thời kì lập pháp nước ta bị gián đoạn. Bằng chính sách chia để trị,
thực dân Pháp đã dùng ba BLHS khác nhau để áp dụng trên ba miền đất nước. Ở
Bắc Kỳ, chúng ban hành Hình luật An Nam, ở Trung Kỳ vẫn áp dụng Hoàng Việt

14


hình luật, ở Nam Kỳ áp dụng Hình luật pháp tu chính. Trong các Bộ luật này đều có
điều khoản quy định liên quan đến tội xâm phạm sức khỏe của người khác.[24, tr.66]
Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam

kiểu mới được hình thành với những thay đổi về áp dụng pháp luật. Do bộ máy
chính quyền mới hình thành kèm theo đó là nhiều những biến động lịch sử nên
nước ta chưa có điều kiện để ban hành luật mới, do đó Nhà nước ta đã cho phép
áp dụng một số văn bản pháp luật của đế quốc - phong kiến, cố nhiên là các quy
định trong đó không trái với nguyên tắc độc lập của đất nước và chính thể dân
chủ cộng hòa của nước ta.
Đến năm 1955, để mở đầu cho những thay đổi mạnh mẽ về pháp luật hình
sự nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích cho người khác nói riêng, Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 về việc
trừng trị một số tội phạm. Trong đó, điểm 3 của Thông tư có quy định hành vi
đánh bị thương: phạt tù từ 03 tháng đến 05 năm; đánh bị thương có tổ chức hay
gây thành cố tật hay chết người có thể phạt đến 20 năm... [26, tr.326].
Không những vậy, Điều 4 của Thông tư 442/TTg còn quy định: “Không
cẩn thận... mà gây tai nạn làm người khác bị thương thì sẽ bị phạt tù từ 03 tháng
đến 03 năm. Nếu gây tai nạn làm người chết người thì có thể phạt tù đến 10 năm”
[26, tr.356].
Thời kỳ kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại, các văn
bản quy phạm pháp luật của thực dân và phong kiến lúc này không còn phù hợp.
Do đó, ngày 30/6/1955, Bộ Tư pháp đã có Thông tư số 19/VHH-HS yêu cầu các
Tòa án không áp dụng luật lệ của thực dân - phong kiến nữa. Thông tư này ra đời
đã thay thế Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 và cùng với Chỉ thị số 772/TATC
được TANDTC ban hành ngày 10/7/1959 về vấn đề đình chỉ áp dụng pháp luật cũ
của đế quốc và phong kiến, từng bước ban hành các văn bản pháp luật mới đã tạo
ra bước ngoặc đổi mới cho pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như quy
định về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng.
Thời kỳ sau năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, đất nước được

15



thống nhất, Nhà nước ban hành Nghị quyết ngày 02/7/1976 giao cho Chính phủ
hướng dẫn việc áp dụng pháp luật thống nhất trên phạm vi cả nước. Trong đó, các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác được quy định trong Sắc luật số 03-SL/76
của Hội đồng Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam và được áp
dụng trên cả nước. Cụ thể hơn, điểm b Điều 5 Sắc luật quy định rất rõ nếu ai
phạm tội cố ý gây thương tích, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 05 năm. Thậm chí,
trường hợp nghiêm trọng, thì bị phạt tù đến 20 năm.
Bên cạnh đó, TANDTC hướng dẫn việc áp dụng pháp luật cho Tòa án các
cấp, trong đó có Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các
hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ. Nhờ đó, có sự phân biệt
được một số trường hợp đặc biệt của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
sức khỏe cho người khác, các Tòa án tránh sự nhầm lẫn trong quá trình áp dụng.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự
năm 2015
Quá trình xây dựng đất nước đã tạo điều kiện để nước ta chú trọng hơn về
vấn đề lập pháp hình sự. Ngày 27/6/1985, Quốc hội đã thông qua BLHS đầu tiên
của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, đặt cột mốc vô cùng quan trọng trong quá
trình xây dựng, hoàn thiện và phát triển quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và
quy định pháp luật về các tội xâm phạm sức khỏe của người khác nói riêng, trong
đó có tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác.
Trong BLHS năm 1985, các tội xâm phạm sức khỏe của người khác được
quy định tại Chương II với các tội phạm cụ thể bao gồm: Tội xâm phạm tính mạng
hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 109); tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110); tội vô ý gây
thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 111) và tội
hành hạ người khác (Điều 103) [19]. Để các quy định này được thực thi, liên ngành
Trung ương bao gồm TANDTC, VKSNDTC và Bộ Nội vụ đã ban hành một loạt
các văn bản hướng dẫn thi hành nhóm tội phạm này [13, tr.69]. Trong đó, phải kể


