Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.32 KB, 106 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong điều kiện sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường, để tồn tại
và phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi. Để đạt được kết
quả cao nhất trong sản xuất và kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải xác
định phương hướng mục tiêu trong đầu tư, biện pháp sử dụng các điều kiện
sẵn có về các nguồn nhân tài, vật lực. Muốn vậy các doanh nghiệp cần nắm
được các nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố
đến kết quả kinh doanh.
Phân tích báo cáo tài chính gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, các Tổng công ty. Trong điều kiện sản xuất chưa
phát triển, thông tin cho quản lý chưa nhiều, chưa phức tạp nên công việc
phân tích báo cáo tài chính chỉ được tiến hành chỉ là những phép tính cộng trừ
giản đơn. Nền kinh tế cáng phát triển, những đòi hỏi về quản lý kinh tế không
ngứng tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày càng cao và
phức tạp, phân tích báo cáo tài chính ngày càng hoàn thiện với hệ thống lý
luận độc lập.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của phân tích báo cáo tài chính, cùng với
sự giúp đỡ của TS. Trần Quý Liên, tôi đã nghiên cứu chuyên đề: “Hoàn thiện
phân tích báo cáo tài chính với việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng
công ty Viễn thông Quân đội Viettel”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu và góp phần hoàn thiện một số vấn đề lý luận về phân tích
báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
- Xem xét và đánh giá thực trạng nội dung phân tích báo cáo tài chính tại
Tổng công ty Viễn thông Quân đội.
- Đưa ra một số giải pháp và phương hướng nhằm hoàn thiện nội dung và
phương pháp phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1



- Đối tượng nghiên cứu: Công tác tổ chức phân tích, phương pháp và nội
dung phân tích báo cáo tài chính.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu phương pháp và nội dung phân tích
báo cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội trong ba năm 2006,
2007, 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp: duy vật biện chứng, thống
kê, tổng hợp, so sánh, phân tích các số liệu thống kê...
5. Bố cục của luận văn
Luận văn thạc sỹ với đề tài “Hoàn thiện phân tích báo cáo tài chính với
việc tăng cường quản lý tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội
Viettel”, ngoài lời mở đầu và kết luận, được kết cấu thành 3 chương như sau:
- Chương 1. Tổng quan về Tổng công ty Viễn thông Quân đội Viettel.
- Chương 2. Thực trạng phân tích báo cáo tài chính tại Tổng công ty
Viễn thông Quân đội.
- Chương 3. Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện phân tích báo
cáo tài chính tại Tổng công ty Viễn thông Quân đội.

2


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG
BÁO CÁO TÀI CHÍNH VÀ PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÂN TÍCH
BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng không chỉ trong bản
thân doanh nghiệp mà cả trong nền kinh tế, nó là động lực thúc đẩy sự phát

triển của mỗi quốc gia mà tại đây diễn ra quá trình sản xuất kinh doanh: đầu
tư, tiêu thụ và phân phối, trong đó sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự
vận động của vật tư hàng hoá.
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính là
những mối quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ chức, huy động, phân
phối, sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả.
Để nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp mình cũng như tình
hình tài chính của các đối tượng quan tâm thì việc phân tích tình hình tài
chính thông qua các báo cáo tài chính là rất quan trọng. Thông qua việc phân
tích hệ thống báo cáo tài chính, người ta có thể sử dụng thông tin đánh giá
tiềm năng, hiệu quả kinh doanh, triển vọng cũng như rủi ro trong tương lai
của doanh nghiệp. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của doanh
nghiệp là mối quan tâm của nhiều nhóm đối tượng khác nhau như Hội đồng
quản trị, Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các nhà cho
vay tín dụng, nhân viên ngân hàng, các nhà bảo hiểm và kể cả cơ quan Nhà
nước cũng như nhóm có những xu hướng tập trung vào các khía cạnh riêng
trong bức tranh tài chính của mỗi doanh nghiệp.
1.1.2. Sự cần thiết phải phân tích báo cáo tài chính nhằm tăng cường
quản lý tài chính của doanh nghiệp
Hiện nay, nhóm đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh
nghiệp ngày càng mở rộng, từ Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, các nhà đầu
tư, các cổ đông, các chủ nợ, các tổ chức tín dụng cho vay, các nhà quản lý,
3


các nhà bảo hiểm, các cơ quan Nhà nước, người lao động trong doanh
nghiệp… Mỗi một nhóm người này có những nhu cầu thông tin khác nhau và
do vậy, mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức

tranh tài chính của doanh nghiệp. Mặc dù nhu cầu sử dụng thông tin của họ
khác nhau nhưng các công cụ và kỹ thuật phân tích cơ bản mà họ sử dụng để
phân tích tình hình tài chính nhằm tăng cường quản lý tài chính của họ lại
giống nhau. Thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp,
người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng
như những rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp. Phân tích
báo cáo tài chính của doanh nghiệp là khám phá hoạt động tài chính đã được
thể hiện bằng con số, là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh tài
liệu về tài chính hiện hành với quá khứ, cụ thể:
 Đối với bản thân doanh nghiệp
Việc phân tích báo cáo tài chính sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo và bộ
phận tài chính doanh nghiệp thấy được tình hình của đơn vị mình để chuẩn bị
lập kế hoạch cho tương lai cũng như đưa ra các quyết định kịp thời phục vụ
quản lý. Qua phân tích báo cáo tài chính, các nhà quản lý doanh nghiệp thấy
được một cách toàn diện tình hình tài chính doanh nghiệp trong mối quan hệ
nội bộ với mục đích lợi nhuận và khả năng thanh toán để trên cơ sở đó, dẫn
dắt doanh nghiệp theo mọi hướng sao cho các chỉ số của chỉ tiêu tài chính
thoả mãn yêu cầu của chủ nợ cũng như chủ sở hữu.
 Đối với các chủ ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng
Mối quan tâm của họ chủ yếu hướng vào khả năng trả nợ của doanh
nghiệp. Họ đặc biệt chú ý đến số lượng tiền và các tài sản khác có khả năng
chuyển đổi nhanh thành tiền, từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được
khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Đồng thời, họ cũng quan tâm
đến số lượng vốn chủ sở hữu vì số vốn chủ sở hữu này là khoản bảo hiểm cho
họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp rủi ro. Do đó, phân tích báo cáo tài
chính doanh nghiệp sẽ giúp cho các nhà cho vay tránh được rủi ro đáng tiếc
trong quan hệ tính dụng, đặc biệt trong quan hệ với doanh nghiệp đang trong
tình trạng bấp bênh hay phá sản.
 Đối với nhà cung cấp
4



