Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.76 MB, 107 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN BÌNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN BÌNH

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐINH THỊ MAI

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của bản thân, được
thực hiện độc lập và dưới sự hướng dẫn của TS Đinh Thị Mai.
Các kết quả trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, bảng biểu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Học viện cho tôi được bảo vệ
luận văn của mình trước Hội đồng.
Tác giả luận văn

Nguyễn Xuân Bình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN ............................................................... 5
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản 5
1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản .......... 12
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ................................. 13
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản ....................... 14
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP
GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................. 24
2.1. Thực trạng đặc điểm tình hình có liên quan đến phòng ngừa tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .......................................................... 24
2.2. Thực trạng phòng ngừa ............................................................................ 47
2.3. Nhận xét, đánh giá kết quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ......................................................... 63
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA

TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................................. 68
3.1. Dự báo hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 68
3.2. Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng ................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS

: Bộ luật hình sự

CGTS

: Cướp giật tài sản

TAND

: Tòa án nhân dân

TP

: Thành phố

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sở hữu hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế, với nhiều khu du lịch, nghỉ
dưỡng cao cấp, bãi biển đẹp, tiếp giáp với các điểm di sản văn hoá thế giới
như: Mỹ Sơn, Hội An, Huế và là địa điểm diễn ra các sự kiện chính trị, văn
hóa lớn của quốc tế và đất nước như: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái
Bình Dương, Cuộc thi trình diễn pháo hoa Quốc tế, các Đại hội thể thao biển,
… trong những năm qua, TP Đà Nẵng luôn là điểm đến du lịch của hàng triệu
du khách trong và ngoài nước, góp phần phát triển kinh tế du lịch, dịch vụ của
thành phố. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển này, tình hình tội phạm có
nhiều diễn biến khó lường, trong đó tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng diễn ra hết sức phức tạp, khó lường về tính chất, mức độ hoạt
động của tội phạm. Phương thức thủ đoạn của tội cướp giật tài sản ngày càng
đa dạng, các đối tượng phạm tội thay đổi theo từng thời điểm, liên quan đến
nhiều địa bàn khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là các địa bàn trung tâm thành
phố, khu du lịch, khu nghỉ dưỡng...trên địa bàn thành phố, đáng lo ngại là sự
xuất hiện của các băng, nhóm chuyên nghiệp. Từ năm 2014 đến 06 tháng đầu
năm 2019, tổng số vụ án cướp giật tài sản xảy ra tại các địa bàn du lịch, khu
du lịch chiếm 9,21% trong tổng số các vụ phạm pháp hình sự xảy ra và đã ảnh
hưởng xấu đến môi trường du lịch của thành phố. Tuy nhiên, những thống kê
trên chỉ là những vụ cướp giật tài sản ở các địa bàn, khu du lịch mà nạn nhân
trình báo với cơ quan chức năng, trong thực tế số vụ án cướp giật tài sản tại
các địa bàn này xảy ra còn nhiều hơn, mà nạn nhân vì những lý do khác nhau
đã không trình báo với cơ quan chức năng.
Trước tình hình phức tạp của tình hình tội CGTS, Đảng bộ, các ban

ngành và Chính quyền thành phố đã ban hành các chủ trương, chính sách,
các kế hoạch, chuyên đề về đấu tranh, phòng ngừa đối với tình hình tội


2

phạm CGTS. Tuy nhiên, trong thực tế công tác phòng ngừa với loại tội
phạm này vẫn còn những hạn chế nhất định như chưa huy động được sức
mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào các hoạt động phòng ngừa đối
với loại tội phạm này, cơ chế phối hợp giữa các lực lượng còn nhiều bất cập,
trong công tác tuyên truyền nâng cao tinh thần cảnh giác trong nhân dân
chưa được thường xuyên, liên tục, chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh
hưởng không nhỏ đến tình hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng, đáng báo động phương thức, thủ đoạn hoạt động của loại tội
phạm này diễn biến ngày càng phức tạp về quy mô, tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội. Bên cạnh những nguyên nhân về khách quan, chủ
quan, thì ý thức tự bảo vệ tài sản của du khách và tham gia bảo vệ tài sản
của người khác trong nhân dân chưa cao cũng góp phần ảnh hưởng đến tình
hình tội cướp giật tài sản.
Trên cơ sở các tài liệu tổng kết về công tác phòng ngừa đối với tội cướp
giật tài sản và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn về nâng cao hiệu quả trong hoạt
động phòng ngừa đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng,
tôi chọn đề tài “Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ luật học là hoàn toàn cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản đã
được một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu và công bố, điển hình như:
- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh An Giang:
tình hình,nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, của Lê Ngọc Hớn – Học
viện khoa học xã hội – TP Hồ Chí Minh, năm 2010.