16


đến Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của BLHS đã hướng
dẫn cách thức phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng, giữa tổn hại sức
khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe; mô tả một số tình tiết gây thương tích có tính
nguy hiểm cao, có tính côn đồ,... [9, tr.169-170]. Hay Nghị quyết số 01/1989/HĐTP
ngày 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã hướng dẫn tình tiết gây
thương tích dẫn đến chết người phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ
thương tật từ 31% trở lên, gây tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các
bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân. Mặt khác, vẫn coi là cố ý gây thương tích dẫn
đến chết người trường hợp không phải là thương tích nặng, nếu nạn nhân là người quá
già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho họ chết sớm hơn [9, tr.242-243].
Không dừng lại ở đó, BLHS năm 1985 được ban hành đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997. Trong các lần đó, các tội
xâm phạm sức khỏe của người khác được sửa đổi hai lần. Lần thứ nhất, ngày
28/12/1989, quy định bổ sung thêm trường hợp: “gây thương tích cho nhiều người
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người” tại khoản 2 Điều 109. Lần thứ hai,
sửa cụm từ “sử dụng vũ khí” thành “dùng vũ lực”; sửa cụm từ “Phạm tội làm chết
nhiều người...” thành “Phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp
nghiêm trọng khác” tại khoản 1 Điều 103. Các bổ sung này ít nhiều đã góp phần rất
lớn trong việc làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sức khỏe.
Qua đó, tạo tiền đề phân định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác với các tội xâm phạm sức khỏe khác.
Tuy nhiên, sau khi được ban hành, BLHS năm 1985 dù đã trải qua nhiều lần
sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn mang chưa theo kịp tình hình kinh tế - xã hội trong
nước cũng như tình hình quốc tế có những biến đổi to lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến
đời sống nhân dân, trật tự an toàn xã hội. Đó là đòi hỏi phải có BLHS mới với các
quy định phù hợp hơn, đáp ứng các yêu cầu của thời đại.

Ngày 21/12/1999, Quốc hội thông qua BLHS có hiệu lực từ ngày 01/7/2000.
Đến năm 2009, Bộ luật này đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung

17


một số điều của BLHS và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010. Trong BLHS
này, các nhà làm luật quy định tất cả bảy tội xâm phạm sức khỏe của người khác.
Có thể nói, so với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 đã phân hóa rõ ràng hơn các
tội xâm phạm sức khỏe của người khác bằng việc tách nội dung một số điều luật để
quy định thành những tội danh [11, tr.15], cụ thể như sau:
Một là, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác
(Điều 109 BLHS năm 1985) được tách làm ba tội riêng biệt: Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh (Điều 105) và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106) [20];
Hai là, tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (Điều 110 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội khác nhau: Tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 108); tội vô ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc
nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109);
Ba là, tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi
hành công vụ (Điều 103 BLHS năm 1985) được tách làm hai tội gồm: Tội làm chết
người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107).
Quá trình áp dụng BLHS năm 1999, để làm rõ thêm nội dung chưa rõ và tháo
gỡ các vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn xét xử, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã
ban hành một số Nghị quyết hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật. Trong đó,
Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy

định của BLHS đã giải thích khá cụ thể và rõ ràng về tình tiết “gây cố tật nhẹ cho
nạn nhân” ở điểm b khoản 1 Điều 104 BLHS năm 1999. Nghị quyết số 02/2003/NQHĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS hướng dẫn cụ
thể việc áp dụng các tình tiết “dùng hung khí nguy hiểm”, “phạm tội nhiều lần đối
với cùng một người hoặc đối với nhiều người”, “đối với thầy giáo, cô giáo của mình”

18


×