Doanh nghiệp là khách hàng của họ trong hiện tại và trong tương lai.
Mối quan tâm của nhóm người này là khả năng thanh toán của khách hàng đối
với các món nợ để đặt mối quan hệ lâu dài hay từ chối quan hệ kinh doanh
với doanh nghiệp. Thông qua phân tích báo cáo tài chính của các đối tác kinh
doanh, các nhà cung cấp quyết định phương thức cho vay và phương thức
thanh toán hợp lý nhằm tránh được những tổn thất trong việc thu hồi nợ quá
hạn, tới hạn và làm tăng khả năng an toàn trong kinh doanh.
 Đối với các nhà đầu tư hiện tại và tương lai
Như các đối tác tham gia kinh doanh, cổ đông,… thì yếu tố như sự rủi
ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lợi, khả năng thanh toán nợ,… là mối quan
tâm hàng đầu. Vì vậy, họ cần những thông tin về điều kiện tài chính, tình hình
hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm năng tăng trưởng của doanh
nghiệp. Các nhà đầu tư cũng rất quan tâm tới việc điều hành hoạt động và tính
hiệu quả của công tác quản lý. Phân tích báo cáo tài chính nhằm đảm bảo sự
an toàn và hiệu quả của các nhà đầu tư, giúp cho họ có quyết định có nên đầu
tư hay không đầu tư vào doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính còn rất cần thiết đối với cơ quan tài chính,
thuế, thống kê, người lao động,… Sở dĩ họ cần những thông tin tài chính này
là do họ có liên quan đến quyền lợi và trách nhiệm với doanh nghiệp, thậm
chí có quan hệ mật thiết về lợi ích kinh tế đối với người lao động. Thông qua
phân tích báo cáo tài chính, họ sẽ chủ động hơn trong quan hệ tài chính với
doanh nghiệp.
Như vậy, phân tích báo cáo tài chính của một doanh nghiệp là rất cần
thiết. Việc phân tích báo cáo tài chính tập trung vào việc mô tả quan hệ mật
thiết giữa các khoản, mục và các nhóm khoản mục để đạt được mục tiêu cần
thiết phục vụ cho doanh nghiệp và các đối tượng quan tâm khác trong việc ra
quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực
trạng và tiềm năng của doanh nghiệp.

1.1.3. Yêu cầu quản lý tài chính trong các doanh nghiệp
Quản lý tài chính là việc sử dụng các thông tin phản ánh chính xác tình
trạng tài chính của một doanh nghiệp để phân tích điểm mạnh điểm yếu của
nó và lập các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, tài sản
5


cố định và nhu cầu nhân công trong tương lai nhằm tăng lãi cổ tức của cổ
đông.
Việc quản lý tài chính bao gồm việc lập các kế hoạch tài chính dài hạn
và ngắn hạn, đồng thời quản lý có hiệu quả vốn hoạt động thực của công ty.
Đây là công việc rất quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp bởi vì nó ảnh
hưởng đến cách thức và phương thức mà nhà quản lý thu hút vốn đầu tư để
thành lập, duy trì và mở rộng công việc kinh doanh. Lập kế hoạch tài chính sẽ
cho phép qụyết định lượng nguyên liệu thô doanh nghiệp có thể mua, sản
phẩm công ty có thể sản xuất và khả năng công ty có thể tiếp thị, quảng cáo
để bán sản phẩm ra thị trường. Khi có kế hoạch tài chính, bạn cũng có thể xác
được nguồn nhân lực doanh nghiệp cần. “Việc quản lý tài chính không có
hiệu quả là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại của các công ty, không
kể công ty vừa và nhỏ hay các tập đoàn công ty lớn.”
Lập kế hoạch tài chính gồm lập kế hoạch trong ngắn hạn và lập kế
hoạch trong dài hạn. Kế hoạch tài chính ngắn hạn là việc lập kế hoạch về lợi
nhuận và ngân quỹ công ty trong khi kế hoạch dài hạn thường mang tính
chiến lược và liên quan đến việc lập các mục tiêu tăng trưởng doanh thu và lợi
nhuận trong vòng từ 3 đến 5 năm.
1.2. HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP Ở
VIỆT NAM

1.2.1. Những vấn đề chung về hệ thống báo cáo tài chính
1.2.1.1. Khái niệm

Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình hình tài sản,
các khoản nợ, nguồn hình thành tài sản, tình hình tài chính cũng như kết quả
kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Nói cách khác, báo cáo tài chính là
phương tiện trình bày khả năng sinh lợi và thực trạng tài chính của doanh
nghiệp cho những người quan tâm.
1.2.1.2. Vai trò của báo cáo tài chính doanh nghiệp
Hệ thống báo cáo tài chính có những vai trò sau đây:
- Cung cấp những chỉ tiêu kinh tế tài chính cần thiết, giúp kiểm tra phân
tích một cách tổng hợp toàn diện có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh,
tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của doanh nghiệp.
6


- Cung cấp thông tin, số liệu để kiểm tra, giám sát tình hình hạch toán
kinh doanh, tình hình chấp hành chính sách chế độ kế toán - tài chính của
doanh nghiệp.
- Cung cấp thông tin và số liệu để phân tích đánh giá tình hình, khả
năng về tài chính - kinh tế của doanh nghiệp, giúp cho công tác dự báo và lập
kế hoạch tài chính ngắn hạn và dài hạn của doanh nghiệp.
1.2.1.3. Mục đích của báo cáo tài chính doanh nghiệp
Hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập với mục đích
sau:
- Tổng hợp và trình bày một cách tổng quát và toàn diện tình hình biến
động về tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu, tình hình kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán.
- Cung cấp các thông tin kinh tế tài chính chủ yếu cho việc đánh giá,
phân tích tình hình kết quả hoạt động kinh doanh, thực trạng tài chính của
doanh nghiệp trong kỳ hoạt động vừa qua, làm cơ sở để đưa ra các quyết định
kinh tế trong tương lai. Thông tin của báo cáo tài chính là căn cứ quan trọng
trong việc đề ra các quyết định về quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh

doanh hoặc đầu tư vào doanh nghiệp của chủ sở hữu, các nhà đầu tư, các chủ
nợ hiện tại và tương lai của doanh nghiệp.
1.2.2. Nguyên tắc lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp
Để đáp ứng những yêu cầu và mục đích của hệ thống báo cáo tài chính
trong quản lý doanh nghiệp, khi lập các báo cáo tài chính phải đảm bảo đầy
đủ và quán triệt những nguyên tắc sau đây:
1.2.2.1. Nguyên tắc “Hoạt động liên tục”
Nguyên tắc này đòi hỏi khi lập và trình bày báo cáo tài chính, Giám
đốc (hoặc người đứng đầu doanh nghiệp) cần phải đánh giá về khả năng hoạt
động liên tục của doanh nghiệp. Nguyên tắc hoạt động liên tục cho biết doanh
nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình
thường trong tương lai gần, trừ khi doanh nghiệp có ý định hoặc bắt buộc phải
ngừng hoạt động, hoặc phải thu hẹp đáng kể qui mô hoạt động của mình. Để
đánh giá khả năng hoạt động liên tục của doanh nghiệp, Giám đốc (hoặc
người đứng đầu) doanh nghiệp cần phải xem xét đến mọi thông tin có thể dự
7


đoán được tối thiểu trong vòng 12 tháng tới kể từ ngày kết thúc niên độ kế
toán.
1.2.2.2. Nguyên tắc “Cơ sở kế toán dồn tích”
Nguyên tắc này đòi hỏi, báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được
lập theo cơ sở kế toán dồn tích, ngoại trừ các thông tin liên quan đến các
luồng tiền. Điều đó có nghĩa là: các giao dịch và sự kiện được ghi nhận vào
thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực thu, thực chi tiền và
được ghi nhận vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của các kỳ kế toán liên
quan.
1.2.2.3. Nguyên tắc “Nhất quán”
Nguyên tắc nhất quán yêu cầu việc trình bày và phân loại các khoản
mục trong báo cáo tài chính phải nhất quán từ niên độ kế toán này sang niên

độ khác, trừ khi có sự thay đổi đáng kể về bản chất hoạt động của doanh
nghiệp hoặc khi xem xét lại việc trình bày báo cáo tài chính cho thấy rằng cần
phải thay đổi để có thể trình bày một cách hợp lý hơn các giao dịch và các sự
kiện; hoặc một chuẩn mực kế toán khác yêu cầu có sự thay đổi trong việc
trình bày.
Nguyên tắc nhất quán cũng cho phép doanh nghiệp có thể trình bày báo
cáo tài chính theo một cách khác khi mua sắm hoặc thanh lý lớn các tài sản,
hoặc khi xem xét lại cách trình bày báo cáo tài chính. Việc thay đổi cách trình
bày báo cáo tài chính chỉ được thực hiện khi cấu trúc trình bày mới sẽ được
duy trì lâu dài trong tương lai hoặc nếu lợi ích của cách trình bày mới được
xác định rõ ràng. Khi có sự thay đổi, thì doanh nghiệp phải phân loại lại thông
tin mang tính so sánh sao cho bảo đảm tính so sánh của chỉ tiêu và phải giải
trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo
tài chính.
1.2.2.4. Nguyên tắc “Trọng yếu”
Nguyên tắc trọng yếu cho thấy, một thông tin được coi là trọng yếu nếu
không trình bày hoặc trình bày thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai
lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của
người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào quy mô và
tính chất của khoản mục được đánh giá trong các tình huống cụ thể nếu các
8


khoản mục này không được trình bày riêng biệt. Nguyên tắc trọng yếu đòi hỏi
từng khoản mục trọng yếu phải được trình bày riêng biệt trong báo cáo tài
chính. Các khoản mục không trọng yếu thì không phải trình bày riêng rẽ mà
được tập hợp vào những khoản mục có cùng tính chất hoặc chức năng trong
báo cáo tài chính hoặc trình bày trong thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy
nhiên, có những khoản mục không được coi là trọng yếu để có thể được trình
bày riêng biệt trên báo cáo tài chính, nhưng lại được coi là trọng yếu để trình

bày riêng biệt trong phần thuyết minh báo cáo tài chính.
Nguyên tắc trọng yếu không bắt buộc doanh nghiệp phải nhất thiết tuân
thủ các quy định về trình bày báo cáo tài chính của các chuẩn mực kế toán cụ
thể nếu các thông tin đó không có tính trọng yếu.
1.2.2.5. Nguyên tắc “Bù trừ”
Nguyên tắc bù trừ chỉ rõ: các khoản mục tài sản và nợ phải trả trình bày
trên báo cáo tài chính không được bù trừ, trừ khi chuẩn mực kế toán khác quy
định hoặc cho phép bù trừ.
1.2.2.6. Nguyên tắc “So sánh”
Nguyên tắc so sánh đòi hỏi các thông tin phản ánh trong báo cáo tài
chính kỳ này phải đảm bảo so sánh được với thông tin phản ánh trong báo cáo
tài chính của kỳ trước. Khi thay đổi cách trình bày hoặc cách phân loại các
khoản mục trong báo cáo tài chính, phải phân loại lại các số liệu so sánh (trừ
khi việc này không thể thực hiện được) nhằm đảm bảo khả năng so sánh với
kỳ hiện tại, và phải trình bày tính chất, số liệu và lý do việc phân loại lại. Nếu
không thực hiện được việc phân loại lại các số liệu tương ứng mang tính so
sánh thì doanh nghiệp cần phải nêu lý do và tính chất của những thay đổi nếu
việc phân loại lại các số liệu được thực hiện.
1.2.3. Hệ thống báo cáo tài chính
Theo Quyết định 15/2006/QĐ - BTC, hệ thống báo cáo tài chính nếu
xét về niên độ lập bao gồm báo cáo tài chính năm và báo cáo tài chính tài
chính giữa niên độ. Hệ thống báo cáo tài chính năm được áp dụng cho tất cả
các loại hình doanh nghiệp thuộc các ngành và các thành phần kinh tế. Hệ
thống báo cáo tài chính giữa niên độ được áp dụng cho doanh nghiệp Nhà

9


nước, các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán và các doanh
nghiệp khác khi tự nguyện lập báo cáo tài chính giữa niên độ.