- Luận văn thạc sĩ: “Nâng cao hiệu quả phòng ngừa và điều tra tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng”, của Nguyễn Công Danh – Học
viện cảnh sát nhân dân, năm 2013.
- Luận văn thạc sĩ: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn TP Đà Nẵng: tình


3

hình, nguyên nhân và phòng ngừa”, của Lê Như Thành – Học viện khoa học
xã hội – TP Đà Nẵng, năm 2019.
Như vậy, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa, điều tra
tội cướp giật tài sản, song chưa có đề tài nào nghiên cứu về phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản tại trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn đưa ra
những nhận xét đánh giá về hạn chế, tồn tại và nguyên nhân, từ đó đề ra giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu luận văn cần giải
quyết các nhiệm vụ sau:
+ Làm rõ cơ sở lý luận của phòng ngừa tội cướp giật tài sản và hoạt động
phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
+ Làm rõ thực trạng hoạt động phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tình hình, chủ thể, cơ sở và thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2014 đến 06 tháng đầu năm 2019.


4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta về phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, bảo vệ ANQG và giữ
gìn TTATXH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
+ Phương pháp tọa đàm, trao đổi.
+ Phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung vào lý luận về phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Là tài liệu nghiên cứu, tham khảo đối với các lực lượng đang trực tiếp làm
phòng ngừa, đấu tranh đối với tội cướp giật tài sản. Những dự báo và đề xuất
giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Dự báo và giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản
- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm
Ở nước ta hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phòng ngừa tình
hình tội phạm.
Theo từ điển Bách khoa nghiệp vụ Công an thì: phòng ngừa tội phạm là
sự vận dụng tổng hợp những biện pháp chính trị, tư tưởng, kinh tế, pháp luật...
theo một kế hoạch nhất định của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội để chủ
động ngăn ngừa các hành vi phạm tội, loại trừ những nguyên nhân và điều
kiện phát sinh tội phạm.
Theo giáo trình Tội phạm học, Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Ngọc Quang cho
rằng đấu tranh chống tội phạm bao hàm hai nội dung cơ bản: Thứ nhất, phát
hiện điều tra khám phá kịp thời mỗi khi tội phạm xảy ra nhằm đảm bảo tội
phạm không thể không bị phát hiện và điều tra xử lý kịp thời, không một

người phạm tội nào có thể tránh khỏi hình phạt của pháp luật. Đây là nội dung
quan trọng trong mọi thời kỳ của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.[11]
Thứ hai, bằng mọi biện pháp không cho tội phạm xảy ra, không để cho một
thành viên nào của xã hội phải chịu hình phạt của pháp luật, xã hội không
phải chịu hậu quả của tội phạm, các cơ quan bảo vệ pháp luật không phải có
những chi phí cần thiết cho việc điều tra, khám phá, xử lý người phạm tội và
điều quan trọng hơn là đảm bảo cuộc sống bình thường cho mọi công dân
trong xã hội, làm cơ sở cho mọi công dân có thể cống hiến sức lực của mình
vào sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Theo quan niệm này phòng ngừa tội
phạm khác với công tác điều tra khám phá, xử lý tội phạm.[11]


6

Theo giáo trình Tội phạm học của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái niệm
phòng ngừa tội phạm không chỉ bao gồm các hoạt động nhằm thủ tiêu nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, không để cho tội phạm xảy ra mà còn bao gồm cả
những hoạt động ngăn chặn tội phạm, phát hiện điều tra khám phá tội phạm
và xử lý nghiêm minh các hành vi phạm tội nhằm trừng trị giáo dục người
phạm tội trở thành người công dân có ích cho xã hội [29]. Truy cứu trách
nhiệm hình sự cũng là một hình thức phòng ngừa tình hình tội phạm chủ động
và có hiệu quả. Thông qua hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và buộc kẻ phạm
tội phải chịu một hình phạt không những có ý nghĩa phòng ngừa cá biệt mà
còn có ý nghĩa phòng ngừa chung[29]. Việc trừng trị kẻ phạm tội và ngăn
chặn nó không phạm tội mới còn có ý nghĩa tác động đối với những người
xung quanh làm cho họ từ bỏ ý định phạm tội. Tuy nhiên, phòng ngừa tình
hình tội phạm còn được thể hiện ở việc cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội,
xóa bỏ các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, hình thành các điều kiện tích
cực cho sự hình thành, hoàn thiện nhân cách con người mới. Theo quan niệm
này, phòng ngừa tình hình tội phạm bao hàm không chỉ ngăn ngừa tội phạm

