Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.66 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN ĐÔNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số : 60.38.01.05

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa

Phản biện 1: PGS.TS Phạm Văn Tĩnh
Phản biện 2: TS Lê Nguyên Thanh

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội lúc 13 giờ 30 ngày 10 tháng 10
năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh được coi là tâm điểm của khu vực
Đông Nam Á, là đầu mối giao thông nối liền các tỉnh trong vùng và
là cửa ngõ quốc tế. Với hệ thống cảng và sân bay lớn nhất cả nước,
thành phố Hồ Chí Minh có một tiềm năng lớn để phát triển kinh tế và
du lịch.
Bên cạnh các thuận lợi, thành phố Hồ Chí Minh cũng gặp phải
nhiều khó khăn, thách thức không nhỏ như: kinh tế phát triển chưa
bền vững, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp,
phân hóa giàu nghèo tăng lên, tội phạm, tệ nạn xã hội, suy thoái đạo
đức, lối sống chưa được ngăn chặn đẩy lùi, số lượng người từ nhiều
nơi đổ về kiếm việc làm đông, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị
nhưng việc giải quyết việc làm cho người lao động vẫn chưa được
bảo đảm…. Đây được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy
sinh các tệ nạn xã hội, gia tăng các loại tội phạm trên địa bàn Thành
phố, trong đó có tội phạm về cướp giật tài sản.
Theo số liệu cho thấy trong 05 năm trở lại đây, số vụ cướp giật
tài sản có chiều hướng gia tăng. Hoạt động của tội phạm ngày càng
đa dạng, thực hiện một cách trắng trợn gây tâm lý hoang mang, lo
lắng trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh
trật tự, an toàn xã hội của thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tình hình tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để từ đó tìm ra nguyên
nhân của tội phạm này, đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm này là một yêu cầu bức thiết. Do đó nên tác giả
đã chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
1



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, có một số luận văn thạc sỹ nghiên
cứu từ góc độ tội phạm học một nhóm tội phạm trong đó có tội cướp
giật tài sản như: “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh An Giang:
tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của Lê Ngọc Hớn
– Học viện Khoa học xã hội – thành phố Hồ Chí Minh, năm 2012;
“Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí
Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của Đào
Quốc Thịnh – Học viện Khoa học xã hội – thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2012; “Tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận 7, thành phố Hồ
Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của Lê
Thuần Phong–Học viện Khoa học xã hội - thành phố Hồ Chí Minh
năm 2013; “Phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố
Hà Nội giai đoạn 2008 – 2012” của Nguyễn Hải Yến, Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2013;…
Tuy nhiên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, hệ thống thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản cũng như đưa ra được biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh trong bối cảnh tình hình loại tội phạm này có chiều hướng gia
tăng và diễn biến phức tạp, thủ đoạn manh động, gây bức xúc dư
luận trong thời gian qua. Vì vậy, việc nghiên cứu phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản và tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả
phòng ngừa tội phạm này trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là
mang tính cấp bách, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 - 2016, nguyên nhân của
2



tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, biện pháp
phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí
Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội
phạm học về tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 2012 đến năm 2016.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài là nhằm đưa ra
được các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Đánh giá tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2012 đến
năm 2016; làm sáng tỏ nguyên nhân của tội cướp giật tài sản trong
thời gian từ năm 2012 đến năm 2016, dự báo tình hình tội cướp giật
tài sản và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện
trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp nghiên cứu: Trong luận văn, tác giả sử dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể, tiêu biểu là: Phương
pháp tiếp cận định lượng, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên,
phương pháp phân tích thứ cấp dữ liệu, phương pháp thống kê, phân
tích, tổng hợp, so sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn đánh giá được tình hình tội cướp giật tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2012 đến năm
3



2016, giải thích được một số nguyên nhân cơ bản làm phát sinh tội
phạm này và đề xuất được các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng
ngừa phù hợp với đặc điểm riêng biệt và yêu cầu phòng ngừa tội
phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản.
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Dự báo và tăng cường phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và mục đích, ý nghĩa của phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hinh tội cướp giật tài sản
Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là
ngăn ngừa tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm
bằng toàn bộ những biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà
nước và tổ chức xã hội tiến hành”.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm

là hệ thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã
hội và Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều
kiện của tội phạm hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và
bằng cách đó làm giảm và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm”.
Thông qua việc tổng hợp các quan điểm khoa học đã nêu, kết
hợp với thực tiễn phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trong
thời gian vừa qua, theo tác giả có thể đưa ra khái niệm phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản như sau: Phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản là hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các
tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội áp dụng bằng cách
sử dụng các biện pháp khác nhau nhằm loại trừ, thủ tiêu những
nguyên nhân và điều kiện phạm tội cướp giật tài sản, cũng như loại
bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm
chất cá nhân tiêu cực, từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ
tội cướp giật tài sản ra khỏi đời sống xã hội.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản
5


Phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động chủ yếu của các
cơ quan chuyên môn, chuyên trách trong công tác bảo vệ pháp luật
và phòng chống tội phạm nhằm ba mục đích sau:
Một là, từng bước loại trừ và triệt tiêu các nguyên nhân, điều
kiện phạm tội, xóa bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc
phát sinh ra tội cướp giật tài sản.
Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình, nhà trường, xã
hội) xung quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người
phạm tội.
Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ

thống phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực và tình hình tội phạm nói
chung và phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
1.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
1.2.1. Nguyên tắc pháp chế: Phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản là một loại xã hội mà ở mức độ này hoặc mức độ khác,
mang tính quyền lực nhà nước. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm
vụ chung mà xã hội và Nhà nước đặt ra vì lợi ích chung của xã hội.
1.2.2. Nguyên tắc dân chủ: Nguyên tắc dân chủ thể hiện
xuyên suốt trong toàn bộ các loại hình hoạt động của Nhà nước và xã
hội. Dân chủ là một trong những đặc điểm nổi bật thể hiện bản chất
của xã hội nước ta.
1.2.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa: Trong xã hội
chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng và phát triển, con người luôn
là trung tâm của mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Phòng ngừa
tình hình tội cướp giật tài sản, về bản chất, là hoạt động mang tính
nhân đạo, vì con người, nó bảo vệ xã hội, Nhà nước và công dân
khỏi sự xâm hại của tội phạm.
1.2.4. Nguyên tắc khoa học và tiến bộ: Được thể hiện ở các
6


biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ thống phòng ngừa, các chủ thể
phòng ngừa phải được xây dựng có cơ sở khoa học, các thành tựu
khoa học nhất định, phải ứng dụng các thành tựu của khoa học và
công nghệ trong việc xây dựng các biện pháp phòng ngừa tội phạm,
các biện pháp phòng ngừa tội phạm luôn phải đảm bảo cho mọi
người có cơ hội phát triển bình đẳng, không được phân biệt chủng
tộc, tôn giáo, giới tính, thái độ chính trị, phải có cơ sở lý luận và thực
tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh với tình hình tội phạm
nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng, mang tính chất

đồng bộ, có hệ thống, đạt hiệu quả cao và phù hợp với tiến trình phát
triển của xã hội và xu hướng hoạt động phòng ngừa đối với các tội
phạm khác.
1.2.5. Nguyên tắc phối hợp: Hệ thống phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản là một chính thể bao gồm nhiều biện pháp khác
nhau, mỗi biện pháp có đặc điểm, tính chất, mức độ, phạm vi áp
dụng và chủ thể riêng.
1.2.6. Nguyên tắc phân hóa: Thể hiện ở chỗ hệ thống phòng
ngừa phải được tổ chức tương ứng với các quy luật và đặc điểm của
tình hình tội phạm và người phạm tội, các biện pháp phòng ngừa
phải phù hợp với từng lĩnh vực phòng ngừa, đối tượng và địa điểm
phòng ngừa; việc phòng ngừa cá nhân phải được tiến hành trên cơ sở
hiểu biết đầy đủ về cá nhân.
1.3. Chủ thể phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
Các chủ thể hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản bao gồm:
- Đảng Cộng sản Việt Nam: được ghi nhận là chủ thể quan
trọng của hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa
tội cướp giật tài sản nói riêng.
7


- Hội đồng nhân dân: với tính chất cơ quan đại diện quyền lực
nhà nước ở địa phương, hoạt động phòng ngừa của Hội đồng nhân
dân các cấp luôn thu hút sự tham gia của đông đảo thành phần xã hội
và có giá trị thực tiễn tích cực.
- Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hồ Chí Minh,
VKSND thành phố Hồ Chí Minh và TAND thành phố Hồ Chí Minh:
Pháp luật trao cho ba cơ quan này chức năng điều tra, truy tố, xét xử.
Thông qua chức năng mà pháp luật quy định, ba cơ quan này là các