Hệ thống Báo cáo tài chính ban hành theo Quyết định 15/2006/QĐ-TC
bao gồm các mẫu biểu báo cáo sau:
 Báo cáo tài chính năm: gồm 4 mẫu biểu báo cáo:
- Bảng cân đối kế toán
Mẫu số B01 - DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
Mẫu số B02 - DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Mẫu số B03 - DN
- Thuyết minh báo cáo tài chính
Mẫu số B09 - DN
 Báo cáo tài chính giữa niên độ: gồm báo cáo tài chính giữa niên
độ dạng đầy đủ và báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược:
Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng đầy đủ gồm:
- Bảng cân đối kế toán giữa niên độ (dạng đầy đủ), mẫu số B01a - DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng đầy đủ),
mẫu số B02a-DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng đầy đủ), mẫu B03a-DN
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính chọn lọc, mẫu số B09a-DN
Báo cáo tài chính giữa niên độ dạng tóm lược gồm:
- Bảng cân đối kế toán (dạng tóm lược), mẫu số B01b-DN
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh giữa niên độ (dạng tóm lược),
mẫu số B02b-DN
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa niên độ (dạng tóm lược), mẫu B03bDN
- Bản thuyết minh Báo cáo tài chính chọn lọc, mẫu số B09b-DN
1.2.3.1. Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01 - DN)
1.2.3.1.1. Khái niệm và ý nghĩa của bảng cân đối kế toán
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh một cách
tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của đơn vị tại một thời điểm nhất định, theo
hai cách phân loại là kết cấu nguồn vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn

kinh doanh.

10


Số liệu trên bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có
của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản, nguồn vốn. Căn cứ vào bảng cân
đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Về mặt kinh tế, qua xem xét phần tài sản, cho phép đánh giá tổng quát
năng lực và trình độ sử dụng vốn. Khi xem xét phần nguồn vốn, người sử
dụng thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Về mặt pháp lý, phần tài sản thể hiện số tiềm lực mà doanh nghiệp có
quyền quản lý, sử dụng lâu dài gắn với mục đích thu được các khoản lợi ích
trong tương lai. Phần nguồn vốn cho phép người sử dụng bảng cân đối kế
toán thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng ký kinh
doanh với Nhà nước, về số tài sản đã hình thành bằng vốn vay ngân hàng và
vốn vay đối tượng khác cũng như trách nhiệm phải thanh toán các khoản nợ
với người lao động, với người cho vay, với nhà cung cấp, với cổ đông, với
ngân sách Nhà nước…
1.2.3.1.2. Nguồn số liệu để lập bảng cân đối kế toán
Khi lập bảng cân đối kế toán, nguồn số liệu được lấy từ:
- Bảng cân đối kế toán ngày 31/12 năm trước
- Sổ kế toán tổng hợp và chi tiết (sổ cái và sổ chi tiết) các tài khoản có
số dư cuối kỳ phản ánh tài sản, công nợ và nguồn vốn chủ sở hữu của doanh
nghiệp.
1.2.3.1.3. Kết cấu của Bảng cân đối kế toán (Mẫu số B01-DN)
Bảng cân đối kế toán được thể hiện dưới dạng bảng cân đối số dư các
tài khoản kế toán và sắp xếp trật tự các chỉ tiêu theo yêu cầu quản lý. Bảng
cân đối kế toán được chia làm 2 phần là phần “Tài sản” và phần “Nguồn
vốn”.

Phần “Tài sản” cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm lập báo cáo đang tồn tại dưới dạng các hình thái và trong tất cả
các giai đoạn, các khâu của quá trình kinh doanh. Trên cơ sở tổng số tài sản
và kết cấu tài sản hiện có mà có thể đánh giá một cách tổng quát quy mô tài
sản năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Tài sản được chia thành hai mục là:
A. Tài sản ngắn hạn
11


B. Tài sản dài hạn
Phần “Nguồn vốn” phản ánh nguồn hình thành các loại tài sản của
doanh nghiệp đến cuối kỳ hạch toán. Các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn được sắp
xếp theo từng nguồn hình thành tài sản của đơn vị (nguồn vốn của bản thân
doanh nghiệp - vốn chủ sở hữu, nguồn vốn đi vay, nguồn vốn chiếm dụng…)
Nguồn vốn được chia thành hai mục:
A. Nợ phải trả
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
Tính chất cơ bản của Bảng cân đối kế toán là tính cân đối giữa tài sản
và nguồn vốn, được thể hiện như sau:
Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn
Ngoài các chỉ tiêu phản ánh trong bảng cân đối kế toán, còn có các chỉ
tiêu ngoài Bảng cân đối kế toán như: tài sản thuê ngoài; vật tư, hàng hoá nhận
giữ hộ, nhận gia công; hàng hoá nhận bán hộ, nhận ký gửi; nợ khó đòi đã xử
lý; ngoại tệ các loại; hạn mức kinh phí còn lại.
1.2.3.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Mẫu số B02 - DN)
1.2.3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa
Báo cáo kết quả kinh doanh (BCKQKD) là một báo cáo tài chính kế
toán tổng hợp phản ánh tổng quát doanh thu, chi phí và kết quả kinh doanh
trong một kỳ kế toán.

Báo cáo kết quả kinh doanh là tài liệu quan trọng cung cấp số liệu cho
người sử dụng thông tin có thể kiểm tra phân tích và đánh giá kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và các
doanh nghiệp khác trong cùng ngành để nhận biết khái quát kết quả hoạt động
của doanh nghiệp trong kỳ và xu hướng vận động nhằm đưa ra các quyết định
quản lý và quyết định tài chính cho phù hợp.
1.2.3.2.2. Nguồn số liệu để lập BCKQKD
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được lập dựa
trên nguồn số liệu sau:
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước
- Sổ kế toán trong kỳ của các tài khoản từ loại 5 đến loại 9