xảy ra mà còn trừng trị người phạm tội nhằm giáo dục và cải tạo họ thành
người có ích cho xã hội [28].
Hiện nay, các nhà nghiên cứu trong lực lượng CAND quan niệm rằng:
phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống các biện pháp của Nhà nước và xã
hội nhằm khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm tội làm
giảm tội phạm. Phòng ngừa tình hình tội phạm là tư tưởng chỉ đạo trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm, bao gồm các hình thức và biện pháp được thực
hiện nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, nếu tội phạm xảy ra thì phải
hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả tác hại... [12]. Theo quan điểm này thì
phòng ngừa tình hình tội phạm bao gồm các hoạt động để phát hiện và khắc
phục nguyên nhân, điều kiện của tình trạng phạm tội từ đó tiến hành các biện
pháp nhằm ngăn ngừa không để tội phạm xảy ra, đồng thời hạn chế đến mức


7

thấp nhất tác hại khi tội phạm xảy ra. [11].
- Khái niệm tội cướp giật tài sản
Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2015 quy định:
“Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm”.
Căn cứ vào điều luật và qua thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử thì hành vi
cướp giật tài sản là hành vi “công khai” chiếm đoạt tài sản của người khác và
“nhanh chóng” tẩu thoát.
Như vậy, có thể rút ra khái niệm tội cướp giật tài sản như sau: tội cướp
giật tài sản là người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác bằng hành vi
nhanh chóng, công khai giật lấy tài sản rồi tìm cách tẩu thoát.
- Dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản
Điều 171 Bộ luật hình sự nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

năm 2015 quy định:
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm
đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
g) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người


8

già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;
h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
i) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy
năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ
lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người
31% trở lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng.
Căn cứ vào quy định của điều luật thì tội cướp giật tài sản có các dấu
hiệu pháp lý như sau:
Thứ nhất, khách thể của tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu của người khác
đối với tài sản.
Trong một số trường hợp, hành vi cướp giật tài sản đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như cướp


9

giật tài sản của người đang điều khiển xe môtô làm cho họ ngã xe gây thương
tích. Trong những trường hợp này, trước khi thực hiện hành vi cướp giật tài
sản, người phạm tội nhận thức được tính chất nguy hiểm và hậu quả của hành
vi nhưng vẫn thực hiện. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 2015 đưa vào trong cấu
thành tội phạm dấu hiệu thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe của người khác và
coi đây là những tình tiết định khung hình phạt. Như vậy, ở đây tội cướp giật
tài sản đồng thời xâm phạm đến hai khách thể, đó là quan hệ nhân thân và
quan hệ sở hữu. Nhưng việc xâm phạm quan hệ nhân thân không phải là mục
đích, đối tượng mà người phạm tội nhằm vào. Vì thế, đối tượng tác động của
tội cướp giật tài sản là tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác.[37].

Thứ hai, mặt khách quan của tội cướp giật tài sản
Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản thể hiện ở hành vi công khai và
nhanh chóng chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi “công khai” về mặt khách quan, chủ tài sản có khả năng biết
ngay khi hành vi này xảy ra. Về ý thức chủ quan của người phạm tội, người
phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt biết hành vi chiếm đoạt của mình
có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Đây
cũng là một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt với các trường hợp phạm tội khác
như hành vi trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
“Nhanh chóng” là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Đó là
thủ đoạn nhanh chóng tiếp cận tài sản, nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và
nhanh chóng tẩu thoát.
Để giật được tài sản, người phạm tội lợi dụng sơ hở của chủ tài sản, sơ
hở này có thể sẵn có (như đeo dây chuyền lộ ra trên cổ, túi xách để ở giỏ xe,
sử dụng điện thoại di động khi đang chạy xe…) hoặc do người phạm tội chủ
động tạo ra (như giả vờ tiếp cận hỏi thăm chuyện với chủ tài sản, vào cửa
hàng giả vờ xem mua tài sản…) và nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng chiếm
đoạt và nhanh chóng tẩu thoát. Ví dụ, giật lấy túi xách của người đi đường và