cơ quan tiếp xúc trực tiếp với loại tội phạm này.
- Cơ quan chuyên môn thuộc Bộ tư pháp: cũng là chủ thể quan
trọng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tình
hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
- Công dân và các tổ chức xã hội thực hiện: Các tổ chức xã
hội, công dân với tính chất mềm dẻo trong hoạt động luôn tác động
có hiệu quả đến các phần tử có tiền án, tiền sự, tái phạm hoặc có
những hành vi bất hảo giáp ranh với tội phạm.
1.4. Các biện pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản
1.4.1 Căn cứ vào thời điểm, mục tiêu tác động của các biện
pháp phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản: Có hai loại biện
pháp cơ bản để phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản:
- Tập trung vào việc hạn chế và tiến dần đến thủ tiêu những
hiện tượng xã hội tiêu cực là nguyên nhân của tội cướp giật tài sản.
- Bằng mọi cách phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các
trường hợp phạm tội đã hoặc đang xảy ra.
1.4.2 Căn cứ vào lĩnh vực của các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản: Có các biện pháp kinh tế - xã hội; văn hóa giáo dục; chính trị - tư tưởng; tổ chức - quản lý và biện pháp pháp luật.
8


1.4.3 Căn cứ vào tính chất và mục đích của hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm: có biện pháp phòng ngừa chung và biện
pháp phòng ngừa riêng.
1.5. Mối quan hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm và
tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm,
nhân thân người phạm tội
1.5.1. Mối quan hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm và
tình hình tội phạm

Tình hình tội phạm là khách thể nghiên cứu cơ bản của tôi
phạm học và là khái niệm dùng để chỉ hiện tượng tâm sinh lý xã hội
tiêu cực, có tính lịch sử, pháp lý hình sự và giai cấp, được biểu hiện
bằng tổng thể các hành vi phạm tội đã xảy ra và các chủ thể thực
hiện hành vi đó trong một đơn vị thời gian, không gian nhất định
trạng thái, xu thế vận động của các tội phạm (hoặc nhóm tội phạm
hoặc một loại tội phạm) đã xảy ra trong đơn vị không gian và thời
gian xác định [25, tr.252]
Nghiên cứu tình hình tội phạm không chỉ dừng lại ở mô tả
“bức tranh tội phạm” mà đòi hỏi còn phải phân tích “bức tranh”, so
sánh các “bức tranh” với nhau để qua đó có được sự đánh giá đầy đủ
và toàn diện tính nghiêm trọng của tội phạm đã xảy ra - nghiêm trọng
về mức độ cũng như nghiêm trọng về tính chất. Ở đây đòi hỏi việc
nghiên cứu phải sử dụng đến phương pháp phân tích, so sánh để
đánh giá.
Mô tả và phân tích “bức tranh tội phạm” trong nghiên cứu tình
hình tội phạm không phải chỉ để “biết” những gì đã xảy ra mà quan
trọng hơn là để giải thích, phát hiện nguyên nhân của những gì đã
biết, để dự báo về diễn biến của tình hình tội phạm trong thời gian tới
và qua đó tạo cơ sở cho việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa tình
hình tội phạm.
1.5.2. Mối quan hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm và
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm

9


Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ thống nhiều mức độ và
biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà nước - xã hội
nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc

làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm
và dần dần loại bỏ tình hình tội phạm. Do đó, không thể có phòng
ngừa tình hình tội phạm một cách hiệu quả nếu như không xác định
đúng nguyên nhân và điều kiện của tội phạm.
Sau khi nghiên cứu về tình hình tội phạm, nhà nghiên cứu cần
tiếp tục nghiên cứu vấn đề nguyên nhân của tội phạm để từ đó mới
có thể xây dựng được các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm
sát với thực tế, có thể hạn chế hoặc loại trừ được nguyên nhân phát
sinh tội phạm, ngăn chặn hiệu quả tội phạm xảy ra trong xã hội.
Tội phạm là hiện tượng có tính chất cá nhân và xã hội. Do đó
khi tìm hiểu về nguyên nhân của tội phạm phải nghiên cứu cả
nguyên nhân bắt nguồn từ phía xã hội và nguyên nhân xuất phát từ
cá nhân người phạm tội, sự tác động của nguyên nhân xã hội tới cá
nhân dẫn đến sự hình thành nhân cách lệch lạc của cá nhân người
phạm tội, từ đó phát sinh tội phạm.
1.5.3. Quan hệ giữa phòng ngừa tình hình tội phạm và nhân
thân người phạm tội
Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc
trưng nhất phản ánh bản chất của người phạm tội, những đặc điểm
dấu hiệu này tác động với những tình huống và hòan cảnh khách
quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội của người đó.
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo điều kiện thuận
lợi cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể,
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, có ý nghĩa quan
trọng trong việc áp dụng hình phạt của từng trường hợp phạm tội.
Nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là góp phần quan trọng
trong việc giáo dục và cải tạo người phạm tội, việc phòng ngừa và dự
báo tình hình tội phạm.