12


1.2.3.2.3. Nguyên tắc lập BCKQKD
Việc lập và trình bày báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh phải tuân
thủ 6 nguyên tắc được quy định tại chuẩn mực số 21 - Trình bày báo cáo tài
chính là: Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu và tập hợp,
bù trừ, có thể so sánh.
Lấy doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ cộng doanh thu
hoạt động tài chính trong kỳ trừ đi các khoản chi phí trong kỳ (kể cả chi phí
hoạt động tài chính) sẽ được lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trong kỳ; lấy
thu nhập khác trừ chi phí khác sẽ được lợi nhuận từ hoạt động khác. Tổng lợi
nhuận từ hoạt động kinh doanh và lợi nhuận từ hoạt động khác là tổng lợi
nhuận trước thuế trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp sẽ được chỉ tiêu
lợi nhuận sau thuế
1.2.3.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Mẫu số B03 – DN)
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh việc
hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh

nghiệp. Thông tin về lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp cung cấp cho người
sử dụng thông tin có cơ sở để đánh giá khả năng tạo ra các khoản tiền và việc
sử dụng những khoản tiền đã tạo ra đó trong hoạt động SXKD của doanh
nghiệp.
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam số 24 “Báo cáo lưu chuyển tiền tệ”,
tiền tại quỹ, tiền đang chuyển và các khoản tiền gửi không kỳ hạn, còn các
khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn (không quá 3 tháng kể
từ ngày mua khoản đầu tư đó), có khả năng chuyển đổi dễ dàng thành một
lượng tiền xác định và không có nhiều rủi ro trong chuyển đổi thành tiền (kỳ
phiếu ngân hàng, tín phiếu kho bạc, chứng chỉ gửi tiền…). Doanh nghiệp
được trình bày các luồng tiền từ các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư
và hoạt động tài chính theo cách thức phù hợp nhất với đặc điểm kinh doanh
của doanh nghiệp.
Có hai phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Phương pháp gián
tiếp và phương pháp trực tiếp. Hai phương pháp này chỉ khác nhau trong phần
I “Lưu chuyển tiền từ hoạt động sản xuất – kinh doanh”, còn phần II “Lưu

13


chuyển tiền từ hoạt động đầu tư” và phần III “Lưu chuyển tiền từ hoạt động
tài chính” thì giống nhau.

Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp trực tiếp
Theo phương pháp này, báo cáo Lưu chuyển tiền tệ được lập bằng cách
xác định và phân tích trực tiếp các khoản thực thu, thực chi bằng tiền theo
từng nội dung thu, chi trên các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết của doanh
nghiệp.

Lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo phương pháp gián tiếp

Theo phương pháp gián tiếp, báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập bằng
cách điều chỉnh lợi nhuận trước thuế thu nhập doanh nghiệp của hoạt động
sản xuất kinh doanh khỏi ảnh hưởng của các khoản mục không phải bằng tiền,
các thay đổi trong kỳ của hàng tồn kho, các khoản phải thu, phải trả từ hoạt
động kinh doanh và các khoản mà ảnh hưởng về tiền của chúng thuộc hoạt
động đầu tư. Luồng tiền từ hoạt động kinh doanh được tiếp tục điều chỉnh với
sự thay đổi vốn lưu động, chi phí trả trước dài hạn và các khoản thu, chi khác
từ hoạt động kinh doanh.
1.2.3.4. Thuyết minh báo cáo tài chính (Mẫu số B09 - DN)
Bản thuyết minh báo cáo tài chính là một báo cáo kế toán tài chính tổng
quát nhằm mục đích giải trình và bổ sung, thuyết minh những thông tin về
tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp
trong kỳ báo cáo, mà chưa được trình bày đầy đủ, chi tiết hết trong các báo
cáo tài chính khác.
Căn cứ chủ yếu để lập bản Thuyết minh báo cáo tài chính là:
- Bảng cân đối kế toán của kỳ báo cáo (Mẫu B01 – DN)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ báo cáo (Mẫu B02 – DN)
- Báo cáo thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước
- Tình hình thực tế của doanh nghiệp và các tài liệu khác có liên quan
Để bản thuyết minh báo cáo tài chính phát huy tác dụng cung cấp bổ
sung, thuyết minh thêm các tài liệu, chi tiết cụ thể cho các đối tượng sử dụng
thông tin khác nhau ra được quyết định phù hợp với mục đích sử dụng thông
tin của mình, đòi hỏi phải tuân thủ các quy định sau:

14


- Đưa ra các thông tin về cơ sở lập báo cáo tài chính và các chính sách
kế toán cụ thể được chọn và áp dụng đối với các giao dịch và các sự kiện
quan trọng.

- Trình bày các thông tin theo các quy định của các chuẩn mực kế toán
mà chưa được trình bày trong các báo cáo tài chính khác.
- Cung cấp thông tin bổ sung chưa được trình bày trong các báo cáo tài
chính khác nhưng lại cần thiết cho việc trình bày trung thực và hợp lý.
- Phần trình bày bằng lời văn phải ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu. Phần
trình bày bằng số liệu phải đảm bảo thống nhất với số liệu trên các báo cáo tài
chính khác. Mỗi khoản mục trong Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh
doanh và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần được đánh dấu dẫn tới các thông tin
liên quan trong Bản thuyết minh báo cáo tài chính.
1.3. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH NHẰM TĂNG
CƯỜNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI CÁC DOANH NGHIỆP

Phương pháp phân tích báo cáo tài chính kế toán là một hệ thống các
công cụ, biện pháp, các kỹ thuật và cách thức nhằm tiếp cận, nghiên cứu các
hiện tượng và các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng tiền chuyển
dịch và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm
đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất
định. Từ đó giúp các đối tượng sử dụng báo cáo tài chính kế toán có các quyết
định phù hợp tuỳ theo mục đích và yêu cầu của từng đối tượng. Để đáp ứng
nhu cầu của mọi đối tượng sử dụng báo cáo tài chính kế toán, người ta có
nhiều phương pháp phân tích khác nhau như phương pháp so sánh, phương
pháp loại trừ, phương pháp liên hệ, phương pháp hồi quy tương quan… để có
thể nắm được thực trạng tài chính của doanh nghiệp dưới nhiều góc độ, phục
vụ cho nhiều mục đích khác nhau.
1.3.1. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích báo cáo
tài chính nhằm nghiên cứu kết quả, sự biến động và mức độ biến động của chỉ
tiêu phân tích.