10

nhanh chóng tẩu thoát…[37]
Thủ đoạn nhanh chóng này được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau và phụ thuộc vào đặc điểm của tài sản, cách thức giữ tài sản…, thông
thường đây là những tài sản gọn nhẹ, dễ giật lấy, dễ mang đi như: túi xách,
dây chuyền, máy ảnh, điện thoại di động…
Một số trường hợp, người phạm tội lúc đầu chỉ có ý định cướp giật tài
sản nhưng trong quá trình thực hiện hành vi bị chủ tài sản chống cự, giằng lấy
lại tài sản, người phạm tội đã có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực

ngay tức khắc để chiếm đoạt bằng được tài sản thì hành vi phạm tội này
không còn là hành vi cướp giật tài sản mà chuyển sang hành vi cướp tài sản.
Tuy nhiên, cũng được xem là hành vi cướp giật tài sản trong trường hợp
người phạm tội có tác động nhẹ đến người chiếm giữ tài sản, song không làm
cho họ lâm vào tình trạng mất khả năng chống cự (ví dụ: xô ngã, giật ví rồi
tẩu thoát…).
Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội giật được tài sản từ người khác,
kể cả trường hợp người phạm tội bỏ lại tài sản đã cướp giật được để tẩu thoát
vì một lý do nào đó, chẳng hạn như bị truy đuổi gắt gao, bị tai nạn giao
thông… [41].
Thứ ba, mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản
Tội cướp giật tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người thực
hiện tội phạm nhận thức được hành vi cướp giật tài sản của họ là nguy hiểm
cho xã hội, thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra và mong muốn cho
hậu quả xảy ra. Mục đích chiếm đoạt tài sản.
Thứ tư, chủ thể của tội cướp giật tài sản
Chủ thể của tội cướp giật tài sản được xác định là bất kỳ người nào có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự.
Về hình phạt.
Điều luật quy định 4 khung hình phạt:


11

+ Khung 1 (Cấu thành cơ bản): quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
+ Khung 2 (Cấu thành tăng nặng): quy định hình phạt tù từ 03 năm đến
10 năm.
+ Khung 3: quy định hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm.
+ Khung 4: quy định hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, hoặc chung thân.
Ngoài ra, người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

100.000.000 đồng.
- Khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức về khái niệm phòng ngừa tình
hình tội phạm và nhận thức về tội cướp giật tài sản nói trên, chúng ta có thể
đưa ra khái niệm phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản như sau:
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động của các cơ quan
nhà nước, tổ chức xã hội và công dân bằng nhiều biện pháp hướng đến việc
thủ tiêu những nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật tài sản, nhằm ngăn
chặn, làm hạn chế và từng bước loại trừ tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội
nói chung và nói riêng.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là hoạt động rất
phức tạp, đa dạng với sự tham gia của đông đảo các lực lượng, tổ chức xã
hội…Vì vậy, để phòng ngừa tình hình tội phạm này cần phải giải quyết tốt
các nhiệm vụ như nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện của tình
trạng phạm tội cướp giật tài sản; soạn thảo các giải pháp, biện pháp phòng
ngừa và tổ chức tiến hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật
tài sản.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là việc tiến hành
đồng bộ các biện pháp, sử dụng đồng bộ nhiều lực lượng nhằm khắc phục
những sơ hở thiếu sót trong các mặt công tác không để đối tượng phạm tội
cướp giật tài sản có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Cần phải nghiên cứu
những đặc điểm hình sự của tội cướp giật tài sản để thấy được những nguyên


12

nhân trực tiếp làm nảy sinh, phát triển loại tội phạm này, từ đó khắc phục
nhằm ngăn chặn không để cho chúng có thể xảy ra.
1.2. Cơ sở, nguyên tắc của phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Cơ sở pháp lý của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản

là toàn bộ hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước nói chung
và của pháp luật tố tụng hình sự nói riêng quy định về các biện pháp, phương
tiện được sử dụng và những nội dung khác có liên quan đến hoạt động phòng
ngừa nhằm ngăn ngừa, hạn chế không để cho tội cướp giật giật tài sản xảy ra
trong cuộc đấu tranh phòng, chống đối với loại tội phạm này.
Cơ sở pháp lý quan trọng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản là Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn
bản quy phạm pháp luật khác.
Điều 46, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có nhiệm vụ tuân
theo Hiến pháp và Pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội và chấp hành những quy tắc sinh hoạt cộng đồng”.
Điều 64, Hiến pháp năm 2013 quy định: “… Cơ quan, tổ chức, công dân
phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”.
Điều 67, Hiến pháp năm 2013 thể hiện: “Nhà nước xây dựng CAND cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nồng cốt trong thực hiện
nhiệm vụ ANQG và bảo đảm TTATXH, đấu tranh phòng, chống tội phạm”.
Cùng với nó, các đạo luật quan trọng phục vụ đắc lực cho hoạt động đấu
tranh phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung cũng được ban hành nhằm
quy định rõ về trách nhiệm của các cơ quan, người tiến hành tố tụng trong
việc xác định nhanh chóng tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội,
cũng như trách nhiệm của các cơ quan tư pháp trong tổ chức đấu tranh phòng
ngừa tình hình tội phạm.
Ngoài ra, trong quá trình tiến hành các hoạt động phòng, chống tội phạm
nói chung và phòng, chống tội cướp giật tài sản nói riêng, lực lượng CSND và