10



Chương 2
THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP GIẬT
TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Thực trạng hiệu quả phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh qua các thông
số của tình hình tội phạm
* Về tội phạm rõ: Căn cứ theo số liệu thống kê của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thì số vụ và số người phạm tội
bị xét xử sơ thẩm về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh trong thời gian 5 năm (2012 -2016) cho thấy, Tòa án nhân
dân các cấp đã xét xử 981 vụ án và 1531 người phạm tội cướp giật
tài sản, bình quân mỗi năm xét xử 196 vụ cướp giật tài sản/306 người
phạm tội (chi tiết tại Bảng 2.1 và Biểu 2.1 kèm theo)
* Về tội phạm ẩn: Thực tế cho thấy, mỗi loại tội phạm có một
tỷ lệ ẩn khác nhau. Để đánh giá được tội phạm ẩn của tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh là một công việc hết sức
khó khăn. Tác giả đã cố gắng phân tích để làm sáng tỏ (ở mức độ
tương đối) về tội phạm ẩn của tội cướp giật tài sản trong thời gian
giai đoạn 2012 -2016 trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thống kê
cho thấy, trong tổng số 151 bản án hình sự sơ thẩm về tội cướp giật
tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 -2016 thì
có 21 vụ chiếm 13,9% người phạm tội phạm tội nhiều lần nhưng các
lần phạm tội trước đó không bị phát hiện, chỉ đến khi người phạm tội
thực hiện lần phạm tội cuối cùng và bị bắt thì mới điều tra được các
lần phạm tội trước đó của họ.
2.2. Thực trạng nhận thức về phòng ngừa tình hình tội
phạm cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.


11


Từ năm 2012 đến năm 2016, tình hình tội phạm tội cướp giật
tài sản tính về số vụ và số người có xu hướng giảm trong 2 năm trở
lại đây (năm 2015, 2016). Đạt được kết quả nêu trên là do:
Thứ nhất, các cấp chính quyền địa phương đã luôn quan tâm
trong quá trình phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo giữ vững an
ninh chính trị trên địa bàn quận bằng nhiều biện pháp, ban hành các
văn bản chỉ đạo nhằm đảm bảo trật tự an ninh trên địa bàn quản lý.
Thứ hai, các lực lượng chức năng đặc biệt là lực lượng công
an, quân sự đã thường xuyên tuần tra truy quét trấn áp các loại tội
phạm. Mở nhiều đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm.
Thứ ba, trong quá trình thực thi nhiệm vụ các cơ quan tiến
hành tố tụng đã chú ý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp.
Thứ tư, tinh thần đề cao cảnh giác trong quần chúng nhân dân,
tham gia tích cực các phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc với nhiều
mô hình cách làm hiệu quả như
Thứ năm, công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật cho nhân
dân luôn được quan tâm, từ đó đã nâng cao hiểu biết pháp luật cho
người dân, tránh thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ sáu, công tác quản lý, giúp đỡ các đối tượng chấp hành án
tù trở về sinh sống tái hòa nhập cộng đồng được thực hiện khá tốt
đặc biệt là quan tâm tạo công ăn việc làm giúp họ có thu nhập ồn
định cuộc sống, từ đó góp phần hạn chế tỷ lệ tái phạm tội ở những
người này.
2.3. Thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Qua nghiên cứu thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tội

phạm trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của các lực lượng chức
12