15



So sánh số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu
hướng thay đổi tình hình tài chính doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay
tụt lùi trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
• So sánh số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu
của doanh nghiệp.
• So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số trung bình của ngành,
của các doanh nghiệp khác để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp
mình là tốt hay xấu, được hay chưa được.
So sánh có ba hình thức: so sánh theo chiều dọc, so sánh theo chiều
ngang và so sánh theo xu hướng.
- So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu với tổng
thể.
- So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy được sự biến đổi cả về
số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các kỳ tiếp theo.
- So sánh theo xu hướng thường dùng số liệu từ ba năm trở lên để thấy
được sự tiến triển của các chỉ tiêu so sánh đặt trong mối quan hệ với các chỉ
tiêu khác làm nổi bật sự biến động về tình hình tài chính hiện tại và dự đoán
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong tương lai.
Khi tiến hành so sánh phải giải quyết các vấn đề về điều kiện so sánh
và tiêu chuẩn so sánh:
Điều kiện so sánh được: Khi so sánh theo thời gian, các chỉ tiêu cần
thống nhất về nội dung kinh tế, về phương pháp và đơn vị tính. Khi so sánh
về không gian, thường là so sánh trong một ngành nhất định nên cần phải quy
đổi về cùng một quy mô với các điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Tiêu chuẩn so sánh được: Là các chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh
(còn gọi là kỳ gốc). Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của phân tích mà chọn các
chỉ tiêu chuẩn so sánh thích hợp.
Để phục vụ cho mục đích cụ thể của phân tích, phương pháp so sánh

thường được sử dụng dưới các dạng sau:
So sánh bằng số tuyệt đối:

16


Khi so sánh bằng số tuyệt đối, các nhà phân tích sẽ biết được qui mô
biến động (mức tăng hay giảm) của chỉ tiêu nghiên cứu giữa kỳ phân tích so
với kỳ gốc biểu hiện bằng tiền, hiện vật hay giờ công cụ thể.
So sánh bằng số tương đối:
Số tương đối phản ánh kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển và mức
độ phổ biến của chỉ tiêu nghiên cứu. Do vậy, so sánh bằng số tương đối, các
nhà quản lý sẽ nắm được xu hướng biến động của các chỉ tiêu.
So sánh bằng số bình quân:
Số bình quân phản ánh mức độ bình quân hay đặc điểm điển hình của 1
tổ, 1 bộ phận, 1 đơn vị,… Khi so sánh bằng số bình quân, các nhà quản lý sẽ
biết được mức độ mà doanh nghiệp đạt được so với bình quân chung của tổng
thể, của ngành… Từ đó, xác định được vị trí của doanh nghiệp trong tổng thể,
trong ngành. [1, 17-20]
1.3.2. Phương pháp chi tiết chỉ tiêu phân tích
Việc chi tiết chỉ tiêu phân tích theo các khía cạnh khác nhau giúp cho
việc đánh giá kết quả kinh doanh được chính xác hơn. Thông thường trong
phân tích, phương pháp chi tiết được thực hiện theo những hướng sau:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành chỉ tiêu;
- Chi tiết theo thời gian;
- Chi tiết theo địa điểm.
Sau đó, nhà phân tích mới tiến hành so sánh mức độ đạt được của từng
bộ phận giữa kỳ phân tích so với kỳ gốc và mức độ ảnh hưởng của từng bộ
phận đến tổng thể cũng như xem xét tiến độ thực hiện và kết quả đạt được
trong từng thời gian. Việc nghiên cứu các chỉ tiêu phân tích theo phương

hướng khác nhau sẽ giúp các nhà quản lý nắm được tác động của các giải
pháp mà doanh nghiệp áp dụng trong từng bộ phận cấu thành, từng thời gian
hay địa điểm để từ đó tìm ra cách cải tiến các giải pháp cũng như điều kiện
vận dụng từng giải pháp một cách có hiệu quả. [1, 14-17]
1.3.3. Phương pháp loại trừ
Phương pháp loại trừ được sử dụng nhằm xác định xu hướng và mức
độ ảnh hưởng của lần lượt từng nhân tố đến chỉ tiêu phân tích. Theo phương

17


pháp này, khi nghiên cứu ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh
hưởng của các nhân tố còn lại.
Phương pháp loại trừ được sử dụng trong phân tích dưới hai cách là
phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch:
Phương pháp thay thế liên hoàn
Thay thế liên hoàn là phương pháp thay thế lần lượt từng nhân tố từ giá
trị gốc sang kỳ phán tích để xác định mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến
chỉ tiêu nghiên cứu. Các nhân tố chưa được thay thế phải giữ nguyên kỳ gốc.
Sau đó, so sánh trị số của chỉ tiêu nghiên cứu vừa tính được với trị số của chỉ
tiêu nghiên cứu trước khi thay thế nhân tố. Mức chênh lệch về trị số của chỉ
tiêu nghiên cứu sau và trước khi thay thế nhân tố chính là ảnh hưởng của nhân
tố đó đến sự biến động của chỉ tiêu.
Để áp dụng phương pháp thay thế liên hoàn cần đảm bảo điều kiện và
trình tự sau:
- Xác định chỉ tiêu phản ánh đối tượng nghiên cứu;
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng
nghiên cứu. Các nhân tố này phải có quan hệ chặt chẽ với chỉ tiêu phản ánh
đối tượng nghiên cứu dưới dạng tích số hoặc thương số.
- Sắp xếp các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phản ánh đối tượng

nghiên cứu vào một công thức toán học theo thứ tự từ nhân tố số lượng đến
chất lượng.
- Thay thế lần lượt giá trị của từng nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu
nghiên cứu. Có bao nhiêu nhân tố thì có bấy nhiêu lần và nhân tố nào đã thay
thế thì giữ nguyên giá trị đã thay thế (kỳ phân tích) cho đến lần thay thế cuối
cùng. Sau mỗi lần thay thế trị số của từng nhân tố, phải xác định mức độ ảnh
hưởng của nhân tố vừa thay thế đến sự biến động của chỉ tiêu phản ánh đối
tượng (nếu có);
- Tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố đến sự biến động của chỉ tiêu
nghiên cứu giữa kỳ phân tích và kỳ gốc.
Phương pháp chênh lệch
Điều kiện và trình tự vận dụng phương pháp số chênh lệch cũng tương
tự như phương pháp thay thế liên hoàn, chỉ khác ở chỗ: để xác định mức độ
18