13

các cơ quan pháp luật luôn bám sát vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm và những nội dung

phòng, chống tội phạm trong từng giai đoạn luôn được thể hiện trong các Chỉ
thị, Thông tư, Nghị quyết của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của
ngành Công an. Những văn bản quy phạm này quy định chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của các lực lượng chuyên trách và là cơ sở pháp lý làm căn cứ điều
chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của lực lượng CSND trong đấu tranh phòng
chống tội phạm nói chung và hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản nói riêng trong thời gian qua [41]. Cụ thể là các văn bản sau:
- Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tại Điều 6 quy định: “Trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có
trách nhiệm phát hiện nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu, kiến nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và phòng ngừa”.
- Bộ luật hình sự năm 2015, tại Điều 4 quy định: “Cơ quan Công an,
Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và cơ quan hữu quan khác có trách
nhiệm thi hành đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đồng thời
hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của Nhà nước, tổ chức, công dân đấu
tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giám sát và giáo dục người phạm tội tại
cộng đồng”.
- Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015: Tại khoản 2, Điều 5
quy định: Cơ quan điều tra của lực lượng CSND bao gồm Cơ quan CSĐT Bộ
Công an, Cơ quan CSĐT cấp tỉnh, Cơ quan CSĐT cấp huyện và tại khoản 4,
Điều 8 quy định Cơ quan điều tra tiến có nhiệm vụ tìm ra nguyên nhân, điều
kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp khắc phục và ngăn ngừa.
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Chủ thể hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản là các cá
nhân, tổ chức có trách nhiệm và quyền hạn hoạt động đấu tranh phòng, chống


14


đối với loại tội phạm này. Ngoài ra sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, thì
việc mọi công dân cùng tham gia phòng, chống có ý nghĩa đặc biệt tích cực
trong việc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản. Tuy nhiên, do mỗi lực
lượng, mỗi tổ chức, mỗi công dân khi tham gia phòng ngừa tình hình tội
phạm này lại có chức năng, nhiệm vụ, vị trí khác nhau cho nên cần phải xác
định rõ vai trò của từng lực lượng (chủ thể) tiến hành phòng ngừa tình hình
tội phạm.
Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cũng chính là tiến hành phòng
ngừa đối với một hiện tượng xã hội tiêu cực. Do đó, tiến hành hoạt động
phòng ngừa phải phát huy mọi lực lượng của toàn xã hội, trong đó lực lượng
nòng cốt, chủ công là lực lượng CAND. Vai trò của lực lượng CAND đối với
hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản được thể hiện chung
nhất tại Điều 4 Luật Công an nhân dân năm 2014 quy định “CAND là lực
lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
ANQG, đấu tranh phòng, chống tội phạm” và tại khoản 2, Điều 15 Luật
CAND năm 2013 quy định nhiệm vụ và quyền hạn của lực lượng CAND nêu
rõ “Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại âm
mưu, hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, loại trừ nguy cơ đe dọa an ninh
quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ an ninh chính
trị, an ninh trong các lĩnh vực tư tưởng - văn hóa, kinh tế, quốc phòng, đối
ngoại, thông tin, xã hội, môi trường và các lợi ích khác của quốc gia; bảo vệ
khối đại đoàn kết toàn dân tộc; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tài sản, quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền và lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân”.
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Tội phạm là một hiện tượng xã hội phức tạp, chịu sự chi phối của nhiều
yếu tố lịch sử - xã hội, do đó việc phòng ngừa chúng cũng đòi hỏi phải được