năng thì vẫn còn một số hạn chế làm cho công tác phòng ngừa tội
cướp giật tài sản chưa đạt hiệu quả cao đó là:
Thứ nhất, sự hạn chế về năng lực tổ chức và phối hợp giữa các
ngành, các cấp và các tổ chức trong việc triển khai các chương trình,
kế hoạch công tác có liên quan tới công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Hai là, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các ngành, các cấp có
trách nhiệm chưa có biện pháp xử lý triệt để, nghiêm khắc đối với
các đối tượng cướp giật tài sản, việc xử lý các đối tượng phạm tội
còn chưa nghiêm, do vậy dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, tội
phạm ngày một gia tăng.
Ba là, công tác quản lý nhân khẩu trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh chưa thực sự tốt. cán bộ phụ trách công việc quản lý nhân
khẩu thường là kiêm nhiệm thực hiện chưa đồng bộ, còn chủ quan,
duy ý chí, áp lực công việc nhiều, không có thời gian hoàn thành tốt
khâu quản lý nhân khẩu.
Bốn là, Công tác điều tra, truy tố, xét xử tội cướp giật tài sản
của các cơ quan tiến hành tố tụng đã đạt nhiều kết quả tốt, đóng góp
vào việc kiềm chế tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói
riêng. Tuy nhiên, công tác phòng ngừa nghiệp vụ của các cơ quan
chức năng đối với tội cướp giật tài sản vẫn chưa đạt hiệu quả cao.
Năm là, Tỷ lệ khám phá án cướp giật tài sản còn thấp. Chưa
xây dựng được những cơ sở, tai mắt vững chắc nên công tác nắm
tình hình còn nhiều hạn chế, mặt khác thiếu tiếp xúc, phát động quần
chúng nhân dân tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm
2.4. Thực trạng các biện pháp phòng ngừa tình hình tội

cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
2.4.1. Thực trạng các biện pháp cải thiện môi trường vĩ mô
13


Quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh, kinh tế phát triển
nhanh chóng, nhiều khu công nghiệp mọc lên, các công ty, xí nghiệp
lần lượt ra đời đã lôi kéo một lượng lao động rất lớn từ bên ngoài vào
làm ăn sinh sống tại thành phố. Tuy vậy, sự ứng phó của các cấp
chính quyền để giải quyết các mặt trái của nền kinh tế thị trường như
sự phân hóa giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng thất nghiệp, tệ nạn
xã hội ngày càng phức tạp... chưa được giải quyết một cách căn cơ,
một số cơ chế, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô còn bất cập, chưa sát
thực tế... điều này đã trở thành một trong những mầm mống làm phát
sinh nhiều loại tội phạm trong đó có tội cướp giật tài sản.
- Các biện pháp nhằm giải quyết tinh trạng thất nghiệp, mặt
trái của quá trình phát triển kinh tế các cấp chính quyền đã đưa ra
nhiều quyết sách với nhiều công văn, chỉ thị nhằm cân bằng quá trình
phát triển kinh tế với mặt trái của nó.

- Các

biện pháp về tuyên truyền giáo dục vận động quần

chúng tham gia phòng ngừa tội cướp giật tài sản trên các tuyến giao
thông, địa bàn trọng điểm đã được tiến hành thường xuyên, nhưng
hình thức và nội dung chưa thật sự phong phú.

- Biện pháp nhằm hạn chế từ đời sống văn hóa, tinh thần, an
sinh xã hội: Tuy đã được các cấp chính quyền thành phố quan tâm

nhưng việc triển khai thực hiện đôi khi chỉ mang tính hình thức, chưa
có sự phân loại cao trong đối tượng phục vụ, ngoài ra cơ sở vật chất
phục vụ cho nhu cầu văn hóa thể dục thể thao, các cơ sở vui chơi,
giải trí lành mạnh dành cho người dân chưa đầy đủ, còn rất thiếu
thốn.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật và các ngành, các cấp có trách
nhiệm chưa có biện pháp xử lý triệt để, nghiêm khắc đối với các đối
tượng cướp giật tài sản, việc xử lý các đối tượng phạm tội còn chưa
14


nghiêm, do vậy dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, tội phạm
ngày một gia tăng.
2.4.2. Thực trạng các biện pháp cải thiện môi trường hình
thành nhân cách con người
Trong thời gian qua thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên về xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, tăng cường mối quan phối kết
hợp ba bên giữa gia đình -nhà trường - xã hội trong quá trình giáo
dục, quản lý thanh thiếu niên, người đang độ tuổi đi học... đã được
chính quyền thành phố quan tâm hơn.Tuy nhiên, thực trạng các biện
pháp cải thiện môi trường hình thành nhân cách con người vẫn còn
nhiều hạn chế.
Hạn chế trong môi trường giáo dục gia đình: Gia đình là tế
bào của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Thực tế cho thấy việc
giáo dục con cái trên nền tảng đạo đức truyền thống đã bị một bộ
phận không nhỏ các gia đình lãng quên, cách giáo dục con cái trong
mỗi gia đình khác nhau. Gia đình không hoàn thiện đã tác động rất
lớn đến nhân cách của người phạm tội
Những ảnh hưởng từ hạn chế trong môi trường giáo dục tại
nhà trường: Với sự cố gắng nỗ lực của các cấp ngành và sự quan tâm

của nhân dân, trong những năm qua công tác giáo dục đào tạo ở
thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ,
quy mô giáo dục và đào tạo được mở rộng, chất lượng giáo dục đã
được nâng lên.
Hạn chế trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật:
Trong những năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã được triển khai qua các phương
tiện thông tin đại chúng, băng rôn, áp phích hoặc thông qua công tác
xét xử lưu động các vụ án.
15