ảnh hưởng của nhân tố nào thì trực tiếp dùng số chênh lệch về giá trị kỳ phân
tích so với kỳ gốc của nhân tố đó để xác định. [1, 20-24]
1.3.4. Phương pháp liên hệ cân đối
Mọi chỉ tiêu tài chính đều có mối liên hệ với nhau giữa các mặt, các bộ
phận… Để lượng hoá các mối liên hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu trên,
trong phân tích báo cáo tài chính còn sử dụng phổ biến các cách nghiên cứu
liên hệ phổ biến như: liên hệ cân đối, liên hệ trực tuyến và liên hệ phi tuyến.
Liên hệ cân đối có cơ sở là sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các
yếu tố và quá trình kinh doanh: giữa tổng số vốn và tổng số nguồn vốn, giữa
nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các quỹ, các loại vốn giữa nhu cầu
và khả năng thanh toán, giữa nguồn vốn mua sắm và tình hình sử dụng các
loại vật tư, giữa thu với chi,…
Liên hệ trực tuyến là mối liên hệ theo một hướng xác định giữa các chỉ
tiêu phân tích. Chẳng hạn, lợi nhuận có quan hệ cùng chiều với lượng hàng

bán ra, giá bán có quan hệ ngược chiều với giá thành, tiền thuế,… Trong mối
liên hệ trực tuyến này, theo mức độ phụ thuộc các chỉ tiêu có thể phân thành
hai loại quan hệ chủ yếu:
- Liên hệ trực tuyến giữa các chỉ tiêu nhu giữa lợi nhuận với giá bán,
giá thành, tiền thuế,… Trong trường hợp này các mối liên hệ không qua một
chỉ tiêu liên quan nào: Giá bán tăng sẽ làm tăng lợi nhuận, giá thành giảm lợi
nhuận cũng tăng…
- Liên hệ gián tiếp là quan hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ phụ
thuộc giữa chúng được xác định bằng một hệ số riêng.
Liên hệ phi tuyến là mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong đó mức độ liên
hệ không được xác định theo tỷ lệ và chiếu hướng liên hệ luôn biến đổi, trong
trường hợp này, mối liên hệ giữa các chỉ tiêu phân tích (hàm số) với các nhân
tố (biến số) thường có dạng hàm luỹ thừa. Để quy về hàm tuyến tính người ta
dùng các thuật toán khác nhau như phép Loga, bảng tương quan và chương
trình chuẩn tắc… [1, 24-28]
1.3.5. Phương pháp hồi quy tương quan
Phương pháp tương quan là quan sát mối liên hệ giữa một tiêu thức kết
quả và một hoặc nhiều tiêu thức nguyên nhân nhưng ở dạng liên hệ thực. Còn
19


hồi quy là một phương pháp xác định độ biến thiên của tiêu thức kết quả theo
sự biến thiên của tiêu thức nguyên nhân. Bởi vậy, hai phương pháp này có
liên quan chặt chẽ với nhau và có thể tắt là phương pháp hồi quy tương quan.
Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ giữa một tiêu thức kết quả và một tiêu
thức nguyên nhân gọi là tương quan đơn. Nếu quan sát, đánh giá mối liên hệ
giữa một tiêu thức kết quả và nhiều nguyên nhân thì gọi là tương quan bội [1,
28-38].
1.3.6. Phương pháp Dupont
Phương pháp Dupont nhằm đánh giá sự tác động tương hỗ giữa các tỷ

số tài chính bằng cách biến một chỉ tiêu tổng hợp thành hàm số của một loạt
các biến số. Ví dụ như tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của
doanh nghiệp như suất sinh lợi của tài sản (thu nhập trên tài sản - ROA), suất
sinh lợi của vốn chủ sở hữu (thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu - ROE)
thành tích số của chuỗi tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho
phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó với tỷ số tổng hợp.
1.3.7. Phương pháp đồ thị
Phương pháp này dùng để minh hoạ các kết quả tài chính thu được
trong quá trình phân tích bằng các biểu đồ, sơ đồ,… Phương pháp đồ thị giúp
người phân tích thể hiện được rõ ràng, trực quan về diễn biến của các đối
tượng nghiên cứu và nhanh chóng có phân tích định hướng các chỉ tiêu tài
chính để tìm ra nguyên nhân sự biến đổi các chỉ tiêu, từ đó kịp thời đưa ra các
biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
1.4. NỘI DUNG PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Xuất phát từ nhu cầu thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp
và các đối tượng quan tâm khác, phân tích báo cáo tài chính phải đạt được các
mục tiêu sau:
• Phân tích báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin để đánh giá rủi
ro từ hoạt động đầu tư cho vay của nhà đầu tư, ngân hàng.
• Phân tích báo cáo tài chính phải cung cấp thông tin để đánh giá khả
năng tạo ra tiền và tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp.
• Phân tích báo cáo tài chính phải làm rõ sự biến đổi của tài sản,
nguồn vốn và các tác nhân gây ra sự biến đổi đó.
20


Trên cơ sở đó, ta có thể đề xuất các biện pháp hữu hiệu và ra quyết định
cần thiết để nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh doanh và nâng cáo
hiệu quả kinh doanh. Để cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết có giá trị về

xu thế phát triển của doanh nghiệp, về các mặt mạnh, mặt yếu của hoạt động
tài chính chúng ta sẽ tiến hành phân tích các nội dung chủ yếu về tình hình tài
chính của doanh nghiệp sau đây:
- Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
- Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Phân tích tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Phân tích hiệu quả kinh doanh
- Phân tích rủi ro tài chính
- Dự báo các chỉ tiêu tài chính
Sau đây chúng ta đi sâu phân tích cụ thể:
1.4.1. Phân tích báo cáo tài chính để đánh giá khái quát tình hình tài
chính của doanh nghiệp
Sử dụng báo cáo tài chính để đánh giá khái quát tình hình tài chính của
doanh nghiệp là việc xem xét, nhận định về tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin khái quát về
tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ là khả quan hay không khả
quan.
Trước hết, cần tiến hành so sánh tổng số tài sản và tổng nguồn vốn giữa
cuối kỳ và đầu năm. Bằng cách này sẽ thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử
dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Cần lưu ý
là số tổng cộng “Tài sản” và “Nguồn vốn” tăng, giảm do nhiều nguyên nhân
nên chưa biểu hiện đầy đủ tình hình tài chính của doanh nghiệp được. Vì thế
cần đi phân tích các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính được thực hiện bằng cách tính ra
và so sánh giữa cuối kỳ với đầu kỳ, so sánh kỳ này với kỳ trước… các chỉ tiêu
sau:
- Hệ số tài trợ:

21



Hệ số tài trợ là chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính
và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp.
Nguồn vốn chủ sở hữu

Hệ số tài trợ =

Tổng số nguồn vốn

Hệ số tài trợ cho biết trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, nguồn
vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần. Trị số chỉ tiêu càng lớn chứng tỏ khả
năng tự bảo đảm về tài chính và mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh
nghiệp càng cao và ngược lại.
Các chủ nợ có thể căn cứ vào hệ số tài trợ của doanh nghiệp để xác
định mức độ tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn cho các món nợ
- Hệ số tự tài trợ:
Hệ số tự tài trợ là chỉ tiêu phản ánh mức độ đầu tư nguồn vốn chủ sở
hữu vào tài sản dài hạn của doanh nghiệp
Hệ số tự tài trợ

=

Nguồn vốn chủ sở hữu
Tài sản dài hạn

Trị số của chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ nguồn vốn chủ sở hữu được
đầu tư vào tài sản dài hạn càng lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này quá cao chứng
tỏ doanh nghiệp tự bảo đảm về mặt tài chính nhưng hiệu quả kinh doanh sẽ
không cao do vốn đầu tư chủ yếu vào tài sản dài hạn, ít sử dụng vào kinh

doanh quay vòng để sinh lợi
- Hệ số khả năng thanh toán tổng quát (hiện hành)
Hệ số thanh toán tổng quát là một chỉ tiêu tổng quát phản ánh khả năng
chi trả nợ của một doanh nghiệp, nó cho biết doanh nghiệp có bao nhiêu đồng
tài sản để đảm bảo cho một đồng nợ phải trả.
Hệ số khả năng
thanh toán tổng quát

=

Tổng tài sản
Tổng số nợ phải trả

Hệ số khả năng thanh toán tổng quát càng cao thì khả năng thanh toán
của doanh nghiệp càng được tin tưởng và ngược lại. Cụ thể, nếu trị số của

22


chỉ tiêu lớn hơn hoặc bằng 1 thì doanh nghiệp bảo đảm được khả năng thanh
toán và ngược lại; trị số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp càng mất khả năng
thanh toán.
- Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn(hiện thời)
Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là thước đo khả năng thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp với tổng số tài sản ngắn hiện
có.
Hệ số này được tính như sau:
Hệ số khả năng thanh
toán nợ ngắn hạn


=

Tổng giá trị thuần của tài sản ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn

Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có đủ khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính là bình thường
hoặc khả quan. Ngược lại, nếu hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn càng
nhỏ hơn 1 thì khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh (tức thời)
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả
năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp bằng tiền, các
khoản tương đương tiền và các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn. Chỉ tiêu này
cho biết doanh nghiệp có đảm bảo thanh toán kịp thời các khoản nợ ngắn hạn
hay không.
Hệ số thanh toán nhanh =

Tiền, các khoản tương đương tiền
Tổng nợ ngắn hạn

Trị số của chỉ tiêu này nếu lớn khả năng thanh toán của doanh nghiệp
tương đối khả quan, còn nếu trị số của chỉ tiêu này nhỏ hơn sẽ cho thấy doanh
nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ.
Thông thường, nếu chỉ tiêu này lớn hơn 0,5 thì doanh nghiệp được coi
là đủ khả năng thanh toán. Nếu trị số của chỉ tiêu này nhỏ hơn 0,5 thì doanh

23



nghiệp có khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán
gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán.
- Tỷ suất đầu tư
Tỷ suất đầu tư là chỉ tiêu phản ánh tỷ trọng của tài sản dài hạn chiếm
trong tổng số tài sản, nó phản ánh cấu trúc tài sản của doanh nghiệp. Tỷ suất
ngày cao hay thấp phụ thuộc lớn vào ngành nghề kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tỷ suất đầu tư =

Tài sản dài hạn
Tổng tài sản

× 100

- Hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu (suất sinh lời của nguồn
vốn chủ sở hữu): Có thể nói, hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu là
chỉ tiêu phản ánh khái quát nhất hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nó
cho biết một đơn vị nguồn vốn chủ sở hữu đầu tư vào kinh doanh thì đem lại
mấy đơn vị lợi nhuận.
Lợi nhuận
Hệ số lợi nhuận so với
nguồn vốn chủ sở hữu = Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân
Trị số của hệ số lợi nhuận so với nguồn vốn chủ sở hữu càng cao hiệu
quả sử dụng vốn càng cao và ngược lại. Đây là một chỉ tiêu mà các nhà đầu tư
đặc biệt quan tâm khi họ có ý định đầu tư vào doanh nghiệp.
Ở đây cần chú ý, khi tính chỉ tiêu này các nhà phân tích sử dụng nguồn
vốn chủ sở hữu bình quân chứ không phải là nguồn vốn chủ sở hữu tại một
thời điểm vì lợi nhuận là kết quả của cả một kỳ kinh doanh; lợi nhuận có thể
tính theo lợi nhuận sau thuế hoặc trước thuế.
Nguồn vốn chủ

=
sở hữu bình quân

Tổng nguồn vốn chủ sở hữu đầu kỳ và cuối kỳ
2

1.4.2. Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp

24


Cấu trúc tài chính của một doanh nghiệp không những phản ánh thực
trạng tài chính của doanh nghiệp mà còn phản ánh mối quan hệ giữa tình hình
huy động vốn với tình hình sử dụng vốn.
Khi phân tích cấu trúc tài chính cần xem xét cả cấu trúc tài sản, cơ cấu
nguồn vốn và mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn bởi vì cơ cấu tài sản
phản ánh tình hình sử dụng tài sản, cơ cấu nguồn vốn phản ánh tình hình huy
động vốn, còn mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn phản ánh chính sách sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
Việc phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp được bắt đầu bằng phân
tích cơ cấu tài sản.
- Phân tích cơ cấu tài sản là việc xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản
chiếm trong tổng tài sản và thông qua đó có thể đánh giá được việc bố trí,
phân bố vốn, trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý hay không.
Việc bố trí vốn hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đến việc quản lý, sử dụng vốn cũng như kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu cho từng loại tài sản được tính như sau:
Tỷ trọng của từng
bộ phận tài sản


=

Giá trị của từng bộ phận tài sản
Tổng số tài sản

25


×