15

tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp, giải pháp khác nhau. Thực tiễn
pháp lý và các kết quả nghiên cứu khoa học cho phép chúng ta khái quát vấn
đề được nêu thành một hệ thống các biện pháp liên hoàn cần áp dụng để từng
bước giải quyết tình hình tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng. Có nhiều cách khác nhau để phân chia, tuy nhiên để thấy "Phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm là trách nhiệm của toàn xã hội" như: Hiến pháp
năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
quy định, thì việc phân loại các biện pháp phòng ngừa dựa vào phạm vi tác
động của các biện pháp là hợp lý nhất. Theo cách phân chia này thì hệ thống
các biện pháp phòng ngừa sẽ bao gồm 02 nhóm đó là: các biện pháp phòng
ngừa xã hội (phòng ngừa chung) và các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ
(phòng ngừa riêng).
Phòng ngừa xã hội là hệ thống các biện pháp kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội, giáo dục và pháp luật nhằm góp phần hạn chế tiến tới loại trừ các yếu
tố có thể trở thành nguyên nhân và điều kiện thực hiện tội phạm; phòng ngừa
xã hội được tiến hành bởi các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tập
thể lao động cũng như bản thân từng công dân - cá nhân, thành viên của xã
hội, trong đó lực lượng CAND là nòng cốt thực hiện chức năng tham mưu,
hướng dẫn và trực tiếp tiến hành các mặt hoạt động đấu tranh phòng ngừa tình
hình tội phạm [38].
Để thực thi các biện pháp phòng ngừa xã hội, các lực lượng cần tiến
hành một số công tác cụ thể sau đây:
Thứ nhất, làm tốt công tác tham mưu, đề xuất với các cấp ủy Đảng,
chính quyền xây dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên
quan đến việc quản lý con người, quản lý xã hội; công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Tổ chức thực
hiện tốt các chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước về
công tác phòng, chống tội phạm, đặc biệt là phòng chống tội cướp giật tài



16

sản . Tham mưu cho Đảng, chính quyền nhằm tích cực chủ động phòng ngừa
bằng các hoạt động: Đề ra chủ trương, biện pháp, giải pháp phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản phù hợp từng thời điểm, đồng thời có biện pháp tổ
chức sản xuất, phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương
để giải quyết việc làm hợp lý cho người dân; Huy động các cơ quan ban
ngành trong toàn xã hội làm tốt chức năng của mình góp phần xây dựng xã
hội mới về mọi mặt, chủ động đấu tranh bài trừ tệ nạn xã hội, cướp giật,
trộm cắp và các hiện tượng xã hội tiêu cực khác, kịp thời phát hiện xử lý
mọi hành vi vi phạm pháp luật [38] .
Thứ hai, phối hợp giữa các lực lượng hữu quan xây dựng kế hoạch tổ
chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để từng bước nâng cao ý thức
pháp luật cho người dân. Tuyên truyền giáo dục giúp cho quần chúng nhân
dân nhận thức rõ quy luật hoạt động và hậu quả tác hại của tội cướp giật tài
sản , từ đó có ý thức cảnh giác, tự bảo vệ mình, bảo vệ tài sản, tự giác tham
gia trong đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Phát huy hiệu quả công
tác vận động, giáo dục cá biệt đối với những đối tượng có khả năng và điều
kiện phạm tội.
Thứ ba, phát động phong trào toàn dân tham gia phòng chống tội phạm
nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Phối hợp chặt chẽ với các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể xã hội tăng cường vận động thực hiện phong trào
“Toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc”, đảm bảo huy động sức mạnh
của cả hệ thống chính trị, nhất là ở cơ sở tham gia phòng chống tội phạm.
Thứ tư, các cấp chính quyền, các cơ quan chức năng tạo điều kiện công
ăn việc làm cho những người không có việc làm ổn định, đưa các đối tượng
nghiện ma túy đi cai nghiện, mở các trung tâm chữa bệnh, bảo trợ xã hội cho
những người là nạn nhân của tệ nạn xã hội, giúp họ từ bỏ con đường lầm lỗi.

Hoạt động phòng ngừa nghiệp vụ của lực lượng CAND đối với tội cướp
giật tài sản nói chung và nói riêng là quá trình sử dụng các biện pháp, phương