2.4.3. Thực trạng các biện pháp hạn chế nguy cơ trở thành
nạn nhân
Qua nghiên cứu 151 bản án HSST của TAND thành phố Hồ
Chí Minh giai đoạn 2012-2016 cho thấy nạn nhân đa số là nữ, hành
vi phạm tội của các bị cáo được thực hiện do thái độ lơ là, sơ hở, mất
cảnh giác của chính các nạn nhân, tài sản cướp giật được phần lớn
chính là các vật dụng hàng ngày của nạn nhân như điện thoại, giỏ
xách, laptop, tiền, vàng, trang sức... nói đến điều này để thấy được
các biện pháp trong công tác tuyên truyền để phòng ngừa tình hình
tội cướp giật tài sản của chính quyền thành phố Hồ Chí Minh chưa
đạt hiệu quả, việc tuyên truyền các phương thức, thủ đoạn, tài sản
thường bị cướp giật trong các vụ án cướp giật tài sản cho quần chúng
nhân dân chưa được chú trọng.

16


Chương 3

DỰ BÁO VÀ TĂNG CƯỜNG PHÕNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CƯỚP GIẬTTÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới
Việc khắc phục các nguyên nhân của tội phạm nói chung cũng
như tội cướp giật tài sản nói riêng không phải là vấn đề đơn giản,
nhất là nhóm nguyên nhân thuộc về kinh tế - xã hội vì khắc phục
nguyên nhân này đòi hỏi phải mang tính tổng thể có tính chiến lược
của cả nước và là quá trình lâu dài.
Về thực trạng, diễn biến của tội cướp giật tài sản: Số vụ và số
người phạm tội cướp giật tài sản sẽ vẫn có chiều hướng tăng và diễn
biến phức tạp
Về cơ cấu, tính chất của tội cướp giật tài sản:
+ Về hình thức và phương tiện phạm tội: Các hành vi phạm tội
có tổ chức sẽ tăng lên. Người phạm tội sẽ vẫn sử dụng xe máy là
phương tiện phạm tội
+ Nạn nhân của tội cướp giật tài sản trong thời gian tới sẽ tập
trung vào các đối tượng có nhiều tài sản như cửa hàng kinh doanh
vàng bạc, phụ nữ, các đối tượng quản lý tài sản sơ hở.
+ Tài sản mà người phạm tội cướp giật hướng tới trong thời
gian tới là những tài sản gọn nhẹ và có giá trị cao, như tiền, điện
thoại di động, túi xách và đồ trang sức.
+ Độ tuổi của người phạm tội cướp giật tài sản: Tình trạng
người chưa thành niên phạm tội tăng lên do lứa tuổi này dễ bị kích
động bởi văn hóa phẩm có nội dung không lành mạnh. Tuy nhiên,
người phạm tội từ 18 – 30 tuổi vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất vì họ không
17



có việc làm ổn định, thu nhập bấp bênh, nhu cầu cá nhân ngày càng
tăng nên dễ dàng phạm tội.
3.2. Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Tăng cường nhận thức của chủ thể phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản
Hội đồng nhân dân tăng cường tham gia hoạt động phòng
ngừa tình hình tội cướp giật tài sản bằng cách tham gia vào chương
trình phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản cụ thể, tiếp tục đưa
ra những kiến nghị và tạo điều kiện cho các cơ quan tổ chức xã hội
thực hiện tốt vai trò phòng ngừa tình hình tội phạm hay thành lập các
tiểu ban chuyên trách về phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản....
Công an thành phố tăng cường phối hợp với cơ quan chuyên
trách của các tỉnh lân cận trong việc đấu tranh và phòng ngừa tình
hình tội phạm; phối hợp với các cơ quan hữu quan đề ra kế hoạch và
thực hiện kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm; phối hợp chặt
chẽ với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc tuyên truyền, cùng với
các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhân dân phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản, bảo vệ trật tự an toàn xã hội.
VKSND thành phố Hồ Chí Minh và VKSND các quận huyện
thành phố Hồ Chí Minh tăng cường kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và thực hành quyền công
tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất.
TAND thành phố Hồ Chí Minh và hệ thống các TAND các
quận, huyện tăng cường hoạt động xét xử, làm sáng tỏ bản chất vụ
án, mức độ lỗi của người phạm tội, hình phạt sẽ áp dụng đối với
người phạm tội cướp giật tài sản...
Các cơ quan chuyên môn thuộc Bộ tư pháp tăng cường hoạt
18