17

tiện nghiệp vụ của mình nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và phát hiện tội cướp
giật tài sản. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao, các lực lượng CAND
cần tiến hành các biện pháp phòng ngừa cụ thể sau:
Một là, công tác điều tra cơ bản: Công tác ĐTCB của lực lượng CAND
là một hoạt động điều tra, nghiên cứu được tiến hành nhằm thu thập một cách
rộng rãi, toàn diện và hệ thống về tình hình, tài liệu, số liệu ở một địa bàn,
tuyến, lĩnh vực, một hệ đối tượng đấu tranh có liên quan đến công tác quản lý
nhà nước về lĩnh vực hoạt động của CAND; về phương thức, thủ đoạn hoạt
động, nguyên nhân, điều kiện của các loại đối tượng để nghiên cứu tổng hợp
rút ra kết luận và đề ra đối sách thích hợp trong công tác bảo vệ ANQG và giữ
gìn TTATXH. Kết quả công tác ĐTCB là cơ sở để lực lượng Công an tham
mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp chỉ đạo các ngành tổ chức công
tác đảm bảo an ninh, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ
quốc, khắc phục những sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước ở cơ sở; phát hiện nhiều vấn đề liên quan đến
ANTT nhất là các yếu tố có tính quy luật chi phối tình hình tội phạm, làm nền
tảng cho toàn bộ hoạt động nghiệp vụ của lực lượng Công an. ĐTCB được
tiến hành ở tất cả các đơn vị nghiệp vụ trong ngành Công an một cách thường
xuyên, liên tục và lâu dài.
Điều 3, Thông tư 18/2013/TT-BCA-C41, ngày 01/4/2013 của Bộ Công
an quy định đối tượng công tác ĐTCB gồm: địa bàn (xã, phường, thị trấn, cơ
quan doanh nghiệp…); tuyến, mục tiêu, lĩnh vực; hệ, loại đối tượng. Do vậy,
để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản lực lượng CAND cần tiến hành
công tác ĐTCB những địa bàn tập trung đông và dễ có nhiều tài sản có thể

cướp giật được, như khu du lịch, tuyến du lịch nơi tập hợp các khu du lịch
hoặc các hoạt động dịch vụ du lịch liền kề tập trung nhiều khách sạn, nhà
nghỉ, dịch vụ ăn uống, mua sắn… mà khách du lịch, người dân thường xuyên
tụ tập, lui tới để thăm quan, du lịch và kinh doanh. Ngoài ra, công tác ĐTCB


18

cần được tiến hành đối với hệ loại những đối tượng có điều kiện, khả năng
tham gia, thực hiện tội cướp giật tài sản.
Hai là, công tác sưu tra: Công tác sưu tra của lực lượng CAND là một
quá trình điều tra, nghiên cứu về những người có điều kiện, khả năng phạm
tội hoặc đang có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội nhằm mục đích nắm
tình hình của các loại đối tượng, chủ động phát hiện và có biện pháp tác động
đấu tranh, ngăn chặn không để tội phạm xảy ra. Đây là một trong những công
tác NVCB đặc biệt quan trọng đối với lực lượng CAND trong phòng ngừa,
phát hiện, điều tra tội phạm nói chung và tội cướp giật nói riêng.
Tiến hành sưu tra phải nắm được diễn biến của các đối tượng sưu tra có
điều kiện, khả năng hoặc có biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật
tài sản nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng; nắm lai lịch, tiền án, tiền
sự, các mối quan hệ xã hội của đối tượng một cách có hệ thống, chính xác và
kịp thời. Trên cơ sở đó nghiên cứu phân loại đối tượng một cách chuẩn xác để
có kế hoạch quản lý, giáo dục, cảm hóa thích hợp hoặc tiến hành các biện
pháp nghiệp vụ để phòng ngừa, ngăn chặn mọi hoạt động liên quan đến tội
phạm của đối tượng.
Theo quy định tại Thông tư 19/2013/TT-BCA-C41 của Bộ trưởng Bộ
Công an, quá trình thực hiện công tác sưu tra, lực lượng CSND tiến hành sưu
tra theo danh mục gắn với địa bàn nơi cư trú, nơi làm việc hoặc hoạt động của
đối tượng và tiến hành sưu tra theo hệ loại đối tượng. Sau đó, dựa vào kết quả
sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để phân cấp nhiệm vụ, trách

nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện pháp quản lý nghiệp vụ cho
từng đối tượng sưu tra. Đặc biệt cần chú ý đến số đối tượng có tiền án, tiền
sự, đối tượng sống lang thang, số đối tượng nghiện ma túy, bởi vì đây là số
đối tượng có khả năng phạm tội cướp giật tài sản trong đó có cướp giật tài
sản. Sau đó, dựa vào kết quả sưu tra, phân loại đối tượng đã được xác định để
phân cấp nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cấp trong việc áp dụng các biện