động phòng ngừa tình hình tội phạm cướp giật tài sản được thể hiện
ở các mặt cơ bản sau: tiếp tục đưa ra những sáng kiến pháp luật và
trực tiếp tham gia vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật,
trong đó có Luật Hình sự, Luật tố tụng Hình sự và Luật về thi hành
án hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa
tình hình tội phạm; tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống tình
hình tội phạm và nguyên nhân của tình hình tội cướp giật tài sản,
góp phần đặt nền tảng lý luận cho việc tổ chức, tăng cường xây dựng
các kế hoạch phòng ngừa tình hình tội phạm của các chủ thể khác.
Các tổ chức xã hội, công dân với tính chất mềm dẻo trong
hoạt động tăng cường tác động có hiệu quả đến các phần tử có tiền
án, tiền sự, tái phạm hoặc có những hành vi bất hảo giáp ranh với tội
phạm, góp phần ngăn chặn, phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài
sản xảy ra trên địa bàn thành phố.
3.2.2. Tăng cường nhận thức về phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản của người phạm tội và nạn nhân của tội phạm
Đối với lứa tuổi chưa thành niên, do nhận thức chưa đúng đắn
về các chuẩn mực đạo đức xã hội, hiểu biết pháp luật còn hạn chế,
được gia đình nuông chiều hoặc do gia đình không hoàn thiện các em
không được quan tâm đúng mức, chán học, bỏ học nên rất dễ dẫn đến
các hành vi lệch lạc trong đó có việc phạm tội. Vì vậy, gia đình cần
quan tâm đến các em hơn để uốn nắn các em khi có những biểu hiện
lệch lạc về đạo đức, tác phong, lối sống, giữa gia đình và nhà trường
cần có sự liên hệ để quản lý các em. Giáo dục trong nhà trường
không chỉ chú trọng truyền đạt kiến thức văn hóa mà còn phải quan
tâm giáo dục pháp luật, đạo đức, lối sống lành mạnh và các quy tắc
xử sự trong xã hội. Giáo dục các em có ý thức tôn trọng tài sản của
người khác, nhận thức đúng đắn về lao động và đồng tiền, biết dùng
19



chính sức lao động của mình để làm ra của cải và những hành vi xâm
phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc.
Đối với những người nghiện mà túy cần có các giải pháp cai
nghiện hợp lý, tránh để công tác quản lý người nghiện còn mang tính
hành chính, không quan tâm đầy đủ đến nhu cầu cá nhân của người
nghiện, một số cán bộ ngại trách nhiệm hoặc thiếu gần gũi với người
cai nghiện. Hoạt động tư vấn, nâng cao động lực cho người nghiện ít
được chú trọng. Người sau cai nghiện cần được hỗ trợ dạy nghề và
tạo việc làm cho họ tránh trường hợp không có việc làm, lêu lỏng lại
quay lại con đường phạm tội cũ.
3.3. Tăng cường lực lượng phòng ngừa tình hình tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Đối với cơ quan điều tra: Đây là lực lượng nòng cốt trong điều
tra, khám phá tội phạm. CQĐT cần nâng cao hiệu quả công tác phát
hiện tội phạm, làm giảm mức độ ẩn của tội cướp giật tài sản
Đối với Tòa án: Hoạt động xét xử lưu động ngành Tòa án cần
chú ý hơn nữa, để đây không chỉ là chỉ tiêu công tác mà đó thực sự là
một biện pháp được thực hiện thường xuyên, rộng rãi kể cả ở các
vùng sâu, vùng xa đảm bảo tính tuyên truyền, giáo dục đến người
dân mang hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tình
hình tội cướp giật tài sản nói riêng.
Đối với Viện kiểm sát: Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung, tình hình tội cướp giật tài sản nói riêng, lực
lượng cán bộ Viện kiểm sát phải được bổ sung, tăng cường cả về số
lượng và chất lượng để có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ
3.4. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh


20


3.4.1. Tăng cường các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm từ góc độ kinh tế - xã hội
Thứ nhất là các biện pháp giải quyết việc làm và đào tạo nghề
đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng quá trình công nghiệp hóa nền
kinh tế
Thứ hai là giúp người dân giảm bớt khó khănvề kinh tế, nâng
cao mức sống của bộ phận dân cư nghèo về mặt vật chất và tinh
thần, giảm bớt sự phân hóa giàu nghèo
3.4.2. Tăng cường giáo dục và tuyên truyền, phổ biến pháp
luật
Về công tác phổ biến, giáo dục, tuyên truyền pháp luật: Tội
cướp giật tài sản có nguyên nhân phát sinh từ trong lòng xã hội, vì
vậy tiến hành phòng ngừa tình hình tội phạm này đòi hỏi phải phát
huy được sức mạnh của toàn xã hội, với sự tham gia đông đảo của
các tầng lớp dân cư. Để làm được điều đó, chúng ta cần phải quan
tâm, chú trọng nâng cao hiểu biết pháp luật cho quần chúng nhân
dân, tuyên truyền để người dân có ý thức tự giác chấp hành pháp
luật, đồng thời có ý thức tự giác cùng với các cơ quan chức năng đấu
tranh, ngăn chặn không để tội phạm xảy ra và hợp tác cùng với các
cơ quan này truy bắt tội phạm khi có hành vi phạm tội xảy ra, tích
cực góp phần bảo vệ ANTT, an toàn xã hội.
3.4.3. Tăng cường các biện pháp nâng cao hiệu quả trong
hoạt động quản lý trật tự, an toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về nơi cư trú:
Tăng cường công tác quản lý nơi cư trú là một trong những việc góp
phần thực hiện nhiệm vụ công tác phòng ngừa tội phạm.
Tăng cường công tác đăng ký, quản lý các loại phương tiện

xe máy: Để hạn chế các thiếu sót trông công tác quản lý đăng ký xe
21


máy, các cơ quan chức năng của thành phố Hồ Chí Minh đặc biệt lực
lượng Công an cần phải tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc
sử dụng xe máy, giấy tờ đăng ký xe máy, chủ động phát hiện và ngăn
chặn tình trạng sử dụng biển kiểm soát giả.
Tăng cường công tác quản lý các loại hình dịch vụ: Trong
nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển đã xuất hiện nhiều ngành
nghề mới, do vậy mà kéo theo nhiều vấn đề phức tạp, qua đó bọn tội
phạm có thể lợi dụng để thực hiện hành vi phạm tội.
Tăng cường tuần tra, kiểm tra của các lực lượng chức năng
(Cảnh sát hình sự đặc nhiệm, Cảnh sát cơ động, cảnh sát khu vực,
lực lượng dân phòng, Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự) ở những
“điểm được coi là điểm nóng” và thời gian thường xảy ra các vụ
cướp giật, buổi tối, đoạn đường vắng và ban đêm bọn tội phạm hay
lợi dụng để thực hiện hành vi cướp giật nên tăng cường tuần tra vào
thời điểm này.

22


KẾT LUẬN
1. Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về phòng ngừa tình
hình tội cướp giật tài sản, nghiên cứu số liệu thống kê số vụ và số
người phạm tội cướp giật tài sản thời gian từ năm 2012 đến năm
2016 cùng với 151 bản án hình sự sơ thẩm trên thực tế, tác giả đã rút
ra những đặc điểm cơ bản của tình hình tội cướp giật tài sản. Hậu
quả gây ra cho xã hội ngày càng nghiêm trọng gây lo lắng trong nhân

dân, ảnh hưởng đến trật tự, an ninh xã hội, vì vậy mà ảnh hưởng đến
sự phát triển kinh tế - xã hội của toàn thành phố.
2. Trên cơ sở nghiên cứu nghiên cứu thực trạng của tội cướp
giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2012 2016; thực trạng nhận thức phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản
trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; thực trạng tổ chức lực lượng
phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh và thực trạng các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh. Tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là các
nguyên nhân sau:
(1) Nhóm nguyên nhân về kinh tế- xã hội: đó là những tác
động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường mà biểu hiện là sự phân
hóa giàu nghèo, tình trạng thất nghiệp;
(2) Nguyên nhân về giáo dục và tuyên truyền, phổ biến pháp
luật: đó là những hạn chế trong công tác giáo dục gia đình, nhà
trường, hạn chế trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật;
(3) Nhóm nguyên nhân liên quan đến những hạn chế trong
công tác quản lý nhà nước về trật tự, an toàn xã hội trong các lĩnh
vực như quản lí hộ khẩu, nhân khẩu, quản lí đăng kí xe máy, quản lí
loại hình dịch vụ cầm đồ;
23


×