19

pháp quản lý nghiệp vụ cho từng đối tượng sưu tra.
Để công tác sưu tra quản lý đối tượng có hiệu quả đòi hỏi khi thực hiện
phải gắn với các mặt công tác cơ bản khác, nhất là công tác quản lý tuyến, địa
bàn và công tác vận động toàn dân tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, gắn liền
với kết quả công tác điều tra cơ bản, xác minh và đấu tranh phòng chống tệ
nạn xã hội để bổ sung tài liệu phục vụ công tác sưu tra đối tượng.
Ba là, công tác xác minh hiềm nghi: Hiềm nghi trong đấu tranh phòng
chống tội phạm, giữ gìn TTATXH là những người, việc, hiện tượng nghi
vấn hoạt động phạm tội mà lực lượng CSND phải khẩn trương tiến hành xác
minh làm rõ để kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn. Hiềm nghi được xác lập khi
có căn cứ. Công tác xác minh hiềm nghi của lực lượng CSND là xác lập và
tập trung xác minh làm rõ nghi vấn và đi đến kết luận có hoạt động phạm tội
hay không.
Thực chất của công tác xác minh hiềm nghi thường là bước chuyển tiếp
và phát triển của công tác sưu tra nhằm tập trung xác minh làm rõ những dấu
hiệu nghi vấn về hoạt động phạm tội cụ thể của đối tượng; những vấn đề nghi
vấn và đi đến kết luận vấn đề nghi vấn ấy có phải là tội phạm; có hành vi
phạm tội hay không. Xác định khi một người có hành vi giống với hành vi
của người đang chuẩn bị hoặc đang hoạt động phạm tội cướp giật tài sản nói
chung và nói riêng; có dấu hiệu nghi vấn che dấu tung tích, thay đổi nhận

dạng, chuẩn bị phương tiện, công cụ; trên người, tại chỗ ở hoặc nơi làm việc
có dấu vết, tài liệu hoặc tài sản nghi là vật chứng của vụ án, có công cụ,
phương tiện có liên quan đến hoạt động phạm tội... đặc biệt là biểu hiện che
giấu hoặc ngụy trang những bất minh về kinh tế và bất minh thời gian trước,
trong và sau khi gây án.[12]
Căn cứ xác định đối tượng hiềm nghi là dựa vào kinh nghiệm, kiến thức
hiểu biết pháp luật của cán bộ trinh sát; vào phương thức, thủ đoạn hoạt động
của loại tội phạm này và những tài liệu, chứng cứ thu thập được có khả năng


20

liên quan đến hành vi phạm tội của các đối tượng, những hành vi đó có đủ yếu
tố cấu thành mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. Để có cơ sở xác lập,
xác minh hiềm nghi, cần tiến hành công tác sưu tra, quản lý đối tượng một
cách có hệ thống gắn với công tác ĐTCB ở các địa bàn khác nhau để nắm mọi
diễn biến hoạt động của các loại đối tượng có tiền án, tiền sự và đối tượng có
biểu hiện nghi vấn hoạt động phạm tội cướp giật tài sản [12].
Việc xác lập, xác minh hiềm nghi là cần thiết nhằm tập trung vào đối
tượng “điểm” nổi cộm cần đấu tranh, tránh dàn trải và áp dụng các biện pháp
nghiệp vụ tràn lan, kém hiệu quả. Trên thực tế có nhiều vụ việc, hiện tượng
“nghiêm trọng” bước đầu mới có dấu hiệu nghi liên quan đến hoạt động phạm
tội cướp giật tài sản , nhưng chưa có đầy đủ căn cứ để kết luận, do vậy cần
thiết phải có bước xác lập hiềm nghi để áp dụng các biện pháp nghiệp vụ làm
rõ. Tuy nhiên, việc xác lập, xác minh hiềm nghi về người chỉ tiến hành đối
với các trường hợp đối tượng hoạt động nghiêm trọng, có phương thức thủ
đoạn tinh vi, xảo quyệt, cần thiết phải áp dụng các biện pháp nghiệp vụ trinh
sát cao hơn mới làm rõ được.
Bốn là, công tác đấu tranh chuyên án: Chuyên án của lực lượng CSND
là hoạt động điều tra trinh sát, được tiến hành với sự chỉ đạo tập trung, thống

nhất, phối hợp chặt chẽ nhiều lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp,
phương tiện kỹ thuật, chiến thuật nghiệp vụ nhằm vào những đối tượng đã xác
định để phòng ngừa, ngăn chặn và khám phá, truy bắt tội phạm.
Đấu tranh chuyên án là bước phát triển, giai đoạn quan trọng của công
tác điều tra trinh sát, trực tiếp giải quyết các yêu cầu mà hoạt động điều tra
riêng lẻ không thể giải quyết được. Do vậy, quá trình thực hiện phải tuyệt đối
chấp hành các nguyên tắc: tuân thủ pháp luật, đảm bảo yêu cầu chính trị,
nghiệp vụ của ngành Công an; đảm bảo bí mật; tập trung, thống nhất, nhanh
chóng, kịp thời. Đồng thời, phải căn cứ vào yêu cầu, tính chất quy mô cụ thể
của chuyên án để tính toán việc sử dụng đặc tình, cơ sở bí mật hợp lý; kết hợp


×